Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Hiệp định sơ bộ và quá trình hòa hoãn giữa việt nam với pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.27 KB, 6 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp 6/3/1946 được ký kết giữa Chính phủ Hồ Chí Minh
và Chính phủ Pháp là một sự kiện quốc tế vượt xa khuôn khổ quan hệ Việt - Pháp.
Hiệp định sơ bộ đã tạo hành lang pháp lý cho cuộc thương lượng Việt - Pháp tiếp theo,
tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Vừa đánh, vừa đàm và việc quyết định ký Hiệp định sơ bộ đã góp phần khẳng định sự
tồn tại và vai trị của Chính phủ Hồ Chí Minh trong thực tế. Tuy thời gian của hiệp
định sơ bộ không lâu ngay sau đó Pháp đã bội ước nhưng Hiệp định này lại có ý nghĩa
rất lớn đối với Việt Nam trong bối cảnh đặc thù thời đó. Chính Hiệp định sơ bộ này đã
tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân tộc trong giai đoạn đầu của chế độ
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Trong hồn cảnh lịch sử thời bấy giờ đấy được coi là
một kế hoạch khôn ngoan của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vì chúng ta đang thực
hiện chính sách “Hịa để tiến”. Để làm rõ vấn đề trên nhóm em xin lựa chọn đề tài
“Hiệp định sơ bộ và quá trình hồ hỗn giữa Việt Nam với Pháp”. Trong q trình
nghiên cứu và tìm hiểu khơng tránh khỏi những thiếu sót mong nhận được sự góp ý
của q thầy, cơ.
I. Hiệp định sơ bộ - Mở đầu cho quá trình hịa hỗn của Việt Nam với
Pháp:
1. Hồn cảnh lịch sử
Tháng 8/1945 Việt Nam giành lại độc lập từ tay phát xít Nhật. Khơng cam chịu
thực tế này, qn Pháp sau đó núp bóng quân Anh quay trở lại miền Nam Việt Nam
với mưu đồ tái lập chế độ thực dân lỗi thời của họ trên toàn đất nước Việt Nam, khơi
phục lại các lợi ích đã mất.
Thời đó trong hệ thống thuộc địa Pháp, xứ Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào,
và Campuchia) đóng vai trị quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế Pháp vừa bị Thế
chiến thứ II tàn phá nặng nề. Trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:
“Về đất đai, Đông Dương chỉ chiếm 1/16 tồn bộ diện tích thuộc địa của Pháp, nhưng
lại có dân số bằng 2/5 tổng dân số của tất cả các thuộc địa của Pháp. Đây là nơi hàng
năm cung cấp cho tư bản độc quyền Pháp hơn 1 tỷ franc tiền lời. Từ năm 1900 đến
1945, số tiền lãi của Ngân hàng Đông Dương đã tăng lên gấp 33 lần. Trước Chiến
tranh Thế giới thứ 2, Đông Dương là nơi được tư bản độc quyền Pháp đầu tư nhiều


nhất, trên 52 tỷ Franc.”
Sự trở lại của người Pháp không dễ dàng. Ngay từ đầu họ vấp phải sự kháng cự
quyết liệt của quân dân Nam Bộ. Ở miền Bắc Việt Nam, Pháp lo ngại vấp phải sự
kháng cự còn mạnh hơn thế nữa của quân và dân ta, đồng thời cũng rất “ngán” một đối
thủ khá rắn là quân đội Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, vào Việt Nam
dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật theo quyết định của Hội nghị Postdam tháng
7/1945.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký với Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ Việt-Pháp ngày 6/3/1946 chấp nhận

