Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG MỊ TRONG ĐÊM MÙA ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.26 KB, 12 trang )

DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG MỊ TRONG ĐÊM MÙA ĐÔNG
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm lý của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ (Vợ
chồng A Phủ - Tơ Hồi), từ đó khẳng định sức sống của lòng nhân hậu và khát vọng tự do
của mị.
BÀI LÀM:
MẪU 1:
Lang thang trong cõi ta bà, Basho chợt đón lấy nhành hương mà cất lên tiếng thở nhẹ
nhàng :
“Mùi hoa mơ ơi
Con đường núi mọc
Bỗng nhiên mặt trời.”
Còn ta khi lang thang trong cõi thơ văn ta được gì ? Đó là những khung cảnh , những con
người, những câu chuyện của những vùng đất mới lại được cô đọng trong giọng văn dạt dào
trầm ấm , tha thiết cho thân phận con người. Tơ Hồi , từ trang văn của mình trong đêm
đơng đã phác lên những nét vẽ thật sống động và mãnh liệt của khát vọng sông và sức sống
mãnh liệt của lòng nhân hậu của con người trong nhân vật Mị. Để từ con chữ ấy, người đọc
lại nỗ lực hơn để đấu tranh cho hạnh phúc của chính mình.
Trong làng văn của Việt Nam, Tơ Hoài đứng vào bậc “trưởng lão “ , cả về tuổi đời , tuổi văn
và cả gia tài đồ sộ mà ông đã cống hiến cho văn học nước nhà. Ông là cây bút hàng đầu về
hồi kí, sáng tác về loài vật và đặc biệt nhất là thể loại truyện ngắn. Đề tài ưa thích của ơng là
những buồn vui trên mọi nẻo đường Hà Nội, là cuộc sống và phong tục của người dân miền
núi Tây Bắc. Hình như ngịi bút của Tơ Hồi bao giờ cũng thấm đẫm thứ mực chắt ra từ sự
giao hòa đến thân thương những gì thân thuộc với tâm hồn ơng . Viết về Hà Nội, Tơ Hồi
viết bằng trái tim của một đứa con ôm lấy quê hương mà nhặt lấy những hạt ngọc của xứ sở.
Viết về người miền núi, nhất là trong tác phẩm vợ chồng A Phủ , ông đã chạm đến ở một
tầng bậc nào đó , những nỗi đau và niềm khát khao sâu kín của người lao động nghèo –
những người đã cùng ông trải qua những năm cơ khổ chống Pháp . Bởi thế mỗi trang viết
của Tơ Hồi là một cuộc dị tìm bằng trái tim để chạm đến những góc nhỏ , những ẩn khuất
lớn , những khát vọng tiềm tàng trong con người . Đoan trích “Vợ chồng A Phủ” : là phần
đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” , đồng thời cũng là phần hay nhất trong truyện ngắn
này. Cuộc sống người lao động miền núi được Tơ Hồi tải dựng như những tảng đá phiêu


nham mà ở đó ơng xót xa khắc những nét nổi chìm nó hiển hiện cả những bất hạnh tột cùng
lẫn sức sống tột bậc của con người.Cái nét chạm khắc đó kết tinh hoàn hảo trong nhân vật
Mị với tất cả những biến động trong số phận, trong tâm lý của cô trong đêm tình mùa xn .
Ở trong đêm mùa đơng giá rét , người ta đã nhìn thấy một Mị thật chín chắn trong những
nhận thức về tình thương và khát vọng sống . Và người ta cũng đã nhận ra được sức sống
bất diệt của tình thương và khát khao sống trong mỗi con người .
Đêm tình mùa xuân đã mở ra trong Mị một thế giới khác , một thế giới của những niềm hy
vọng mới, một thế giới khơng cịn quẩn quanh trong cuộc sống của con trâu, con ngựa “vùi
đầu việc làm cả đêm lẫn ngày.” Tuy nhiên đêm xuân đi để lại bao tiếc nuối và sự mơ hồ


trong tâm trí Mị. Mị lại trở về ngày trước, vô cảm với thế giới trong đêm mùa đông .
“Những đêm đông trên núi cao dài và buồn , không có bếp lửa sưởi kia Mị cũng đến chết
héo.” “Dài” và”buồn” –một cảm nhận rất con người. Cái dài và buồn ấy của ngày đông
phần nào cho thấy Mị đã lấy lại ý thức về thời gian và cảm nhận được những nỗi buồn vui
của chính mình. Từ đêm tình mùa xuân , biết bao nhiêu than hồng dưới đáy tro tàn đã được
khơi lại trong tâm hồn người con gái ấy. Nhưng Mị vẫn chưa lấy lại được điều quan trọng
nhất của tâm hồn con người. Đó là nỗi giao cảm với người xung quanh. Thấy A Phủ bị trói
đứng, Mị vẫn thản nhiên “thổi lửa hơ tay.” Mị không mảy may đau khổ hay tiếc
thương.”Nếu A Phủ là cái xác chết ở đứng đấy , cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi lửa
hơ tay. Mị vẫn chỉ biết đến ngọn lửa.” Ngọn lửa kia là thứ ánh sáng duy nhất mà Mị có được
bấy giờ. “Nếu khơng có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo.” Ngọn lửa giúp Mị bớt
rét. Ngọn lửa ấy hiện diện ở đấy để Mị bớt cô đơn , hiu quạnh , trống trải bởi ít nhất nhờ
ngọn lửa “mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay , hơ lưng , không biết bao nhiêu lần.” Sự quẩn
quanh của Mị đã thể hiện sự trơ lì của Mị trong những tháng ngày vơ nghĩa : khơng tình u
, không tự do. Tuy nhiên ngọn lửa ấy đã tạo cho hai con người đau khổ gặp nhau. “Ngọn lửa
sưởi bùng lên , cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang , thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A
Phủ còn sống.” Bởi Mị đã chai sạn. Bởi lòng Mị đã chết từ cái đêm mùa xuân của nhiều
tháng ngày về trước, chết trong sự tàn nhẫn của A Sử, trong “tiếng chân ngựa đạp vào vách”
, trong tiếng sáo xa dần rồi chìm trong đêm tối. Sự “thản nhiên” của Mị là sự hồi đáp của

