Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Khả năng ứng dụng học thuyết trường phái tội phạm học cổ điển để lý giải nguyên nhân của tội phạm, khả năng ứng dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.75 KB, 9 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng nghiên cứu về tội phạm, nếu như Luật hình sự nghiên cứu về những
hành vi được coi là tội phạm và các hình phạt đối với người thực hiện hành vi
phạm tội thì đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học là nguyên nhân của tội
phạm và kiểm sốt tội phạm nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm. Vì thế việc
nghiên cứu Tội phạm học có ý nghĩa rất lớn, giúp ta biết được nguyên nhân tại
sao tội phạm xảy ra, từ đó tìm ra các biện pháp để giảm thiểu tình trạng phạm
tội. Quá trình hình thành và phát triển của Tội phạm học là quá trình hình thành,
ra đời và phát triển các học thuyết, các trường phái khác nhau giải thích về tội
phạm. Với đề bài : ”Trên cơ sở nghiên cứu một học thuyết giải thích về nguyên
nhân của tội phạm, em hãy liên hệ khả năng ứng dụng lí thuyết đó vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam ” em xin chọn Trường phái tội phạm học cổ điển theo
quan điểm của Cesare Beccaria để làm đề tài bài tập.

NỘI DUNG
1. Trường phái tội phạm học cổ điển theo quan điểm của Cesare
Beccaria
1.1 Hoàn cảnh ra đời:
Trường phái tội phạm học cổ điển hay thuyết tội phạm học cổ điển xuất
hiện từ giữa thế kỉ XVIII – là trường phái đầu tiên của tội phạm học do Cesare
Beccaria là người đi đầu sáng lập ra.
Tội phạm học cổ điển phát sinh từ phản ứng đối với hệ thống pháp luật dã
man tồn tại trước Cách mạng Pháp 1789. Vào thời điểm này, hệ thống pháp luật
và việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách tùy tiện. Hệ thống pháp luật
áp dụng pháp luật tập quán cho các vùng miền khác nhau, chưa có hệ thống tư
pháp hình sự thực thụ. Vua chúa thường ban hành cái được gọi bằng tiếng Pháp
là letters de cachet, theo đó cá nhân có thể bị ngồi tù vì bất cứ lí do nào (chẳng
hạn như khơng phục tùng cha mình) hoặc chẳng vì lí do nào. Các hình phạt tàn
nhẫn (như đóng dấu lên vai, xẻo thịt, hỏa thiêu, dìm chết…) hầu hết được thi
1



hành công khai trước công chúng đều do những thẩm phán có quyền lực vơ hạn
tự do theo ý mình kết án người phạm tội, thậm chí kết án người vì những hành
vi khơng được định nghĩa là tội phạm.
Khi châu Âu ngày càng hiện đại, bước sang giai đoạn cơng nghiệp hóa và
đơ thị hoa trong thế kỉ XVIII, những hình thức trừng phạt hà khắc thời trung cổ
vẫn còn tồn tại, đồng thời cũng phát sinh mâu thuẫn sâu sắc giữa người có của
và người khơng có của, kéo theo tình trạng náo động của xã hội tăng lên. Và khi
tỉ lệ tội phạm tăng lên thì tính dã man của hình phạt cũng gia tăng, khiến cho vấn
đề tội phạm càng tội tệ hơn. Lúc này, tầng lớp tri thức bắt đầu nhận ra mâu thuẫn
của sự phát triển mang lại, về sự bất ổn của việc gia tăng tỉ lệ thuận giữa tỉ lệ tội
phạm và mức độ dã man của hình phạt. Cho đến giữa thế kỉ XVIII, các nhà cải
cách bắt đầu gợi ý một cách tiếp cận hợp lí hơn đối với tội phạm và hình phạt,
trong đó có Cesare Beccaria.
Cesare Beccaria (1728 – 1794) được phân công chuẩn bị một báo cáo về
hệ thống nhà tù vào tháng 3 năm 1763. Ông đã đọc các tác phẩm của các tác giả
Anh và Pháp như David Hume, John Locke, Voltaire, Montesquieu..., quan sát
sự vơ nhân đạo được núp dưới chiêu bài kiểm sốy xã hội bên trong nhà tù, ghi
lại những nhận xét của mình và cho ra đời tác phẩm “Tội phạm và hình phạt”.
Cuốn sách của Beccaria đã cung cấp kế hoạc và đặt các giới hạn trong hệ thống
pháp luật, phác họa chặt chẽ và toàn diện về hệ thống tư pháp hình sự tiên tiến
có khả năng phục vụ con người tốt hơn chế độ quân chủ. Do đó, với cuốn sách
này, Cesare Beccaria đã trở thành ông tổ của tội phạm học hiện đại.
1.2 Nội dung thuyết tội phạm học cổ điển
Nội dung của thuyết tội phạm học cổ điển thừa nhận rằng kẻ phạm tội lựa
chọn việc thực hiện tội phạm sau khi cân nhắc những hậu quả của hoạt động đó.
Theo trường phái cổ điển, các cá nhân có sự tự nguyện lựa chọn những phương
tiện hợp pháp hoặc bất hợp pháp để đạt được những gì họ muốn; sự lo ngại bị
trừng trị có thể ngăn chặn con người khỏi việc thực hiện tội phạm; và xã hội có


