LỜI PHÁT BIỂU CỦA ĐƠN VỊ CHỦ NHÀ – TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGƯT,TS. Phạm Châu Thành
Hiệu trưởng
Kính thưa Quý vị đại biểu!
Thay mặt ban tổ chức hội thảo, đồng thời với tư cách là đơn vị chủ nhà, chúng tôi xin nhiệt
liệt chào mừng quý vị đại biểu, kính chúc quý vị mạnh khỏe, vui tươi và đóng góp nhiều ý kiến để
buổi hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp.
Kính thưa Quý vị đại biểu!
Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề: “Hội nhập: hợp tác và cạnh tranh” được tổ chức hôm
nay xuất phát từ ý tưởng và quyết tâm của hai trường: Trường Đại học Thương mại và Trường Cao
đẳng Kinh tế Đối ngoại, nhằm tạo một diễn đàn quốc tế để các nhà nghiên cứu, hoạch định chính
sách, các nhà quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp đến từ Việt Nam và các nước:
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Hàn Quốc, Cộng hòa Áo, Cộng hòa Liên bang Đức đóng
góp tiếng nói, trao đổi thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề có liên quan đến hội nhập, hợp tác
và cạnh tranh, đồng thời qua đó tạo mối quan hệ hiểu biết nhau hơn, góp phần đẩy mạnh quá trình
hội nhập hợp tác trong khu vực và thế giới.
Với tinh thần đó, một lần nữa, chúng tôi hoan nghênh sự hiện diện của quý vị đại biểu tại
Hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức tại Hội trường Thống Nhất Tp. Hồ Chí Minh hôm nay.
Kính chúc Quý vị đại biểu sức khỏe.
Chúc buổi hội thảo thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng kính chào.
1
CHỦ ĐỀ 1: QUẢN LÝ VĨ MÔ VÀ NGÀNH KINH TẾ
2
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH VIỆT NAM
PGS.TS.Bùi Xuân Nhàn - Phó hiệu trưởng, ĐHTM
Tóm tắt
Thời gian qua, ngành du lịch nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt từ
khi nước ta gia nhập và chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
thể hiện qua số lượng khách du lịch quốc tế, nội địa và thu nhập từ du lịch. Bên cạnh những cơ hội
và thuận lợi to lớn để phát triển thì chúng ta đang đứng trước những thách thức rất lớn đó là áp
lực cạnh tranh đối với nền kinh tế nói chung trong đó có ngành du lịch nói riêng sẽ ngày càng gia
tăng. Với tư cách là một điểm đến có tiềm năng, song so với một số nước có ngành du lịch khá phát
triển trong khu vực như: Malaysia, Thái Lan và Singapore đã trở thành những điểm đến thành
công và có thương hiệu trên thị trường du lịch thế giới và trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp đối
với điểm đến du lịch Việt Nam thì năng lực cạnh tranh của điểm đến Việt Nam vẫn còn nhiều hạn
chế. Nghiên cứu về năng lực cạnh tranh điểm đến là một khái niệm còn khá mới mẻ ở Việt Nam cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Bài viết tập trung làm rõ khái niệm năng lực cạnh tranh điểm đến, các
mô hình đánh giá năng lực cạnh trang điểm đến và thực trạng năng lực cạnh tranh điểm đến của
du lịch Việt Nam theo những tiêu chí của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) so với một số nước trong
khu vực như Malaysia, Thái Lan và Singapore từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam thời gian tới.