những tháng ngày đau khổ , lụi tàn trong sự đánh mất hy vọng và khát khao hạnh phúc. Mị
đã tê liệt về ý thức :”Có đêm A Sử chợt về , thấy Mị ngồi đấy , A Sử đánh Mị ngã ngay
xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.” “Thản nhiên” nghĩa là
chúng ta trở nên vô tình với sự biến chuyển của thế giới quanh mình. “Thản nhiên” có thể là
vì chúng ta biết nhưng chúng ta cố tình lãng qn đi một ai đó,một điều gì đó . Hoặc trạng
thái “thản nhiên” kia cũng là vì chúng ta đang đau đớn ,đang mệt nhồng trong bi kịch của
chính mình nên chúng ta chẳng cịn có cảm giác vì thế giới quanh mình nữa. Khi ấy lý trí rời
xa, cảm xúc khơ cạn, chúng ta chỉ đang tiếp diễn cuộc sống chính mình bằng thói quen . Sự
thản nhiên của Mị vì vậy cịn thể hiện cụ thể một quy luật tâm lý bình thường : khi khơng
thấy được nỗi khổ của mình,người ta cũng chẳng thể thấy được nỗi khổ của người khác. Bởi
với họ, nỗi khổ ấy chỉ là một trong những điều rất bình thường mà họ phải trải qua mỗi
tháng , mỗi ngày , mỗi năm và có khi là cả cuộc đời mình. Mị của đêm mùa đơng chỉ là một
cái bóng trơi dạt vào hố đen của những ngày tháng lao khổ, bặt tăm.
Sự chuyển biến của tâm trạng Mị chỉ đến khi giữa hàng chục cái buổi đêm sưởi lửa “Mị lé
mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má xám đen lại.” Chính dịng nước mắt tủi nhục của cuộc đời nô lệ của A Phủ đã hồi
sinh sức sống mãnh liệt của lòng nhân hậu và tình thương người trong Mị. Mị chạnh lịng.
Mị tự thương xót cho chính mình . Mị nhớ “trong bóng tơi , Mị đứng im lặng , như khơng
biết mình đang bị trói.” “Nhiều lần khóc ,nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ , khơng
biết lau đi được. ” Lịng tổn thương, đau vỡ trái tim trong những lằn trói đầy oan nghiệt và
sự tàn độc của A Sử. Và tiếng sáo kia cũng chợt biến mất , không về nữa. Mị nhớ “tiếng
ngựa đạp chân vào vách. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa.” Những cảm giác
đau đớn ngày ấy chợt hằn lên trên da thịt Mị sự rạn nứt đau khổ :”Mị cựa quậy, xem mình
cịn sống hay chết. Cổ tay , đầu , bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.”
Trong cơn đau, Mị còn nhớ “sợi dây gai dưới băp chân vừa lỏng ra , Mị ngã sụp xuống”


nhưng sau đó Mị phải quên cả đau “đi hái thuốc cho chồng”.Trong thống của nỗi nhớ, Mị
lại thương mình. Khi ý thức trở về, Mị bắt đầu biết xót, biết đồng cảm cho người đồng cảnh
ngộ - A Phủ :”Trời ơi , nó bắt trói người kia đến chết thì thơi.” Bởi lẽ Mị đã nhìn thấy mình