2


thể điều khiển các cử xử của họ thông qua việc tạo ra sự trừng trị của hình phạt
lớn hơn những lợi ích mà việc thực hiện tội phạm đem lại.
Nội dung của học thuyết tội phạm học cổ điển này phần lớn dựa trên cơ
sở ý tưởng của Cesare Beccaria thể hiện trong cuốn “Tội phạm và hình phạt”.
Beccaria đưa ra những nguyên tắc sau:
- Luật pháp cần phải được sử dụng để duy trì khế ước xã hội.
- Chỉ có nhà làm luật mới được làm luật.
- Các thẩm phán khi quyết định hình phạt cần phải phù hợp với luật pháp
và chỉ phù hợp với luật pháp.
- Các thẩm phán khơng được giải thích luật.
- Hình phạt cần phải được dựa trên nguyên tắc phù hợp giữa niềm vui
thích và sự đau khổ.
- Hình phạt cần phải được căn cứ vào hành động chứ không phải người
hành động.
- Hình phạt cần được quyết định bởi chính tội phạm.
- Hình phạt cần nhanh chóng và hiệu quả.
- Mọi người cần được đối xử bình đẳng.
- Hình phạt tử hình cần được hủy bỏ.
- Việc sử dụng biện pháp tra tấn để đạt được sự thú tội cần được bãi bỏ.
- Phòng ngừa tội phạm tốt hơn là trừng trị chúng.
Thuyết cổ điền giải thích nguyên nhân của tội phạm là tự do ý chí, sự lựa
chọn của từng cá nhân quyết định. Có thể hiểu đơn giản như là, một người đứng
trước việc quyết định thực hiện hành vi phạm tội, người đó có ý chí tự do hồn
tồn có thể quyết định có hay khơng thực hiện hành vi ấy, nếu anh ta lựa chọn
không thực hiện hành vi thì anh ta sẽ khơng phải tội pham, cịn lựa chọn thực
hiện hành vi thì sẽ thành tội phạm; trong quá trình anh ta quyết định lựa chọn có
hay khơng thực hiện hành vi phạm tội hay khơng thì ý chí của anh ta hồn tồn