HOÀN THIỆN KẾT CẤU HẠ TẦNG THƯƠNG MẠI ĐÔ THỊ VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP
PGS.TS Nguyễn Thị Bích Loan, Trường ĐHTM
Tóm tắt
Ngày 01 tháng 01 năm 2009, Việt Nam đó chính thức mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ theo
cam kết của WTO. Đây là cơ hội để các đô thị nước ta đẩy mạnh việc phát triển hệ thống phân phối
hiện đại, và đi cùng với đó là phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại. Quy hoạch kết cấu hạ
tầng thương mại đô thị được Chính phủ đặc biệt quan tâm và dành đầu tư thích đáng. Song trong
quá trình thực hiện cho thấy kết cấu hạ tầng thương mại đô thị nước ta còn thiếu, chưa đồng bộ,
chất lượng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại cho các đô thị
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở khái luận cơ bản về kết cấu hạ tầng thương
mại đô thị, tác giả sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê, phân tích, so
sánh… để đáng giá thực trạng kết cấu hạ tầng thương mại đô thị Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất
một số giải hoàn thiện kết cấu hạ tầng thương mại đô thị nước ta đáp ứng yêu cầu hội nhập
NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM TRÊN THỊ
TRƯỜNG NỘI ĐỊA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
PGS.TS. Bùi Hữu Đức, Khoa QTDN, ĐHTM
Tóm tắt
Mặc dù là một quốc gia có nhiều lợi thế về sản xuất nông nghiệp và có nhiều mặt hàng nông
sản xuất khẩu nằm trong tốp đầu thế giới như gạo, cà phê, tiêu, cá basa… nhưng trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, khi nông sản nhập khẩu bắt đầu tràn ngập thị
trường trong nước, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản sản xuất trong nước trên
chính thị trường nội địa đang được đặt ra như một yêu cầu mang tính tất yếu.
Bài viết này tập trung phân tích thực trạng nhập khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian
qua, đánh giá tình thế cạnh tranh của nông sản sản xuất trong nước trên chính thị trường nội địa,
chỉ ra các nguyên nhân cơ bản của tình trạng khả năng cạnh tranh hạn chế của nông sản sản xuất
3
trong nước so với nông sản nhập khẩu, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng
cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường nội địa trong thời gian tới.
Từ khoá của bài viết: Cạnh tranh thị trường nông sản nội địa, khả năng cạnh tranh của nông
sản Việt Nam, nhập khẩu nông sản, thị trường nông sản…
COOPERATION AND COMPETITION BY SEA PORTS INTERGRATION INTO
HINTERLAND
Irina Dovbischuk, Nguyen Khoi Tran, Hans-Dietrich Haasis
– Bremen University, Germany
Abstract
The process of a country’s international integration is, to a large degree, interdependent with the
regional sustainable development. This depends strongly on transport, logistics, production,
innovation and the capacity of local actors to take into account different interests, to consolidate
regional resources and competences and to integrate the regional sea port based logistics cluster into
regional hinterland and global supply chains. Actors taking influence in the sustainable regional
development in the context of sea ports, whatever the country is, build a very complex network in
the sense of cooption, i.e. a balance between cooperation and competition. After the theoretical-
historical review of sea ports regionalization this paper shows the approach for improving
cooperation and better maintaining the challenges in the transport and logistics. After this, the paper
draws conclusions on the explanatory power of the theoretical approach of cluster management in
understanding in what ways the process of the Vietnam’s international integration by sustainable
regional development could be shaped in logistics regions.
PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-ẤN ĐỘ TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP HIỆN NAY
PGS.TS Doãn Kế Bôn – Khoa TMQT, ĐHTM
Tóm tắt
Ấn độ là một thị trường thương mại lớn, nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước trong
thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của hai nước. Phát triển quan hệ
thương mại với Ấn độ là một đòi hỏi cấp thiết trong tiến trình hội nhập của nước ta hiện nay.
Trong khuôn khổ bài viết này với cách tiếp cận từ nghiên cứu các đặc điểm thương mại của
Ấn độ, phân tích toàn diện thực trạng quan hệ thương mại Việt nam- Ấn độ thời gian qua, đánh giá
những thành công, tồn tại, nguyên nhân đề xuất một số giải pháp phát huy các lợi thế phát triển
quan hệ thương mại giữa Việt nam- Ấn độ để thực hiện mục tiêu, kim ngạch hai chiều đạt 7 tỷ
USD vào năm 2015 mà lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận
Bài viết sử dụng các số liệu thứ cấp và ý kiến các chuyên gia, tổng hợp, phân tích, so sánh
đánh giá đề xuất để giải quyết các vấn đề nghiên cứu.
Quan hệ thương mại giữa hai nước bao gồm nhiều nội dung, bài viết này chủ yếu giới hạn ở
quan hệ thương mại về hàng hóa.
Abstract
India is a major trading partner of Vietnam, but the trade relations between Vietnam and
India are below the level of actual potential of the two countries. Therefore, it is necessary to
develop trade relations with India in the process of international integration of Vietnam.