trong cái dáng vẻ nhếch nhác thảm hại của A Phủ. Tình thương trở về. Tình thương ấy dẫn
dắt nhận thức của Mị về thực tại tàn khốc, về thân phận bé nhỏ, đáng thương của con người.
Câu chuyện về người đàn bà bị trói đến chết lại lần về trong tâm trí Mị. Lịng căm phẫn bấy
lâu bùng cháy.”Chúng nó thật độc ác” . Chúng nó sẵn sàng kết thúc cuộc sống của một con
người chỉ vì sự ích kỷ và độc đốn của mình. Chúng có thể quẳng những ước mơ , tương lai
của người khác chỉ vì chúng muốn khẳng định quyền lực của mình, khẳng định sự vơ lý của
mình. Mị thấy sự bất cơng phi lý :”Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau ,
chết đói, chết rét, phải chết…” Cái chết sẽ lại rình rập trong những khát vọng ham sống của
một con người. A Phủ sẽ chết. Người con trai mạnh mẽ ấy trong những lần hiếm hoi khóc
lại trong khoảnh khắc anh ta sắp phải đón nhận một cái chết đầy oan ức. Giot nước mắt thay
đổi Mị không chỉ vì nó gợi cho Mị những kí ức về một thời đã qua , gợi sự dằn xé đau đớn
vì một cái chết oan ức mà cịn vì nó gợi cho Mị ý thức đấu tranh với những điều bất công ,
tàn nhẫn. Một người con trai khi bị đánh , bị hành hạ vẫn không kêu ca “quỳ chịu đòn , chỉ
im như cái tượng đá”. Một người con trai khi để hổ ăn mất nửa con bò nhà thống lý , vẫn
dám cãi lại nhà thống lý. Người con trai mang trong mình một tương lai tươi sáng như thế
mà lại phải chết . Liệu điều này có đáng khơng? Và tình người cùng những nhận thức về sự
tàn ác của bọn giai cấp thống trị đã trở thành động lực để Mị dũng cảm :”Mị rút con dao
găm cắt lúa , cắt nút dây mây.”giải cứu A Phủ . Nhưng rồi Mị sẽ ra sao khi liều lĩnh và táo
bạo như thế? Tơi tự hỏi Mị có từng sợ hãi khi nghĩ đến :”Mị phải đứng trói thay vào đấy, Mị
phải chết trên cái cọc ấy” chưa? Có lẽ là Mị đã từng phảng phất ý nghĩ đấy. Nhưng trong
thời khắc buộc con người phải đấu tranh , con người ta đã quên đi nỗi sợ. Và hành động của
Mị chính là chiến thắng của tình thương , của lẽ phải .Giong văn Tơ Hồi trong qng này
vội vã và mạnh mẽ . Những suy nghĩ , hành động và nhận thức nối tiếp nhau. Để từ đó , từ
trang văn , người đọc thêm tin vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người, tin rằng khi nó
được thức tỉnh , nó sẽ khơng ngừng hành động hướng đến một cuộc sống nhân bản và tươi
sáng. Và vì vậy văn chương đã , đang và sẽ ln “thức tỉnh tình u đối với con người và
khát vọng tích cực đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo và tiến bộ của lồi người.” (Sơ lơ khốp).
A Phủ được giải thốt. Bóng đen vẫn vây lấy Mị trong những sự đe dọa dành cho khát vọng
sống mãnh liệt đang nhen nhóm trong Mị. Khát vọng ấy trỗi dậy và lấn át trong tâm hồn. Nó
mang những nỗi sợ hãi ùa về. Sự “hốt hoảng” của Mị là vì Mị thương mình , thương cho

tương lai lại bị đày ải trong căn nhà, lại tiếp tục chôn thân cho đến chết trong sự tàn độc của
nhà thống lý Pá Tra. Mị bây giờ khơng cịn trơ lì trong nỗi đau nữa. Và nỗi hốt hoảng ấy là
nỗi sợ của người co niềm khát khao sống mãnh liệt mà chẳng ai có thể dập tắt nổi. “Mị đứng
lặng trong bóng tối.” Phút lặng yên của Mị là phút lặng yên của một con người trước bão tố
cuộc đời , phút lặng yên của một con người đang chuyển mình để trở thành một con người
tự do. Giua biết bao con chữ, Tơ Hồi chỉ dành riêng một dịng để mở ra trong Mị những
suy nghĩ và trăn trở. Trong cái dòng chữ trơ trọi ấy, người ta cảm nhận biết bao cảm xúc
đang dồn nén trong một con người đã phải sống và chịu đựng quá lâu trong cái khổ và sự
bất cơng. Và cũng trong cái dịng chữ ấy , người ta cảm thấy một điều gì đó thật lớn lao
đang trỗi dậy. Đó là sức sống của con người mà chẳng có một thế lực thần quyền , cường
quyền nào có thể ngăn lấy nữa. Đúng con người cần phải sống trong một cuộc đời tự do và


hạnh phúc và đấu tranh để được quyền tận hưởng cuộc sống ấy. “Rồi Mị cũng vụt chạy ra…
Mị nói, thở trong hơi gió lạnh buốt. A Phủ cho tơi đi… Ở đây thì tơi cũng sẽ chết mất.” Nếu
bóng tối của đêm tình mùa xn đã chơn vùi những nỗi khổ đau của Mị vào sự câm lặng thì
bóng tối ấy lại trở về trong đêm đông để mở ra con đường để mình trở về cuộc sống của một
con người tự do. Mị chạy theo A Phủ chính là hành động chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của
khát vọng sống. Bởi Mị biết nếu Mị ở lại , Mị sẽ bị trói thay vào chỗ của A Phủ. Bởi Mị
biết, nếu Mị khơng tự giải thốt,Mị sẽ chết ở đây một cách vô nghĩa. Như vậy khát vọng
sống đã giúp Mị chiến thắng nỗi sợ hãi của cái chết và tạo cho mình một con đường thốt
khỏi sự ràng buộc , giành lại một cuộc sống xứng đáng hơn. Khát vọng sống của Mị trong
đêm mùa đông đã hồi sinh vẹn tồn cơ Mị năm xưa trong dáng hình cơ Mị hơm nay. Tuy
hành động của Mị khơng mạnh mẽ và trực tiếp như chị Dậu vùng chạy trong đêm chị thoát
khỏi lão quan, các thế lực cường quyền , nhưng đúng lúc , hành động ấy lại đưa Mị thốt
khỏi tổn thương. Hành động ấy cũng khơng phải bộc phát kinh hồng như hành động Chí
Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát. Mà hành động ấy chỉ bằng con dao cắt lúa với những nhát dao
kiên quyết , dứt khoát đã giúp Mị cắt đứt sợi dây của thần quyền , cường quyền trói buộc lâu
nay để địi quyền sống, quyền được làm người.Và hình ảnh A Phủ cùng Mị , “hai người lẳng
lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” chính là niềm tin của Tơ Hoài vào sự chủ động của