tự do, hồn toàn do anh ta định đoạt hành vi thực hiện.
3


Một nội dung lớn khác của thuyết cổ điển đó là phịng ngừa tội phạm.
Ơng đề cao vai trị của hình phạt trong ngăn ngừa tội phạm. Để hình phạt có
hiệu quả trong ngăn ngừa tội phạm thì:
- Hình phạt phải tương xứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm. Nếu
hình phạt ngang bằng được áp dụng đối với hai tội phạm đã gây thiệt hại cho xã
hội ở những mức độ khác nhau thì khơng có gì cản trở con người tiếp tục thực
hiện những tội phạm nghiêm trọng hơn mỗi khi chúng đem lại nhiều lợi ích hơn.
- Hình phạt cần phải căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
chứ không phải con người phạm tội. Các tội phạm chỉ có thể được đánh giá bởi
các thiệt hại gây ra cho xã hội. Con người là chủ thể của tội phạm. Bởi vậy, mức
độ nguy hiểm của tội phạm phụ thuộc vào mục đích của người phạm tội.
- Hình phạt cần phải được áp dụng nhanh chóng thì khi đó nó có giá trị
phịng ngừa tốt nhất. Hình phạt kịp thời sẽ hiệu quả hơn bởi vì nếu khoảng thời
gian giữa tội phạm và hình phạt càng ngắn thì sự kết hợp giữa hai ý tưởng về tội
phạm và hình phạt càng mạnh mẽ và dứt khoát hơn.
- Mọi người cần được đối xử bình đẳng. Hình phạt áp dụng đối với nhà
quý tộc cần phải khơng có sự khác biệt so với hình phạt đối với những thành
viên thuộc tầng lớp dưới trong xã hội
Bên cạnh đó, ơng cho rằng cách tốt nhất để phòng ngừa tội phạm là luật
phải được quy định đơn giản và rõ ràng, khen thưởng người có đạo đức tốt và
cải thiện nền giáo dục. Đồng thời cần phải cải thiện hệ thống tư pháp hình sự
theo hướng hạn chế tính hà khắc và đẩy mạnh sự đối xử nhân đạo đối với tù
nhân. Đồng thời, ông tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả của hình phạt tử hình trong
phịng ngừa tội phạm
1.3. Ý nghĩa của học thuyết:
Trường phái tội phạm học cổ điển ra đời có một ý nghĩa quan trọng trong

cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm, tạo nền tảng cho sự nghiên cứu tội
phạm nhằm phòng ngừa chúng cùng những ảnh hưởng xấu tới cuộc sống xã hội,
làm tiền đề hình thành nên khoa học nghiên cứu tội phạm. Thời đại ngày nay
4


đánh dấu sự trở lại của thuyết cổ điển rằng sự trừng phạt phải phù hợp với mức
độ nghiêm trọng của tội phạm và tội lỗi của người phạm tội.
Trường phái tội phạm học cổ điển đã có ảnh hưởng tức thời và sâu sắc đối
với luật học và hệ thống pháp luật. Sự thay thế của quy tắc pháp luật cho tính
chun quyền độc đốn của lồi người đã nhanh chóng trải rộng và tác động
khơng nhỏ đến chính sách hình sự và hệ thống hình phạt. Nguyên tắc hình phạt
phải thích hợp với tội phạm đã được thừa nhận chung trong suốt thế kỉ XIX và
đầu thế kỉ XX.
Ngày nay, các nhà tội phạm học vẫn coi tư tưởng của ơng trong cuốn “Tội
phạm và hình phạt” là tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Song, trường phái này vẫn bộc lộ những nhược điểm trong cách tiếp nhận.
Thứ nhất, các nhà tội phạm học cổ điển chấp nhận một cách tự nhiên con
người có khả năng tự do lựa chọn điều xấu và điều tốt mà chưa đặt vấn đề tại
sao con người lại có hành vi như vậy, động cơ và những tình huống cụ thể xung
quanh hành vi phạm tơi.
Thứ hai, sự đơn giản trong lí luận rằng trách nhiệm của hệ thống tư pháp
hình sự chỉ đơn giản là thi hành pháp luật một cách nhanh chóng và đối với bình
đằng với mọi người bị các nhà phê bình chỉ trích. Trong cuối thế kỉ XIX, chịu sự
tác động của những giải thích khoa học trong lĩnh vực triết học, các nhà tội
phạm học đã thay đổi sự chú ý của mình từ hành động đến người có hành động.
Nhiều nhà khoa học tiên tiến đã có sự thay đổi quan niểm về nguyên nhân của
tội phạm.
2. Liên hệ với hoàn cảnh Việt Nam
Sau đây là một số nghiên cứu của em về việc ứng dụng học thuyết của

