Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ ĐẠI HỘI VII (1991) ĐẾN ĐẠI HỘI XI (2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.46 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI
THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ
***

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ ĐẠI HỘI VII (1991) ĐẾN
ĐẠI HỘI XI (2011)


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................... 3
NỘI DUNG................................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH NHÂN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ ĐẠI HỘI VII (1991) ĐẾN ĐẠI HỘI XI (2011)4
1.1. Đại hội lần thứ VII (1991) đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
4
1.2. Đại hội VIII(1996) tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
5
1.3. Đại hội IX(2001) phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
7
1.4. Đại hội X (2006) huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước
ra khỏi tình trạng kém phát triển.
8
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG.....................9
2.1. Đảng ta nhận thức rõ ràng hơn về mơ hình và phương hướng áp dụng chủ


nghĩa xã hội ở Việt Nam
9
2.2. Quá trình nhận thức của Đảng ta đối với mục tiêu và bản chất của công việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn
10
2.3. Nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng Sản Việt
Nam
10
2.4. Nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam............................................................................................................... 11


CHƯƠNG 3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN............................ 12
KẾT LUẬN................................................................................................................. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 15


LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Mỗi kỳ đại hội là một mốc son chói lọi phản ánh sự trưởng thành của
Đảng và cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi vĩ đại mà
Nhân dân ta đã giành được trong hơn bảy thập kỷ qua đều bắt nguồn sâu xa từ việc
Đảng ta nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.
Sau gần 20 năm tiến hành đổi mới, tình hình đất nước ta đã có những đổi thay to
lớn. Kiên trì đường lối đổi mới của Đại hội VI, được bổ sung và phát triển qua các đại
hội và hội nghị Trung ương, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đồng thời thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X đã tạo ra thế

và lực mới đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục đi vào chiều sâu. Vượt qua những khó khăn,
thử thách gay gắt, nhất là ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thối
kinh tế tồn cầu, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có nhiều chuyển biến tích
cực, kinh tế vĩ mơ cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, đời sống nhân
dân được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, vượt qua ngưỡng
của một nước thu nhập thấp. Sức mạnh quốc gia được tăng cường, vị thế và uy tín
quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp
tục phát triển mạnh hơn trong giai đoạn phát triển mới.
Tìm hiểu về quá trình nhận thức lý luận của Đảng về Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam
từ Đại hội VII (1991) đến Đại hội XI (2011) để nhìn thấy đường lối phát triển của đất
nước đồng thời tổng kết và rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu về đổi mới.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH NHÂN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ ĐẠI HỘI VII (1991) ĐẾN ĐẠI HỘI XI (2011)
1.1. Đại hội lần thứ VII (1991) đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Từ ngày 24 đến 27/6/1991, tại Thủ đô Hà Nội, Đại hội lần thứ VII diễn ra trong
bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp. Sự khủng
hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá
nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản khiến
một bộ phận những người cộng sản trên thế giới trong đó có Việt Nam lo lắng dao
động. Đất nước Việt Nam khi ấy phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các
lực lượng thù địch trong và ngoài nước, vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội, nhiều vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết.
Dựa vào việc nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, kết hợp với những
kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, đặc biệt
là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Thứ nhất, xác định sáu đặc trưng của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm:
Về chính trị: là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Về kinh tế: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ cơng hữu tư liệu sản xuất.
Về văn hóa: có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Về con người: được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng; được làm việc theo
năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, có tự do hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện cá nhân.
Các dân tộc trong nước: bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Về đổi ngoại: có quan hệ hịa bình, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên
thế giới.
Đó là những đặc trưng bản chất hay mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam mà nhân dân ta xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, mang đặc điểm của thời đại.
Thứ hai, Cương lĩnh khẳng định bốn vấn đề có tỉnh nguyên tắc của cách mạng
Việt Nam:
Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của
cách mạng Việt Nam.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là
kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Cụ thể theo Nghị quyết 01 của Bộ chính trị (1992) về cơng tác lý luận đã khẳng
định tính khoa học và sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin đồng
thời làm rõ toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh từ khái niệm, đến cơ sở hình thành, quá
trình phát