con người để phản kháng cái ác , khôi phục và bảo vệ một cuộc sống hạnh phúc.
Những chặng đường tâm lý của Mị trong đêm đơng có lẽ sẽ khơng để lại những chuyển biến
mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc nếu Tơ Hồi không dụng công xây dựng nhân vật , cốt
truyện bằng tài năng nghệ thuật của mình. Tơ Hồi đã tạo nên nhân vật Mị và những hành
động của cô trong giọng trần thuật trầm tư , sâu lắng. Từng tâm trạng tinh tế, từng chuỗi
hành động nối tiếp nhau cứ thế nhập vào từng con chữ của trang văn tự nhiên , lúc thì nhẹ
nhàng , lúc thì khắc khoải và lúc cũng thật dồn dập như khát vọng sống mãnh liệt trỗi dậy
trong Mị. Tơ Hồi đã đặt Mị vào trong tình huống phức tạp, trong sự đấu tranh giữa ánh
sáng và bóng tối : Đó là thứ ánh sáng của ngọn lựa trong đêm mùa đơng và bóng tối trong
căn bếp khơ héo tình người và lịng người. Đó cũng là thứ ánh sáng của hạnh phúc tương lai
và thứ bóng tối của hiện thực tàn nhẫn, đắng cay. Nhưng Mị vẫn chiến thắng . Khát vọng
sống và lòng nhân hậu vẫn chiến thắng như một lời khẳng định của Tơ Hồi đến bạn đọc
mn thế hệ rằng : Chỉ cần bạn còn khát khao sống , còn biết u thương thì bạn sẽ đủ sức
mạnh để xóa bỏ những điều xấu xa , những điều tủn mủn lặt vặt đang vây lấy tâm hồn bạn,
cuộc sống bạn và đe dọa lấy hạnh phúc của bạn.
Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc” , Tơ Hồi cho biết những ước vọng và những nỗ lực
tạo nên những lời văn của mình : “ở mỗi nhân vật và trùm len tất cả miền Tây , tôi đã đưa
vào một khơng khí vời vợi làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được
cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và làm nhỏ bé vấn đề khung cảnh
đi.” Và quả thật , tác phẩm Vợ chồng A Phủ vẫn lan thứ chất thơ của khát vọng sống mãnh
liệt và tình người sâu nặng giữa đêm đông khắc nghiệt và lặng buốt. Để từ đó , Vợ Chồng A
Phủ đã trở thành những khúc thơ được cất lên từ những điệu hồn truyện ngắn để trở thành
một lời nhắc nhở về một thời đã qua, là một lời thôi thúc con người vươn đến tương lai tươi
sáng và tốt đẹp hơn.
MẪU 2:


Trong làng văn của Việt Nam, Tơ Hồi đứng vào bậc “trưởng lão “ , cả về tuổi đời , tuổi văn
và cả gia tài đồ sộ mà ông đã cống hiến cho văn học nước nhà. Ông là cây bút hàng đầu về
hồi kí, sáng tác về lồi vật và đặc biệt nhất là thể loại truyện ngắn. Đoan trích “Vợ chồng A

Phủ” là phần đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, một truyện ngắn xuất sắc in trong
tập Truyện Tây Bắc, kết quả của chuyến thực tế lên vùng Tây Bắc của nhà văn. Thông qua
diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đên cắt dây trói giải thốt cho A Phủ, tác giả đã
miêu tả thành cơng q trình nhân thức và hành động của người dân tộc miền núi từ chỗ
cam chịu đến chỗ tự giải thốt cho chính mình ra khỏi sự thống trị tàn ác của bọn phong
kiến miền núi.
Cuộc sống người lao động miền núi được Tơ Hồi tải dựng như những tảng đá phiêu nham
mà ở đó ơng xót xa khắc những nét nổi chìm nó hiển hiện cả những bất hạnh tột cùng lẫn
sức sống tột bậc của con người.Cái nét chạm khắc đó kết tinh hồn hảo trong nhân vật Mị
với tất cả những biến động trong số phận, trong tâm lý của cơ trong đêm tình mùa xuân. Ở
trong đêm mùa đông giá rét , người ta đã nhìn thấy một Mị thật chín chắn trong những nhận
thức về tình thương và khát vọng sống . Và người ta cũng đã nhận ra được sức sống bất diệt
của tình thương và khát khao sống trong mỗi con người .
Đêm tình mùa xuân đã mở ra trong Mị một thế giới khác, một thế giới của những niềm hy
vọng mới, một thế giới khơng cịn quẩn quanh trong cuộc sống của con trâu, con ngựa “vùi
đầu việc làm cả đêm lẫn ngày”. Tuy nhiên đêm xuân đi để lại bao tiếc nuối và sự mơ hồ
trong tâm trí Mị. Mị lại trở về ngày trước, vô cảm với thế giới trong đêm mùa
đông. “Những đêm đông trên núi cao dài và buồn, khơng có bếp lửa sưởi kia Mị cũng đến
chết héo”. “Dài” và”buồn” – một cảm nhận rất con người. Cái dài và buồn ấy của ngày
đông phần nào cho thấy Mị đã lấy lại ý thức về thời gian và cảm nhận được những nỗi buồn
vui của chính mình.
Từ đêm tình mùa xn, biết bao nhiêu than hồng dưới đáy tro tàn đã được khơi lại trong tâm
hồn người con gái ấy. Nhưng Mị vẫn chưa lấy lại được điều quan trọng nhất của tâm hồn
con người. Đó là nỗi giao cảm với người xung quanh. Thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản
nhiên “thổi lửa hơ tay”. Mị không mảy may đau khổ hay tiếc thương. “Nếu A Phủ là cái
xác chết ở đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi lửa hơ tay. Mị vẫn chỉ biết đến
ngọn lửa”. Ngọn lửa kia là thứ ánh sáng duy nhất mà Mị có được bấy giờ. “Nếu khơng có
bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo”. Ngọn lửa giúp Mị bớt rét. Ngọn lửa ấy hiện
diện ở đấy để Mị bớt cơ đơn, hiu quạnh, trống trải bởi ít nhất nhờ ngọn lửa “mỗi đêm, Mị
dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần”.