1


cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc trong thời hạn 5 năm, thay thế 180.000 quân Tưởng
Giới Thạch.
2. Nguyên nhân Việt Nam kí Hiệp định Sơ bộ cũng như hịa hoãn với Pháp
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
Đầu năm 1946, các nước đề quốc dàn xếp, mua bán quyền lợi với nhau để cho
thực dân Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay đổi quân đội của Tưởng sau khi
chiếm đóng các đơ thị, tuyến giao thơng chiến lược của Nam bộ và Nam Trung bộ.
Trong lúc ấy, quân Trung Hoa Dân quốc đang muốn về nước để đối phó với
Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Việc dàn xếp giữa hai kẻ thù Pháp và Tưởng
đã được Đảng dự đoán sớm. Tuy nhiên, trước khi rút khỏi miền Bắc Việt Nam, Trung
Hoa Dân quốc vẫn muốn kiếm chác một ít quyền lợi, vì thế hai kẻ thủ của ta đã đi đến
kí kết hiệp ước Hoa – Pháp (28/2/1946) mà theo đó:
+ Trung Hoa Dân quốc sẽ nhường cho Pháp quyền giải pháp phát xít Nhật;
+ Pháp sẽ nhượng cho Tưởng những tô giới của Pháp trên đất Trung Quốc,
được chuyển hang hóa qua cảng Hải Phịng mà khơng cần thuế.
Hiệp ước Hoa – Pháp đã đăt Đảng ta trước hai lựa chọn là đánh hay hịa. Phân tích tình
thế, Chủ tịch Hồ Chí minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định chọn

giải pháp hịa hỗn, dàn xếp với Pháp, vấn đề hiện tại là phải biết mình biết người,
nhận định một cách khách quan những điều kiện trong nước, ngoài nước. Thất bại là
điều hoàn tồn có thể nếu quyết định đánh ở thời điểm này bởi:
+ Nếu chống lại Pháp nghĩa là chống lại Hiệp ước Hoa – Pháp, là chống Tưởng,
chống Mỹ. Hơn nữa, khi đưa quân ra miền Bắc thay Tưởng giải pháp phát xít Nhật thì
Pháp vẫn mang danh nghĩa qn đồng minh nên Pháp vẫn có danh nghĩa hợp pháp;
+ Nếu chống Pháp lúc bấy giờ là bất lợi vì tương quan lực lượng quá chênh
lệch.
2.2. Nguyên nhân sâu xa
Chọn giải pháp kí Hiệp định sơ bộ 6-3, hịa hỗn với Pháp, Đảng ta nhằm mục
đích: buộc quân Tưởng tút ngay về nước, tránh tình trạng một lúc đối đầu với nhiều kẻ
thù, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hịa hỗn để củng cố về tổ chức và lực lượng
chuẩn bị cho một cuộc chiến đầu mới, tiến lên giành thăng lợi. Lập trường của ta trong
cuộc đàm phán với Pháp được Ban Thường vụ Trung ương xác định là: độc lập nhưng
liên minh với Pháp. Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta: chính phủ,
quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao và sự thống nhất của quốc gia ta. Ngồi ra,
hịa hỗn cịn là để tỏ thiện chí hịa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp và
nhân dân thế giới không muốn chiến tranh xảy ra, do đó ta có thể tranh thủ được sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới.
3. Nội dung Hiệp định sơ bộ 6-3
Nội dung cơ bản của Hiệp định sơ bộ được tóm tắt như sau:
- Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia
tự do có chính phủ của mình, nghị viện của mình, qn đội của mình, tài chính của
mình và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp.

2


Vấn đề thống nhất ba kì được Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định
của nhân dân trực tiếp phán quyết.