triển và nội dung. Việc chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho nền tảng tư

tưởng của Đảng là đánh đấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong
tư duy lý luận cho thấy Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trị, vị trí của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện,
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của nước ta, đồng thời là sự kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã
hội.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế tổng quát của nước ta.
Bên cạnh đó, những mục tiêu cơ bản rút ra từ sáu đặc trưng, chủ nghĩa xã hội cũng
được thể hiện một cách cụ thể hỏa trong một số Nghị quyết.
Nghị quyết trung ương 2 (1991) về cải cách bộ máy nhà nước khẳng định quyền
lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phối hợp giữa ba cơ quan lập pháp
– hành pháp – tư pháp; tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất
kinh doanh, theo đó nhà nước quản lý kinh tế bằng chính sách và luật pháp, việc tổ
chức sản xuất kinh doanh giao cho doanh nghiệp; xây dựng nhà nước pháp quyền quản
lý theo nguyên tắc tập trung - dân chủ.
Nghị quyết trung ương 7 (1994) về cơng nghiệp hóa – hiện đại hỏa khẳng định đây
là quá trình làm thay đổi toàn diện, triệt để các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý
kinh tế, văn hóa từ sử dụng lao động phổ thơng là chính sang sử dụng sức lao động với
công nghệ hiện đại, phương pháp tiên tiến, năng suất cao.
Nghị quyết trung ương 3 (1992) về đối ngoại đặt ra yêu cầu nắm vững tính hai mặt
vừa hợp tác vừa đấu tranh trong đối ngoại. Theo đó kết hợp chủ nghĩa u nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, vừa xây dựng lực lượng, giữ vững độc lập tự
chủ, vừa đa phương hóa, đa dạng hóa thơng qua việc tham gia hợp tác khu vực, mở
rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế, trước tiên là các nước trong khu vực
ASEAN và châu Á.
Từ những bài học và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường

lối đổi mới, đúng như nhận định của Đảng nêu ra tại Đại hội lần thứ X, nhận thức của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản
nhất. Tạo ra những thay đổi to lớn trên nhiều mặt, nước ta thoát khỏi thời kỳ khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
1.2. Đại hội VIII(1996) tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII diễn ra từ ngày 28/06/1996 đến
ngày 0107/1996 ở Hà Nội, trong bối cảnh đất nước đã trải qua việc thực hiện công
cuộc đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI sau hơn 10
năm và đạt được những thắng lợi to lớn, được nhân dân trong nước và quốc tế ủng hộ.
Trong kỷ Đại hội này, Đảng đã tiến hành hai nhiệm vụ quan trọng.


Thứ nhất, Đảng ta đã bổ sung, hoàn thiện các tiêu chỉ của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh


Đảng xác định rõ hơn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, hướng đến mục tiêu
"xây dựng Nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa", từ đó khẳng định tiếp tục nằm vững và triển khai hai nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời đưa nước ta sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực
hiện hai nhiệm vụ trên, Đảng xác định cần sở hữu cơ sở vật chất hiện đại; cơ cấu kinh
tế hợp lý giữa các nền nông nghiệp, công nghiệp nặng- nhẹ, và dịch vụ; quan hệ sản
xuất phải phù hợp và tiệm cận với trình độ chuyên môn cũng như năng lực của lực
lượng sản xuất. Đồng thời nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xây dựng nền quốc
phòng an ninh vững mạnh.
Đặc biệt nêu quan điểm về q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, xem đây là sự