Sự quẩn quanh của Mị đã thể hiện sự trơ lì của Mị trong những tháng ngày vơ nghĩa: khơng
tình u, khơng tự do. Tuy nhiên ngọn lửa ấy đã tạo cho hai con người đau khổ gặp
nhau. “Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang , thấy mắt A Phủ trừng
trừng , mới biết A Phủ còn sống”. Bởi tâm hồn Mị đã chai sạn, lòng Mị đã chết từ cái đêm
mùa xuân của nhiều tháng ngày về trước, chết trong sự tàn nhẫn của A Sử, trong “tiếng
chân ngựa đạp vào vách”, trong tiếng sáo xa dần rồi chìm trong đêm tối. Sự “thản
nhiên” của Mị là sự hồi đáp của những tháng ngày đau khổ , lụi tàn trong sự đánh mất hy
vọng và khát khao hạnh phúc.


Mị đã tê liệt về ý thức: “Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay
xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.” “Thản nhiên” nghĩa là
chúng ta trở nên vơ tình với sự biến chuyển của thế giới quanh mình. “Thản nhiên” có thể
là vì chúng ta biết nhưng chúng ta cố tình lãng quên đi một ai đó,một điều gì đó . Hoặc trạng
thái “thản nhiên” kia cũng là vì chúng ta đang đau đớn ,đang mệt nhàng trong bi kịch của
chính mình nên chúng ta chẳng cịn có cảm giác vì thế giới quanh mình nữa. Khi ấy lý trí rời
xa, cảm xúc khơ cạn, chúng ta chỉ đang tiếp diễn cuộc sống chính mình bằng thói quen. Sự
thản nhiên của Mị vì vậy cịn thể hiện cụ thể một quy luật tâm lý bình thường: khi khơng
thấy được nỗi khổ của mình,người ta cũng chẳng thể thấy được nỗi khổ của người khác. Bởi
với họ, nỗi khổ ấy chỉ là một trong những điều rất bình thường mà họ phải trải qua mỗi
tháng, mỗi ngày, mỗi năm và có khi là cả cuộc đời mình. Mị của đêm mùa đơng chỉ là một
cái bóng trôi dạt vào hố đen của những ngày tháng lao khổ. Bặt tăm.
Sự chuyển biến của tâm trạng Mị chỉ đến khi giữa hàng chục cái buổi đêm sưởi lửa “Mị lé
mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống
hai hõm má xám đen lại.” Chính dịng nước mắt tủi nhục của cuộc đời nô lệ của A Phủ đã
hồi sinh sức sống mãnh liệt của lòng nhân hậu và tình thương người trong Mị. Mị chạnh
lịng. Mị tự thương xót cho chính mình . Mị nhớ “trong bóng tơi, Mị đứng im lặng, như
khơng biết mình đang bị trói.” “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ ,
khơng biết lau đi được”. Lịng tổn thương, đau vỡ trái tim trong những lằn trói đầy oan
nghiệt và sự tàn độc của A Sử. Và tiếng sáo kia cũng chợt biến mất, không về nữa. Mị

nhớ “tiếng ngựa đạp chân vào vách. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”.
Những cảm giác đau đớn ngày ấy chợt hằn lên trên da thịt Mị sự rạn nứt đau khổ : “Mị cựa
quậy, xem mình cịn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng
mảnh thịt”. Trong cơn đau, Mị còn nhớ “sợi dây gai dưới băp chân vừa lỏng ra, Mị ngã
sụp xuống” nhưng sau đó Mị phải quên cả đau “đi hái thuốc cho chồng”. Trong thoáng của
nỗi nhớ, Mị lại thương mình. Khi ý thức trở về, Mị bắt đầu biết xót, biết đồng cảm cho
người đồng cảnh ngộ – A Phủ: “Trời ơi , nó bắt trói người kia đến chết thì thơi”. Bởi lẽ Mị
đã nhìn thấy mình trong cái dáng vẻ nhếch nhác thảm hại của A Phủ. Tình thương trở về.
Tình thương ấy dẫn dắt nhận thức của Mị về thực tại tàn khốc, về thân phận bé nhỏ, đáng
thương của con người.
Câu chuyện về người đàn bà bị trói đến chết lại lần về trong tâm trí Mị. Lịng căm phẫn bấy
lâu bùng cháy: “Chúng nó thật độc ác”. Chúng nó sẵn sàng kết thúc cuộc sống của một con
người chỉ vì sự ích kỷ và độc đốn của mình. Chúng có thể quẳng những ước mơ, tương lai
của người khác chỉ vì chúng muốn khẳng định quyền lực của mình, khẳng định sự vơ lý của
mình. Mị thấy sự bất cơng phi lý : “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau ,
chết đói, chết rét, phải chết…”. Cái chết sẽ lại rình rập trong những khát vọng ham sống của
một con người. A Phủ sẽ chết. Người con trai mạnh mẽ ấy trong những lần hiếm hoi khóc
lại trong khoảnh khắc anh ta sắp phải đón nhận một cái chết đầy oan ức.
Giot nước mắt thay đổi Mị không chỉ vì nó gợi cho Mị những kí ức về một thời đã qua, gợi
sự dằn xé đau đớn vì một cái chết oan ức mà cịn vì nó gợi cho Mị ý thức đấu tranh với
những điều bất công, tàn nhẫn. Một người con trai khi bị đánh, bị hành hạ vẫn khơng kêu
ca “quỳ chịu địn, chỉ im như cái tượng đá”. Một người con trai khi để hổ ăn mất nửa con
bò nhà thống lý, vẫn dám cãi lại nhà thống lý. Người con trai mang trong mình một tương