- Chính phủ Việt Nam chấp nhận để 15.000 quân Pháp đưa vào miền Bắc thay
thế quân đội Tưởng Giới Thạch. Mỗi năm sẽ rút 1/5 số quân đó về Pháp và sau 5 năm
sẽ rút hết.
- Hai bên sẽ ngừng cuộc xung đột và giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí cũ
để tạo bầu khơng khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay các cuộc điều đình thân thiện
và thẳng thắn về các vấn đề ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đơng
Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam
4. Nguyên nhân Pháp bội ước
4.1. Nguyên nhân trực tiếp
Hiệp định Sơ bộ Pháp – Việt được kí kết giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Vũ
Hồng Khanh với Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hịa Pháp, tuy nhiên bản hiệp
ước lại khơng có sự phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp nên đã bị làm mất hiệu lực
4.2. Nguyên nhân sâu xa
Ta có thể thấy, sau năm 1946 cũng là lúc chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết
thúc, sự kiện này có ảnh hưởng khơng ít đến việc pháp bội ước, quay lại xâm lược Việt
Nam của Pháp:
Thứ nhất, Pháp vốn đã có dã tâm thơn tính Việt Nam, rõ ràng Pháp mn đời
vẫn là một nước đế quốc mà bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm chiếm, cướp bóc
và bóc lột thuộc địa.
Thứ hai, Việt Nam vốn là thuộc địa lâu đời của Pháp nhưng trong chiến tranh
Thế giới lần thứ hai bị Nhật chiếm nên việc Pháp quay lại xâm lược Việt Nam sau khi
Nhật rút khỏi là xu hướng tất nhiên.
Thứ ba, Việt Nam là một nước giàu tài nguyên, nhân công rẻ rất thuận lợi cho
việc khai thác, bóc lột, làm giàu cho Pháp bởi khi chiến tranh Thế giới lần hai kết thúc
nền kinh tế của pháp chịu thiệt hại hết sức nặng nề và vị thế của pháp trên trường quốc
tế cũng suy giảm nghiêm trọng
Thứ tư, sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Pháp có những thuận lợi nhất định
để có thế tiến hành xâm chiếm Việt Nam: Những quy định của đồng minh trong Hội
nghị Ian-ta (các khu vực Đông Nam Á.. thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của
phương Tây) trong khi đó Việt Nam sau năm 1945 lại là một nhà nước nhỏ bé, yếu về

mọi mặt.
5. Ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ
Tuy khơng lâu sau khi kí Hiệp định sơ bộ Pháp đã bội ước nhưng Hiệp định sơ
bộ vẫn có những ý nghĩa rất lớn lao.
Thứ nhất, Hiệp định Sơ bộ ngày 06-3 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên giữa
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Chính phủ Pháp. Dù chỉ là sự kiện trong
khuôn khổ Việt - Pháp, nhưng đã khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm và hoan
nghênh. Pandi Neru, lãnh tụ Đảng Quốc Đại (sau này là Thủ tướng Ấn Độ) bày tỏ
quan điểm đồng tình; cịn Van Mook, Tồn quyền Hà Lan tại In-đơ-nê-xi-a đã cử người

3


đến Hà Nội để tìm hiểu kinh nghiệm. Như vậy, Hiệp định Sơ bộ đã tạo cơ sở pháp lý
để nâng tầm vị thế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.
Thứ hai, việc chủ động ký Hiệp ước Sơ bộ đã tỏ rõ tầm nhìn, tư duy chiến lược
sắc bén của Đảng ta về vận dụng điều kiện thực tiễn khách quan để chuyển hóa tình
thế cách mạng. Đây là quyết định “nhất cử lưỡng tiện”, vừa tránh phải đối đầu với
Pháp trong điều kiện bất lợi cả về thế và lực, vừa mượn tay Pháp đuổi 20 vạn quân
Tưởng ra khỏi bờ cõi. Như vậy, Việt Nam tránh phải chiến đấu với nhiều kẻ thù cùng
một lúc.
Thứ ba, việc ký Hiệp định sơ bộ cũng như hịa hỗn với Pháp đã tỏ rõ thiện chí
hịa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đến nhân dân thế giới, đặc biệt là đến
nhân dân Pháp, góp phần tạo một phong trào phản chiến của nhân dân Pháp chống
chiến tranh xâm lược
Thứ tư, việc ký Hiệp định sơ bộ giúp chúng ta có thêm thời gian hịa bình để
củng cố, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài chống Pháp.
II. Q trình hịa hỗn giữa Việt Nam với Pháp
1. Quan điểm về hịa hỗn của Việt Nam
Hịa hỗn có nghĩa là hịa để tiến và khơng có nghĩa là đầu hàng, sử dụng hiến