nghiệp của tồn dân, của các thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
then chốt và khoa học công nghệ là động lực. Đồng thời tiếp tục nhấn mạnh độc lập tự
chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. Đặc biệt lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố phát triển nhanh và bền vững, kết hợp linh hoạt giữa phát triển kinh
tế với xây dựng quốc phịng, đảm bảo dựng nước đi đơi với giữ nước.
Thứ hai, căn cứ vào những định hướng đã xác định, Đại hội VIII để ra Kế hoạch
5 năm 1996-2000 nhằm hiện thực hóa mục tiêu.
Theo đó
Đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới một cách tồn diện và đồng bộ.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
Phần đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền
vững đi đối với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội.
Cải thiện đời sống nhân dẫn, nâng cao tích lũy từ nói bộ nền kinh tế.
Nhằm cụ thể kế hoạch 5 năm, nhiều nghị quyết đã được ban hành:
Nghị quyết 02 NQ HNTW năm 1996 về định hướng chiến lược phát triển khoa
học và cơng nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm
2000 do Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành đã xác định giáo dục đào tạo và
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Nghị quyết 04-NQ HNTW ngày 29 12 1997 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, phát
huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phần đấu hồn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Nghị quyết số 05-NQ TW ngày 17/10 1998 Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII về nhiệm vụ kinh tế, xã hội năm 1999 xác định văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, tiên tiến về mặt nội dung – hình thức - phương tiện truyền tải, xây dựng nền
văn hóa thống nhất đa dạng; huy động nguồn lực xây dựng văn hóa bao gồm nguồn
lực từ nhà nước, xã hội lẫn bên ngoài.
Nghị quyết số 10-NQ TW ngày 02 02 1999 Hội nghị lần thứ 6 (Lần 2) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công

tác xây dựng Đảng hiện nay khẳng định việc xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)
(1999) về một số vấn đề về tổ chức, bộ máy và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân
sách nhà nước.


Sau 5 năm thực hiện kế hoạch, thông qua công tác tổng kết, đánh giá, kiểm điểm,
Đại hội đã nêu lên được các bài học đáng chú ý về đổi mới. Theo đó, cơng cuộc đổi
mới phải ln kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu giữa đổi mới. chính trị và đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trung
tâm từ đó từng bước đổi mới chính trị một cách có hiệu quả, hơn hết cần nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng cũng như sự đoàn kết của nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt, đưa đất nước. ta
sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và
tương lai của đất nước khi bước sang thế kỷ XXI.
1.3. Đại hội IX(2001) phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Đại hội khẳng định những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng
nêu lên vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên
trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù
hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân, về đại đồn kết tồn dân tộc, về dân tộc, tơn giáo, về Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân. Hội nghị Trung ương 7 (3-2003) đã ban hành 3 Nghị quyết

quan trọng:
Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc vì “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị quyết đề cập toàn diện và tổng thể
vấn đề dân tộc ở nước ta, tập trung vào những nội dung chủ yếu và cấp bách của công
tác dân tộc trong thời kỳ mới.
Nghị quyết về cơng tác dân tộc mà trong đó các dân tộc trong đại gia đình Việt
Nam phải bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn
đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết về công tác tôn giáo khẳng định, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất qn
chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một
tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật.
Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức
phân phối, chủ yếu phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội.


1.4. Đại hội X (2006) huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
Các văn kiện của Đại hội trình bày toàn diện những nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới, nổi bật với là nhiệm vụ trọng tâm “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện
cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
Đại hội đã chỉ ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện sự nghiệp đổi mới
trong những năm tiếp theo. Những bài học đó là: Một là, trong quá trình đổi mới phải

kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực
tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ
ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Năm
là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X, lần đầu tiên đặt chú trọng hàng đầu đến nhiệm vụ then chốt là xây
dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây là thành tố đầu tiên của chủ đề Đại hội. Cái mới của Đại
hội X là làm sáng tỏ bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc.
Nội dung mới trong thành tố thứ hai chủ đề Đại hội X là “phát huy sức mạnh toàn
dân tộc”. Muốn đoàn kết phải phải lấy mục tiêu chung của toàn dân tộc là giữ vững
độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ,
văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng
lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngồi. Điểm mới từ đây
là xố bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp;
tôn trọng những ý kiến khác nhau khơng trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền
thống nhận nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn
định chính trị và đồng thuận xã hội.
Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Các văn kiện được thơng qua tại Đại hội X là kết tinh trí tuệ và ý chí
của tồn Đảng, tồn dân quyết tâm đổi mới toàn diện, phát triển với tốc độ nhanh và
bền vững hơn trong thời kỳ mới.


CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG

2.1. Đảng ta nhận thức rõ ràng hơn về mơ hình và phương hướng áp dụng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã
trải qua một q trình lâu dài và khơng đơn giản. Trong q trình đó Đảng Cộng sản
Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tịi, sáng tạo
trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Một là, nhận thức về mục tiêu và bản chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ngày càng đầy đủ hơn ở Việt Nam:
Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng tới sự phát
triển dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là sự đoàn kết dân tộc, có
chính sách dân tộc bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở
một quốc gia đa tộc như người Việt Nam. Một trong những nét mới trong tư duy đổi
mới là, Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác. Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Phát triển tư tưởng đó, từ sau Đại hội
VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương đồn kết, hợp tác, hữu nghị và hịa bình để phát
triển, Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song phương
và đa phương.
Hai là, nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng sản Việt
Nam:
Đảng ta nhấn mạnh, phải chú trọng nâng cao nhận thức khoa học đối với chủ nghĩa
Mác - Lênin, bởi trong quá khứ, đã có lúc chúng ta đã rơi vào giản đơn, giáo điều
trong nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và hậu quả rất nghiêm trọng. Vì vậy, việc
nhận thức lại và nhận thức đúng về chủ nghĩa Mác và thẳng thắn chủ động sửa sai là
hết sức quan trọng, bởi nhận thức đúng thì hành động đúng, nhận thức sai hành động
sai. Việc sửa chữa khuyết điểm, sai lầm phải bắt đầu từ sự sửa sai trong nhận thức để
đi tới sửa sai trong hoạt động thực tiễn.
Ba là, nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam:

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đại
đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là động lực quan trọng hàng đầu và có ý
nghĩa quyết định đối với thành cơng của sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong tương lai. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con
người, tính tích cực, chủ động, năng động của nhân dân được tăng lên. Kết hợp hài hịa
lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người. Đảng ta nhận
thức rằng, làm cho mỗi con người quan tâm tới lợi ích chính đáng của mình, lấy đó
làm động lực trực tiếp, thúc đẩy mạnh mẽ nhất hoạt động của họ sẽ góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ q trình xây dựng xã hội mới.


2.2. Quá trình nhận thức của Đảng ta đối với mục tiêu và bản chất của công việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn
Đảng ta hiểu rất rõ rằng khơng thể tiến hành đổi mới chính trị một cách vội vã khi
chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới hạn, khơng có mục tiêu cụ thể và
khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự
nghiệp đổi mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng xác định ổn
định kinh tế “không phải là hạn chế các hoạt động kinh tế, mà là một qúa trình vận
động tiến lên, vừa phát triển, vừa điều chỉnh các quan hệ tỷ lệ của nền kinh tế quốc
dân”.
Điều quan trọng đầu tiên là “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm
đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp” .Trên
cơ sở nhận thức đúng đắn này, Đảng từng bước hoàn thiện nhận thức về đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị. Theo đó, “đổi mới kinh tế” là q trình chuyển đổi nền kinh tế
từ cơ chế tập trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); là

bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở”, hội nhập, kết
hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái. “Đổi mới chính trị” là đổi mới tư duy chính trị về chủ
nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế
vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng;
đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn định
chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ
XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân do Đảng lãnh đạo.
2.3. Nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng
có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Bây giờ
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Người, từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, năm 1991, trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động”. Sự kiện này đánh dấu một bước bước tiến mới, quan
trọng trong tư duy lý luận; thể hiện nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn với vai trị, vị trí
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để xây dựng được nhận định trên, đòi hỏi phải nắm vững bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lập trường cách mạng
triệt để, hệ quan điểm khoa học và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn những vấn đề của cách mạng
Việt Nam và thời đại đặt ra.
Từ điều kiện thực tiễn của cách mạng, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa cách mạng Việt Nam giành
được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là minh chứng sống động và thuyết



phục, khẳng định tính đúng đắn của cách mạng Việt Nam trong việc lựa chọn con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng


Hồ Chí Minh.Trong q trình đổi mới và phát triển địi hỏi Đảng ta phải khơng ngừng
vận dụng, phát triển và sáng tạo hơn nữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm giải đáp được những vấn đề mới xuất hiện trong thực tiễn, tiếp tục làm
sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện mới của thời đại.
2.4. Nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Nhìn nhận từ hệ thống động lực phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, có
thể đưa ra ba loại động lực trọng tâm:
Một là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Đại đồn kết tồn dân tộc đóng vai trị là nguồn sức mạnh và được xem là động
lực quan trọng hàng đầu. Ở khía cạnh quan hệ dân tộc, trong các Văn kiện trước đây
đâu dừng lại ở mức “tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ”. Đến Đại hội XI, đã có một bổ
sung quan trọng, nhấn mạnh rằng các quan hệ dân tộc (đa số - thiểu số) dựa trên sự
“tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Đây là một điểm nhấn đảm bảo giải quyết
đúng đắn quan hệ dân tộc, chính sách dân tộc trong một nước có kết cấu đa dân tộc tộc người như nước ta.
Hai là, phát huy tính dân chủ trong chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của đổi mới, phát triển. Tính dân chủ ngày càng được Đảng chú trọng, đặc biệt như
đã đề cập, Đại hội XI đã nhấn mạnh dân chủ, đặt dân chủ lên trước công bằng, văn
minh; thể hiện dân chủ không chỉ là một thuộc tính, một giá trị xã hội có vai trò mục
tiêu và động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội mà còn là điều kiện để thực hiện công
bằng, văn minh trong chủ nghĩa xã hội. “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…”.
Ba là, kết hợp cân bằng lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân. Đảng ta nhận thức rằng,
làm cho mỗi con người quan tâm tới lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động lực

trực tiếp, thúc đẩy mạnh mẽ nhất hoạt động của họ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ q
trình xây dựng xã hội mới. Thực tiễn đổi mới đã minh chứng, sự cần thiết phải kết hợp
hài hịa lợi ích cá nhân với lợi ích chung, trong đó lợi ích thiết thân của con người là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất.


CHƯƠNG 3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Sau nhiều năm phấn đấu trên con đường đưa nhà nước đến gần hơn với chủ nghĩa
xã hội, một bài học lịch sử lớn được rút ra: nếu không trung thành, kiên định lý luận,
tư tưởng cộng sản sẽ phạm vào chủ nghĩa xét lại, nhưng nếu không đổi mới, phát triển
sáng tạo sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, trì trệ và đất nước khơng thể phát
triển. Theo đó kiên định và đổi mới là hai bài học đắt giá mà chặng đường vừa qua đã
đúc kết cho khơng chỉ Đảng, nhà nước mà cịn cho tồn bộ nhân dân trong đời sống
thực tiễn hằng ngày.
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa
Hồ Chí Minh đã nêu ra quan điểm: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ
nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm,
bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. Đó
khơng chỉ là bài học dành cho con đường phát triển của tồn thể dân tộc, mà cịn có thể
được vận dụng vào đời sống thực tiễn của mỗi cá nhân. Theo đó, việc kiên định, trung
thành với bất kỳ một mục tiêu, một lý tưởng sẽ đưa đến nhiều góc nhìn mới đa chiều
hơn, lĩnh hội một cách sâu sắc hơn.
Để kiên định trước hết phải xuất phát từ lòng tin. Mất lòng tin là mất tất cả. Độc
lập dân tộc và CNXH là chân lý của tất cả các dân tộc trong thời đại hiện nay. Mục
tiêu của dân tộc Việt Nam nằm trong mục tiêu chung của nhân dân thế giới đang đấu
tranh thực hiện: hịa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những thành tựu của
cách mạng Việt Nam, của phe XHCN trước đây và của nhân dân thế giới đã chứng
minh khả năng hiện thực của độc lập dân tộc gắn liền CNXH. Kiên định mục tiêu phải