lai tươi sáng như thế mà lại phải chết. Liệu điều này có đáng khơng? Và tình người cùng
những nhận thức về sự tàn ác của bọn giai cấp thống trị đã trở thành động lực để Mị dũng
cảm : “Mị rút con dao găm cắt lúa , cắt nút dây mây” giải cứu A Phủ . Nhưng rồi Mị sẽ ra
sao khi liều lĩnh và táo bạo như thế? Tơi tự hỏi Mị có từng sợ hãi khi nghĩ đến : “Mị phải
đứng trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy” chưa?

Có lẽ là Mị đã từng phảng phất ý nghĩ đấy. Nhưng trong thời khắc buộc con người phải đấu
tranh, con người ta đã quên đi nỗi sợ. Và hành động của Mị chính là chiến thắng của tình
thương, của lẽ phải. Giong văn Tơ Hoài trong quãng này vội vã và mạnh mẽ. Những suy
nghĩ, hành động và nhận thức nối tiếp nhau. Để từ đó, từ trang văn, người đọc thêm tin vào
bản chất tốt đẹp trong mỗi con người, tin rằng khi nó được thức tỉnh, nó sẽ khơng ngừng
hành động hướng đến một cuộc sống nhân bản và tươi sáng. Và vì vậy văn chương đã , đang
và sẽ ln “thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lý
tưởng nhân đạo và tiến bộ của lồi người.”
A Phủ được giải thốt. Bóng đen vẫn vây lấy Mị trong những sự đe dọa dành cho khát vọng
sống mãnh liệt đang nhen nhóm trong Mị. Khát vọng ấy trỗi dậy và lấn át trong tâm hồn. Nó
mang những nỗi sợ hãi ùa về. Sự “hốt hoảng” của Mị là vì Mị thương mình, thương cho
tương lai lại bị đày ải trong căn nhà, lại tiếp tục chôn thân cho đến chết trong sự tàn độc của
nhà thống lý Pá Tra. Mị bây giờ khơng cịn trơ lì trong nỗi đau nữa. Và nỗi hốt hoảng ấy là
nỗi sợ của người co niềm khát khao sống mãnh liệt mà chẳng ai có thể dập tắt nổi. “Mị
đứng lặng trong bóng tối”. Phút lặng yên của Mị là phút lặng yên của một con người trước
bão tố cuộc đời , phút lặng yên của một con người đang chuyển mình để trở thành một con
người tự do.
Giữa biết bao con chữ, Tơ Hồi chỉ dành riêng một dòng để mở ra trong Mị những suy nghĩ
và trăn trở. Trong cái dòng chữ trơ trọi ấy, người ta cảm nhận biết bao cảm xúc đang dồn
nén trong một con người đã phải sống và chịu đựng quá lâu trong cái khổ và sự bất công.
Và cũng trong cái dịng chữ ấy, người ta cảm thấy một điều gì đó thật lớn lao đang trỗi dậy.
Đó là sức sống của con người mà chẳng có một thế lực thần quyền , cường quyền nào có thể
ngăn lấy nữa. Đúng con người cần phải sống trong một cuộc đời tự do và hạnh phúc và đấu
tranh để được quyền tận hưởng cuộc sống ấy. “Rồi Mị cũng vụt chạy ra… Mị nói, thở trong
hơi gió lạnh buốt: “A Phủ cho tơi đi… Ở đây thì tơi cũng sẽ chết mất”. Nếu bóng tối của
đêm tình mùa xn đã chơn vùi những nỗi khổ đau của Mị vào sự câm lặng thì bóng tối ấy
lại trở về trong đêm đơng để mở ra con đường để mình trở về cuộc sống của một con người
tự do. Mị chạy theo A Phủ chính là hành động chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của khát vọng
sống. Bởi Mị biết nếu Mị ở lại , Mị sẽ bị trói thay vào chỗ của A Phủ. Bởi Mị biết, nếu Mị
khơng tự giải thốt,Mị sẽ chết ở đây một cách vô nghĩa.

Như vậy khát vọng sống đã giúp Mị chiến thắng nỗi sợ hãi của cái chết và tạo cho mình một
con đường thốt khỏi sự ràng buộc, giành lại một cuộc sống xứng đáng hơn. Khát vọng
sống của Mị trong đêm mùa đông đã hồi sinh vẹn tồn cơ Mị năm xưa trong dáng hình cơ
Mị hơm nay. Tuy hành động của Mị khơng mạnh mẽ và trực tiếp như chị Dậu vùng chạy
trong đêm chị thoát khỏi lão quan, các thế lực cường quyền , nhưng đúng lúc, hành động ấy
lại đưa Mị thốt khỏi tổn thương. Hành động ấy cũng khơng phải bộc phát kinh hồng như
hành động Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát. Mà hành động ấy chỉ bằng con dao cắt lúa với
những nhát dao kiên quyết , dứt khoát đã giúp Mị cắt đứt sợi dây của thần quyền , cường