Cesare Beccaria vào hoàn cảnh Việt Nam
2.1. Về nguyên nhân của tội phạm
Ông cho rằng nguyên nhân của tội phạm là do tự do ý chí, là sự tự lựa
chọn của cá nhân. Tuy nhiên trên thực tế, việc một người thực hiện hành vi
5


phạm tội khơng chỉ do người đó tự do về mặt ý chí mà cịn là do sự tác động qua
lại giữa nhiều nhân tố. Theo Giáo trình Tội phạm học của Trường đại học Luật
Hà Nội thì “Nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp các nhân tố mà sự qua lại
giữa chúng đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội ”. Các nhân tố
tiêu cực của mơi trường tác động, hình thành nên nhân cách lệch lạc của cá
nhân, sau đó vào một tình huống cụ thể thì người có nhân cách lệch lạc kia sẽ
thực hiện hành vi phạm tội.
Ví dụ bố của A là người chuyên đi ăn trộm vì thế từ nhỏ A cho rằng hành
vi này là bình thường, một hơm thấy nhà hàng xóm quên khóa cửa, A đã lẻn vào
nhà trộm cắp tài sản. Có thể thấy do ảnh hưởng từ gia đình mà A đã có cách suy
nghĩ lệch lạc rồi khi có tình huống thích hợp thì A đã thực hiện hành vi phạm tội.
Các nhân tố dẫn đến nguyên nhân tội phạm phải có sự tác động lẫn nhau mới có
thể dẫn đến hành vi phạm tội. Nếu khơng phải ảnh hưởng từ bố thì A đã khơng
có cách nghĩ lệch lạc, dù A có suy nghĩ lệch lạc nhưng khơng gặp hồn cảnh phù
hợp (nhà hàng xóm qn khóa cửa) thì chưa chắc A đã phạm tội.
Việc Cesare Beccaria cho rằng con người phạm tội chỉ là do tự do ý chí là
khơng lý giải được đầy đủ nguyên nhân của tội phạm. Mục đích của việc xác
định nguyên nhân của tội phạm là để đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Nếu áp dụng quan điểm này của Cesare Beccaria Việt Nam thì chúng ta sẽ
không đưa ra được các biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa tội phạm.
2.2. Về vai trò của hình phạt trong phịng ngừa tội phạm
Cesare Beccaria đề cao vai trị của hình phạt trong phịng ngừa tội phạm.
Quan điểm này của ông rất phù hợp khi áp dụng vào Việt Nam và hiện nay đã

được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Theo
Điều 28, Bộ luật Hình sự nước ta quy định về hình phạt:
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
6


d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi khơng áp dụng là hình phạt chính
Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng quy định: “Hình phạt khơng chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội,
có ý thức tn theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo dục người khác tơn trọng
pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm”
Như vậy, hình phạt ở nước ta khơng chỉ có tác dụng trừng trị người phạm
tội mà cịn có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Quan điểm này
của Cesare Beccaria đang được ứng dụng rất hiệu quả ở Việt Nam

2.3. Về nâng cao hiệu quả của hình phạt
Thứ nhất, hình phạt phải tương ứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Việc áp dụng các hình phạt phải đảm bảo sự cơng bằng, hai hành vi nếu có mức
độ nguy hiểm khác nhau thì khơng thể áp dụng cùng một hình phạt. Theo em,
Luật Hình sự Việt Nam hiện nay đã thể hiện rõ sự công bằng này trong việc áp
dụng các hình phạt. Theo Bộ luật Hình sự nước ta thì có 7 hình phạt chính và 7
hình phạt bổ sung. Ở mỗi tội khác nhau có các khung hình phạt khác nhau tùy
theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Vì thế, mỗi hành vi phạm tội khi
7