trải nghiệm trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, thậm chí
trong thất bại tạm thời hay thối trào cách mạng.Cùng với vượt khó khăn, người cách
mạng cịn phải có tầm nhìn chiến lược và khát vọng giải phóng dân tộc triệt để với ý
chí kiên cường, bất khuất mới thực sự kiên định mục tiêu. Đây là mục tiêu cơ bản, lâu
dài, phải qua nhiều chặng đường gian khổ và phức tạp, phải đối phó với nhiều yếu tố
tiêu cực khó lường trước nên phải có những điều kiện nói trên mới thực hiện được sự
kiên định.
Kiên định mục tiêu phải gắn liền với nâng cao tri thức và hoạt động thực tiễn
hướng tới mục tiêu. Khai phá con đường đi tới một chế độ xã hội mới không thể một
lúc có thể nhìn thấy đầy đủ mọi vấn đề. Phải vừa làm vừa học để nâng cao trình độ là
con đường kiên định mục tiêu và tiến tới mục tiêu ngày càng hiệu quả hơn. Kiên định
hoàn toàn khác bảo thủ, cố định. Cố định và bảo thủ đều trái khoa học, trái quy luật
phát triển, chắc chắn sẽ bị loại trừ, nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế hiện nay.
Đồng thời, khi đã hiểu rõ hơn về bản chất của lý luận, mục tiêu đó, ta cịn có thể
đánh giá những phương pháp áp dụng khác một cách đúng đắn hơn, tìm ra được những
lỗ hổng và lấy đó làm những kinh nghiệm quý báu cho mọi hành vi, cột mốc về sau.
Tóm lại, chỉ khi kiên trì, theo đuổi một mục tiêu nhất định, ta mới có một bàn đạp
vững chắc cho chặng đường phía trước.
Đổi mới, sáng tạo và tơn trọng thực tiễn khách quan phải dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh


Trên thực tế, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí và nền tảng tư tưởng của
Đảng là kim chỉ nam cho hành động cách mạng đã được Đảng ta thực hiện từ khi
thành lập Đảng đến nay. Đây dường như trở thành một bài học kinh điển xuất phát từ
chủ nghĩa


Mác cũng như được đúc kết dựa trên thực tiễn của chặng đường phát triển nước nhà.