quyền trói buộc lâu nay để địi quyền sống, quyền được làm người. Và hình ảnh A Phủ cùng
Mị, “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi” chính là niềm tin của Tơ Hồi
vào sự chủ động của con người để phản kháng cái ác, khôi phục và bảo vệ một cuộc sống
hạnh phúc.
Những chặng đường tâm lý của Mị trong đêm đơng có lẽ sẽ khơng để lại những chuyển biến
mạnh mẽ trong tâm hồn người đọc nếu Tơ Hồi khơng dụng cơng xây dựng nhân vật, cốt
truyện bằng tài năng nghệ thuật của mình. Tơ Hoài đã tạo nên nhân vật Mị và những hành
động của cô trong giọng trần thuật trầm tư, sâu lắng. Từng tâm trạng tinh tế, từng chuỗi
hành động nối tiếp nhau cứ thế nhập vào từng con chữ của trang văn tự nhiên, lúc thì nhẹ
nhàng, lúc thì khắc khoải và lúc cũng thật dồn dập như khát vọng sống mãnh liệt trỗi dậy
trong Mị.
Tơ Hồi đã đặt Mị vào trong tình huống phức tạp, trong sự đấu tranh giữa ánh sáng và bóng
tối: Đó là thứ ánh sáng của ngọn lựa trong đêm mùa đơng và bóng tối trong căn bếp khơ héo
tình người và lịng người. Đó cũng là thứ ánh sáng của hạnh phúc tương lai và thứ bóng tối
của hiện thực tàn nhẫn, đắng cay. Nhưng Mị vẫn chiến thắng. Khát vọng sống và lòng nhân
hậu vẫn chiến thắng như một lời khẳng định của Tô Hồi đến bạn đọc mn thế hệ rằng :
Chỉ cần bạn cịn khát khao sống, cịn biết u thương thì bạn sẽ đủ sức mạnh để xóa bỏ
những điều xấu xa, những điều tủn mủn lặt vặt đang vây lấy tâm hồn bạn, cuộc sống bạn và
đe dọa lấy hạnh phúc của bạn.
Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tơ Hồi cho biết những ước vọng và những nỗ lực

tạo nên những lời văn của mình : “Ơ mỗi nhân vật và trùm len tất cả miền Tây, tôi đã đưa
vào một khơng khí vời vợi làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được
cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và làm nhỏ bé vấn đề khung cảnh
đi.” Và quả thật, tác phẩm Vợ chồng A Phủ vẫn lan thứ chất thơ của khát vọng sống mãnh
liệt và tình người sâu nặng giữa đêm đơng khắc nghiệt và lặng buốt. Để từ đó, Vợ Chồng A
Phủ cùng Hai đứa tẻ đã trở thành những khúc thơ được cất lên từ những điệu hồn truyện
ngắn để trở thành một lời nhắc nhở về một thời đã qua, là một lời thôi thúc con người vươn
đến tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.
HƯỚNG DẪN CHI TIẾT
I.MỞ BÀI:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
– Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
– Khái quát trước đoạn kết
Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng của núi rừng Tây Bắc. Vì món nợ cho vay nặng lãi
của cha mẹ, Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý. Cuộc sống thống khổ của
chốn địa ngục trần gian khiến Mị chai sạn, vô cảm. Đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống
trỗi dậy, Mị uống rượu, thổi sáo, nhận thức được tuổi trẻ. Mị thèm đi theo những cuộc chơi
những đám chơi. Nhưng A Sử đã chặn đứng khát vọng đó của Mị bằng một thúng sợi đay,
hắn trói Mị vào cột. Mị khơng cảm thấy bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng gọi đêm tình.


Chính sức sống đêm tình năm ấy đã tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh nhận thức và cháy bùng
lên ngọn lửa giải thốt cho A Phủ sau này. Vì để hổ bắt mất một con bò nên A Phủ phải chịu
trói, chờ chết. Cha con nhà thống lí đã trói A Phủ vào cột. A Phủ đang rơi vào tình trạng:
chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.

2. Nội dung chính
2.1. Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị khơng mảy may mủi lịng,
khơng cảm xúc “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy

cũng thế thôi”.
Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái VÔ CẢM: Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với
kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh,
Mị khơng cần biết, khơng đối hồi, khơng quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi
chuyện. Kể cả lúc ra sưởi lửa, bị: “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản
nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Mị vơ cảm với chính bản thân mình, khơng cịn cảm nhận
được nỗi đau đớn của thể xác, khơng cịn cảm nhận được sự nhục nhã về tinh thần. Thể xác
bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục, nhưng Mị vẫn dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ
hãi. Khi Mị vơ cảm với chính mình cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung
quanh. Mị vơ cảm ln với cả đồng loại của mình:“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy,
cũng thế thôi”. Các từ ngữ “thản nhiên”, “cũng thế thôi” cho thấy sự thản nhiên, vô tâm đến
lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của Mị. Đắng cay cho Mị – cô đã đánh mất ln cả tình
thương, lịng nhân ái mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ biết, chỉ cịn ở với ngọn
lửa. Lửa cũng cơ đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức sưởi ấm cho nhau trong
những đêm đông dài lạnh lẽo.
2.2. Sau đó, tâm trạng Mị có sự thay đổi từ trạng thái vô cảm đến đồng cảm bởi giọt
nước mắt của A Phủ, bởi sự thức dậy của lòng thương người:
Có nhà phê bình cho rằng: “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng
thành châu lệ”. Quả đúng như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh
lòng thương người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trơng sang và nhìn
thấy: “một dịng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng
nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất
lực, tủi nhục trước số phận. Nước mắt A Phủ khơng chỉ chảy xuống đơi gị má xạm đen của
anh mà còn chảy vào cả trái tim băng giá của Mị. Trái tim vốn chỉ còn biết giá băng lại được
dòng nước mắt ấy của A Phủ chạm đến. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái
tim Mị, đập vỡ bức tường vơ hình cầm tù trái tim Mị; đã thức dậy trong Mị lòng thương
người cùng cảnh ngộ. Khi lòng thương người trỗi dậy, là lúc trái tim Mị quặn đau khi “trơng
người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói
đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”.
Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của A Phủ, khơng nói đến nỗi tủi nhục của A