thuật hịa hỗn nhằm chớp lấy thời cơ trong bố cảnh lịch sự và các điều kiên thuận lợi
nêu trên để đưa nước nhà ra khỏi thế ngàn cân treo sợi tóc. Tất cả những hoạt động
ngoại giao trong giai đoạn này đều nằm trong chủ trương của Đảng cộng sản Việt
Nam, được đưa ra thơng qua chỉ thị “Hịa để tiến”, nhằm nhắc nhở nhân dân ta sẵn
sàng đối phó với những hành vi xâm phạm hiệp định Sơ bộ mới kí ngày 6/3/1946, hịa
hỗn Tưởng ở miền Bắc để đánh Pháp ở miền Nam, hạn chế sự phá hoại của Tưởng
và tay sai từ tháng 9/1945 đến 6/3/1945, hoà với Pháp để đuổi Tưởng, tranh thủ thời
gian xây dựng lực lượng để sẵn sàng cho cuộc kháng chiến toàn quốc từ 6/3/1946 đến
tháng12/1946.
Tất nhiên sự nhân nhượng ở đây là có ngun tắc. Đó chính là phải đảm bảo
độc lập, chủ quyền của quốc gia, dân tộc. Trong quá trình đàm phán, vấn đề gay cấn
nhất là việc ta đòi Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, Pháp chỉ công
nhận Việt Nam là tự trị, cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quy chế quốc gia tự
do. Tự do – chưa phải là độc lập nhưng là một nước có chủ quyền. Sau Hiệp định Sơ
bộ, ta và Pháp mở Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị chính thức ở Fontainebleau, tuy
nhiên, do phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân hiếu chiến, muốn tái lập lại chế
độ thuộc địa trên tồn Đơng Dương, nên các Hội nghị đều đi đến thất bại. Và để có
thêm một khoảng thời gian hịa hỗn nữa, ta quyết định ký với Pháp Tạm ước
14/9/1946, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa để ta có
thêm thời gian chuẩn bị lực lượng. Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: “Tạm ước
14/9 là một bước nhân nhượng cuối cùng, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền
của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”. Đến khi Pháp bội ước, cố ý gây
chiến tranh thì chúng ta khơng thể nhân nhượng hơn nữa mà phải bắt đầu cuộc kháng
chiến toàn quốc chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.

4


2. Q trình hịa hỗn giữa Việt Nam với Pháp
Sau khi chiếm đóng các đơ thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp

thực hiện kế hoạch tiến qn ra Bắc, nhằm thơn tính cả nước ra.Để thực hiện kế hoạch
trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa dân quốc và kí hiệp ước Hoa Pháp 28/2/1946. Theo đó, Trung Hoa Dân quốc được Pháo trả lại các tô giới, nhượng
địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phịng vào
Vân Nam khơng phải đóng thuế. Đổi lại Pháp được đưa quân ra Bắc thay thế quân
Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con
đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên
miền Bắc; hoặc hịa hỗn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó cùng lúc
với nhiều kẻ thù.
Ngày 3/3/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì,
đã chọn giải pháp "hịa để tiến".Chiều 6/3/1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hịa kí với Jean Sainteny - đại diện Chính
phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ.
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây xung đột vũ trang ở
Nam Bộ, lập Chính phủ Nam Kì tự trị, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Do đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ Việt
Nam và Pháp được tổ chức tại Phongtennoblo (Pháp) ngày 6/7/1946. Cuộc đàm phán
thất bại vì Pháp ngoan cố khơng chịu công nhận độc lập và thống nhất của nước ra.
Trong lúc đó, tại Đơng Dương, qn Pháp tăng cường những hoạt động khiêu khích.
Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Ngày 14.9.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải
ngoại Moutet bản Tạm ước Việt-Pháp, gồm 11 điều khoản, có hiệu lực từ ngày
30.10.1946. Đây là một quyết định ngoại giao kịp thời, đúng đắn, khai thác được
những khả năng ít ỏi nhất nhằm duy trì được điều kiện hịa hỗn với chính quyền
Pháp. Nhờ đó, ta có thêm khoảng thời gian 3 tháng cực kỳ quý giá để chuẩn bị cho
một cuộc đụng đầu không cân sức, không thể tránh khỏi với thực dân Pháp.
3. Nhận xét về q trình hịa hỗn. Bài học rút ra
- Nhận xét: Lịch sử đã ghi nhận chủ trương thương lượng và hịa hỗn với thực
dân Pháp là hồn tồn đúng đắn và cần thiết. Đó là một mẫu mực tuyệt vời về việc lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có nguyên tắc. Trước tình