định tội sẽ lựa chọn khung hình phạt phù hợp, lựa chọn hình phạt phù hợp với
mức độ nguy hiểm của hành vi.
Thứ hai, hình phạt cần phải căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội chứ không phải là con người phạm tội. Hiện nay theo quy định của Bộ
luật Hình sự Việt Nam thì việc quyết định hình phạt khơng chỉ dựa trên mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội mà còn dựa vào nhân thân của người phạm tội.
Theo Điểm h, Khoản 1, Điều 46 của Bộ luật Hình sự thì “ Phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng ” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
theo Điểm g, Khoản 1, Điều 48 thì “ Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm
nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, nhân thân người
phạm tội cũng ảnh hưởng đến hình phạt dành cho người phạm tội. Theo em, quy
định như Bộ luật Hình sự Việt Nam là hợp lý bởi vì hình phạt đóng vai trò quan
trọng trong việc phòng ngừa tội phạm, phòng ngừa ở đây có cả phịng ngừa
người đã phạm tội không tiếp tục hành vi phạm tội trong tương lai. Trong trường
hợp tái phạm, tức là một người đã phạm tội, đã chịu hình phạt nhưng lại tiếp tục
thực hiện hành vi phạm tội nghĩa là việc giáo dục, cải tạo người đó khơng đạt
hiệu quả. Nếu lần phạm tội sau mà vẫn hình phạt như thế thì sẽ lại tiếp tục
khơng đạt hiệu quả, người đó có thể sẽ tiếp tục phạm tội. Vì thế em cho rằng
việc cân nhắc đến nhân thân người phạm tội sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền đề

ra được hình phạt hiệu quả hơn, góp phần phịng ngừa tội phạm, quan điểm này
của Cesare Beccaria khi áp dụng sẽ không đem lại hiệu quả cao.
Thứ ba, luật phải được quy định đơn giản và rõ ràng, đơn giản và cải thiện
nền giáo dục. Ở Việt Nam hiện nay số lượng các văn bản luật, các văn bản dưới
luật là vô cùng lớn, lại quy định rườm rà, chồng chéo, gây khó khăn cho việc
người dân tìm hiểu pháp luật. Nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa, dân tộc
thiểu số... với trình độ hiểu biết hạn chế, tình hình kinh tế kém khơng có các
thiết bị nghe, nhìn, khiến họ khó tiếp cận với các kiến thức pháp luật. Vì vậy,
luật cần quy định đơn giản rõ ràng, đơn giản hơn nhằm tạo điều kiện cho người
dân tiếp cận pháp luật cũng như tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có thẩm
8


quyền giải quyết các vụ việc tốt hơn. Hoạt động lập pháp ở nước ta còn nhiều
hạn chế, việc áp dụng quan điểm này của Cesare Beccaria giúp ta có thể giải
quyết được tình trạng quy định chồng chất, phức tạp các văn bản pháp luật.
Như ta đã biết, ý thức kém, hiểu biết pháp luật hạn chế cũng là nguyên
nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Theo em, ý thức chấp hành pháp luật cần phải
được rèn luyện ngay từ nhỏ, khi lớn lên suy nghĩ phải chấp hành pháp luật mới
có thể in sâu vào tâm trí con người. Việc phổ cập pháp luật ở các cấp học, tuyên
truyền pháp luật cũng rất quan trọng, giúp cho mỗi cá nhân ngay từ nhỏ đã có
những kiến thức cơ bản về pháp luật, luôn cập nhật các vấn đề pháp luật. Hiện
nay ở Việt Nam việc phổ cập pháp luật ở trường đang ngày càng được quan tâm,
nhưng nhìn chung việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật lại chưa đạt được hiệu
quả.
Tuy nhiên việc ngăn ngừa tội phạm cần sự phối hợp, tác động của nhiều
yếu tố, nếu nói “cách tốt nhất để phòng ngừa tội phạm là luật phải được quy
định đơn giản và rõ ràng, khen thưởng người có đạo đức tốt và cải thiện nền
giáo dục” như Cesare Beccaria là chưa hồn tồn chính xác.


KẾT LUẬN
Trường phái tội phạm học cổ điển ra đời có một ý nghĩa quan trọng trong
cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm. Việc tìm hiểu về thuyết cổ điển là
cần thiết, giúp ta phần nào hiểu rõ hơn về tội phạm để từ đó nghiên cứu và tìm ra
những biện pháp phịng ngừa tội phạm hợp lí và hiệu quả. Trên cơ sở tự nghiên
cứu và tìm tài liệu, bài viết khơng tránh khỏi những sai sót, mong thầy cơ xem
xét và bỏ qua. Em xin cảm ơn thầy cô.

9



×