Phủ nhưng tất cả điều đó lại hiện lên tất cả qua suy nghĩ của Mị. Mị đã cảm nhận nỗi đau
của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu


Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra: Mị thốt lên
“Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết
người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được
sống nhưng lại bị bắt chết. Từ nhận thức về thân phận con người, Mị nguyền rủa cha con
nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại
nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng
của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ khơng dừng lại ở
đây.
Từ lịng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công. Mị phản
kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động: từ cảnh ngộ của mình và những người
đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận
thấy “chúng nó thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức
mang tính lý trí chứ khơng phải là cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình: “Cơ chừng
này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn
bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi…
Người kia việc gì phải chết?” Đoạn văn có sự điệp đi điệp lại một loạt từ “chết” như chính
nỗi ám ảnh của Mị về cái chết. Và đặt mình cùng A Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy,
Mị có chết cũng là tất yếu vì “Ta là thân đàn bà”; “Nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi
thì đợi ngày rũ xương ở đây thơi”. Nghĩ đến APhủ, Mị thấy phi lí “người kia việc gì mà phải
chết”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho A Phủ. Đó là tấm lịng
nhân ái bao la của cơ gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con
người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động. Tài liệu này
của thầy Phan Danh Hiếu
Mị tưởng tượng rằng: “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi,
lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải
chết trên cái cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ cái chết với Mị

khơng cịn là điều đáng sợ nữa. Điều gì đã làm cho Mị khơng sợ hãi? Phải chăng đó là
lúc: Lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Tình thương ấy khiến
cơ đi đến hành động cởi trói cho A Phủ: “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”.
Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A Phủ. Nhưng hành động cởi trói ấy cũng là hành động mà
Mị tự giải thốt cho chính mình. Đây cũng là sự tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý.
2.3. Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống tiềm tàng
mãnh liệt, sức phản kháng quyết liệt:
Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách
thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “ngun lý
tảng băng trơi” – hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau những câu chữ và hành
động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: sống hay là chết; tự do hay nô lệ; đi hay
ở ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị.
Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lịng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị
chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt
chạy – băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh
ấy đã giúp Tơ Hồi nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong


Mị. “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn) – nếu đêm tình mùa
xuân là “tia lửa nhỏ” thì hành động chạy theo APhủ của Mị thực sự đã trở thành “đám
cháy”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh
liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thốt cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng
của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua
đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tơi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là
câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt trong Mị. Sau bao nhiêu năm
bị thần quyền, cường quyền đè nặng làm Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại thì
nay Mị đã sống lại. Và câu nói đầu tiên Mị nói được cũng lại là câu nói địi tự do, địi được
sống. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu
2.4. Nhận xét về sự thay đổi trong tâm trạng của Mị:
Từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau thân phận của A Phủ. Đây là sự chuyển

biến lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này
Tơ Hồi đã khẳng định được chân lý: “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là
lịng u thương con người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt –
“cởi trói cho A Phủ”. Đây khơng phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng
với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa
cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất
ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả
cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là
sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới.
2.5. Miêu tả sự hồi sinh của Mị qua hai chi tiết trên, Tơ Hồi đã mang đến những nét
mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945.
– “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân
tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn tồn
mất hết lịng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho
những con người khơng có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật
Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tơ Hồi đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy
khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức
sống tiềm tàng mãnh liệt mà khơng thế lực nào có thể dập tắt được.
– Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân
dung của những người nông dân trước cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí Phèo, lão
Hạc, anh Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia
hoàn toàn thiếu ánh sáng của Đảng của cách mạng chiếu rọi, thì nhà văn Tơ Hồi lại phản
chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức của thời đại. Nhà văn đã
bước qua được những giới hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để
giải phóng số phận nhân vật.
Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế
giới. Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra
một cuộc sống tươi sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng
Ngài đến với tiếng gọi của Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu



sắc và mới mẻ của Tơ Hồi nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Như vậy
tiếng kêu cứu của Nam Cao trước cách mạng đã được Tơ Hồi hồi đáp bằng cách giải phóng
cho số phận con người, hướng con người đến ánh sáng của tự do.
3. Thành cơng của tác giả Tơ Hồi trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó
là: Thành cơng của Tơ Hồi trong việc xây dựng nhân vật Mị đó là: Nhà văn có biệt tài
miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị
trong đêm cởi trói cho A Phủ. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu
nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất
thơ…nhà văn đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân
vật tài tình, hợp lí tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.
III. KẾT BÀI
Nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành
công đặc sắc của nhà văn Tơ Hồi. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị
trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tơ Hồi đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát
vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền
núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó
khơng chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân
vật Mị và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Tơ Hồi cũng đã làm nên sức sống trường
tồn, vĩnh cửu của tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ”.



×