Đổi mới phải khắc phục tư tưởng hoài nghi, dao động về giá trị của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn nữa là chống thái độ xa rời hay từ bỏ nền tảng tư
tưởng ấy. Đổi mới phải bám chắc vào một hệ tư tưởng nhất định để xây dựng CNXH
đúng thực chất đáp ứng nguyện vọng nhân dân. Muốn đạt được sự phát triển, một
thành tựu nhất định thì ta phải biết chấp nhận thực tại, tình trạng của bản thân để đổi
mới, cải thiện. Đổi mới phải dần được hình thành như một thói quen thường nhật: đổi
mới về góc nhìn, cách suy nghĩ và hành động cũng là những cột mốc mới giúp thế giới
quan của chính mình trở nên hồn thiện hơn.
Song, để đổi mới có hiệu quả, cần phải sáng tạo và tôn trọng khách quan - hai yếu
tố này luôn phải gắn liền với nhau để tránh các suy nghĩ lệch lạc, hành vi sai trái sau
này. Sáng tạo chính là phá vỡ các khn khổ hịng tạo ra những sự thay đổi có tính mới
và tính ích lợi. Những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học-công nghệ vừa làm rõ thêm giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vừa đặt ra những vấn đề mới cần được lý giải để phát triển lý luận, tư tưởng.
Tuy nhiên, đơi khi sự sáng tạo đó lại vượt quá khả năng bản thân, vượt quá các hàng
rào về đạo đức, pháp lý cũng khiến cho sự phát triển đi theo hướng ngược lại. Cuộc
đấu tranh chống các loại tư tưởng đối lập hiện đại đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận
phải đứng ở thạch động nên phải vừa hiểu đầy đủ những luận điệu của kẻ thù vừa phải
tự nâng cao trình độ, mài sắc luận điểm mới có thể chiến thắng. Trình độ dân trí ngày
càng cao, việc tiếp nhận thơng tin hàng ngày từ nhiều nguồn và đa đảng, Đảng phải đủ
sức hướng dẫn nhận thức. Cách mạng XHCN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, liên quan đến tri thức của tất cả các ngành khoa học địi hỏi Đảng phải
tiếp thu có chọn lọc để làm căn cứ, cơ sở cho việc xác định đường lối, chủ trương. Vì
vậy phải biết tơn trọng khách quan, xem xét bối cảnh thực tại, nhìn nhận năng lực bản
thân để đảm bảo sự phát triển đó mang tính hiệu quả chứ không tạo nên hậu quả tiêu
cực.
Nền tảng tư tưởng không phải là sự đông cứng, đơn điệu mà phải có sức sống sinh
động bằng việc cởi mở để tiếp nhận những thức tiên tiến của khoa học. Đổi mới phát
triển càng nhanh đòi hỏi sự nhạy bén và tỉnh táo càng cao trước mọi xu hướng tư
tưởng. Mỗi bước đi lên của đổi mới đều tăng thêm lòng tin và niềm phấn khởi, nhưng
cũng kèm theo những băn khoăn trước những vấn đề mới đang được đặt ra trong thực

tiễn. Tóm lại, việc kiên định, trung thành và sáng tạo đổi mới, tôn trọng khách quan
đều là sự cần thiết để rèn luyện và áp dụng vào mọi hành động, bước tiến nhằm hướng
đến sự phát triển cao hơn trong tương lai mai sau.


KẾT LUẬN
Các Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều thành cơng trong việc đánh giá khách quan,
tồn diện những thành tựu và yếu kém.
Từ thực tiễn sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VII của Đảng đã nêu
lên 5 bài học kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội VIII của
Đảng tổng kết 10 năm đổi mới (1986-1996) đã rút ra 6 bài học chủ yếu. Đại hội IX của
Đảng đã khẳng định: “15 năm đổi mới đầu tiên đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý
báu”. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay
vẫn cịn có giá trị lớn, nhất là các bài học chủ yếu. Đại hội X của Đảng tiến hành tổng
kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), đã khẳng định:
“Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cũng tích lũy thêm nhiều kinh
nghiệm lãnh đạo và quản lý, đại hội đã rút ra 5 bài học lớn”. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng rút ra 5 kinh nghiệm.
Với đường lối đổi mới và Cương lĩnh đúng đắn, cùng hoạt động thực tiễn sôi
động, phong phú, sáng tạo của tồn Đảng, tồn dân, cơng cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu đó là nhận thức
về mục tiêu, mơ hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng
sáng tỏ hơn song nhấn mạnh quan điểm: "Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố
con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
triển." Bên cạnh đó là sự nhận thức rõ hơn về những nội dung của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “…Con người là trung tâm của chiến lược phát triển và
đồng thời là chủ thể phát triển.”
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới, những vấn đề thực
tiễn và lý luận trên đây sẽ ngày càng sáng tỏ hơn, khẳng định sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng và Bác Hồ - sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm

1930 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam – Bộ giáo dục và đào tạo (2019)
2. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – Bộ giáo dục và đào tạo (2019)
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (2018)
/>4. Tháng 6 -1996: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (2021)
/>5. Đại hội lần thứ IX của Đảng: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (2021)
/>6. Đại hội lần thứ X của Đảng: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển
/>7. Nguyễn Tốt – “Nhận thức của đảng cộng sản việt nam về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta”
/>


×