thế một chính quyền cịn non trẻ phải đương đầu với hai kẻ thù cùng một lúc, việc hịa
hỗn để loại bớt kẻ thù là một sách lược đúng đắn. Với việc để Pháp- Tưởng thỏa
thuận, qua đó Tưởng rút quân về nước đã giúp cho ta bớt đi một kẻ thù, tạo điều kiện
cho quân ta dễ dàng đưa ra đường lối kháng chiến, đồng thời là bài học kinh nghiệm
cho các cuộc kháng chiến sau này.
- Bài học rút ra
Thứ nhất, vận dụng sáng tạo, hiệu quả bài học kinh nghiệm của Lenin và chính
quyền Nga Xơ viết năm 1918 khi ký hiệp ước Nga-Đức tại Brest-Litovsk để nước Nga

5


có thể rút ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Đó là tạm thời hy
sinh khơng gian, tranh thủ thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng cách mạng.
Thứ hai, bài học về phân hóa kẻ thù. Theo Hiệp ước Hoa - Pháp, Trung Hoa
Dân quốc đồng ý cho quân đội Pháp vào Bắc Đông Dương thay thế quân Trung Hoa
Dân quốc dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng kịp thời nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, ký bản Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 theo
những điều kiện có lợi nhất có thể được đối với Việt Nam, để nhanh chóng đẩy 20 vạn
quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ra khỏi nước ta, chuẩn bị thực lực cho
một cuộc chiến đấu mới mà ta biết không thể nào tránh khỏi.
Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân
nhượng có ngun tắc. Việc nhân nhượng khơng thể làm xâm phạm đến độc lập, chủ
quyền của quốc gia, dân tộc. Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: Tạm ước 14/9 là
một bước nhân nhượng cuối cùng, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của
nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc. Đến khi Pháp cố ý gây chiến tranh,
chúng ta khơng thể nhịn nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Với Hiệp định Sơ
bộ và Tạm ước 14/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta đã đi những nước cờ
mạnh bạo, sắc sảo, trước tiên thể hiện thiện chí hịa bình của nhân dân Việt Nam đến
nhân dân thế giới, đặc biệt là đến nhân dân Pháp, góp phần tạo một phong trào phản

chiến của nhân dân Pháp chống chiến tranh xâm lược.
Thứ tư, “Dĩ bất biến ứng vạn biến” tức là giữ vững mục tiêu, nguyên tắc, chiến
lược cách mạng, nhưng có thể linh hoạt những vấn đề về sách lược.
Và quan trọng hơn hết, trong mọi hoàn cảnh đều phải đặt lợi ích quốc gia,
quyền lợi dân tộc lên trên hết.

KẾT LUẬN
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tình hình ngày càng nguy cấp
khơng chỉ vì nạn đói, nạn dốt hồnh hành mà chúng ta cịn bị các nước đế quốc đưa
lực lượng quân sự hỗn hợp vào dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp phát xít
Nhật. Việc ký kết hiệp định sơ bộ, hịa hỗn với Pháp là một bước đi vô cùng đúng đắn
và sắc sảo của Đảng và đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiệp định sơ bộ đã giúp ta
tránh được việc phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù, đẩy được 20 vạn quân
Trung Hoa Dân Quốc và tay sai ra khỏi nước ta. Mặt khác việc ký kết hiệp định đã
giúp ta có thêm thời gian hịa bình để củng cố, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu
dài chống Pháp. Trong bối cảnh lịch sử năm 1946, việc ký Hiệp định sơ bộ và hịa
hỗn với Pháp là quyết định sáng suốt, một mẫu mực tuyệt vời về sách lược, về việc
tận dụng thời cơ, về sự nhân nhượng.

6



×