In this paper, after viewing some commercial characteristics of India market, analysing the
situation of Vietnam-India trading relations in the past few years, I would like to make some
recommendations to promote trading relations between Vietnam and India, to gain the trade value
of 7 million USD in the year 2015 as the two nations agreed.
4
My methodology in this paper includes secondary data analysis, in-depth interview,
synthesis method and comparative method.
Vietnam and India have developed bilateral relations in many fields but in my paper I
mention relation of trade in goods only.
CẤU TRÚC LẠI CÁC NGÀNH SẢN XUẤT CỦA VIỆT NAM THEO HƯỚNG NÂNG CAO
GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHO HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU GIAI ĐOẠN SAU KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH VÀ SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN CẦU
PGS.TS. Hà Văn Sự - Khoa KT, ĐHTM
Tóm lược
Để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thì Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức và còn
nhiều việc phải làm. Trên cơ sở nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu với tư cách là một hình thái cấu
trúc mới của nền kinh tế thế giới hiện đại, bài viết đã phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa và
đưa ra một số giải pháp góp phần cấu trúc lại các ngành sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay.
Từ khóa: Hàng hóa xuất khẩu; Chuỗi giá trị toàn cầu; Giá trị gia tăng; Cấu trúc ngành sản
xuất.
Abstract
In order to increase the added value of export goods, especially after the global financial and
economic crisis, Vietnam has still faced with many problems. On the basis of global value chain as
a new structure mode of a modern world economy, the export situation of goods was analyzed in
this document and some solutions were presented to make contribution to the restructure of export
sectors towards the increased added value of export commodities in Vietnam in the context of
current globalization and integration.
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH DU LỊCH VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ
TS. Nguyễn Văn Lưu, ThS. Đoàn Mạnh Cương - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Tóm tắt
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng với sự phát
triển kinh tế thế giới. Hiện nay, du lịch chiếm vị trí hàng đầu trong thương mại toàn cầu, được coi
là ngành xuất khẩu và tạo việc làm lớn nhất thế giới. Theo Tổ chức Du lịch thế giới, trong thế kỷ
XXI, du lịch trở thành hoạt động kinh tế quan trọng nhất trên phạm vi toàn cầu. Với vai trò ngày
càng tăng của ngành Du lịch trong nền kinh tế thế giới, ngày càng nhiều quốc gia coi trọng phát
triển du lịch, coi du lịch là động lực chính để phát triển kinh tế-xã hội. Cùng với sự thịnh vượng về
kinh tế, đời sống của người dân được cải thiện nên nhu cầu du lịch ngày càng tăng, khả năng thanh
toàn và thời gian nhàn rỗi cũng tăng nên nhu cầu du lịch nhanh chóng chuyển hoá thành cầu du
lịch. Khách du lịch ngày càng có nhiều kiến thức và kinh nghiệm, linh hoạt và độc lập hơn; có nhu
cầu cao hơn về chất lượng và năng động hơn trong quá trình du lịch. Nhiều điểm đến du lịch mới
nổi lên. Phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại và thuận tiện hơn. Vai trò và ảnh hưởng của các
hãng lữ hành và truyền thông trên thị trường ngày càng tăng. Khách du lịch quan tâm nhiều hơn tới
chất lượng vệ sinh, môi trường của các cơ sở dịch vụ và điểm đến du lịch. Điều đó làm gia tăng áp
lực với các nước trong phát triển du lịch và phải nâng cao năng lực cạnh tranh (gọi tắt là NLCT).
Do đó, NLCT trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công mang tính dài hạn của một
quốc gia, một điểm đến du lịch.
Các nước thành công trong phát triển du lịch đều là những nước thắng lợi trong cạnh
tranh. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, quốc gia nào không chú trọng nâng cao
NLCT sẽ không thu hút được nhiều khách du lịch và thất bại trong cạnh tranh. Ngược lại, quốc gia
nào có chiến lược cạnh tranh toàn diện, biết đặt trọng tâm nâng cao NLCT, vị thế cạnh tranh của
5
nước đó sẽ được khẳng định, hiệu quả thu hút khách du lịch sẽ ngày càng cao. Với ảnh hưởng ngày
càng tăng của cạnh tranh, các nước quan tâm phát triển du lịch buộc phải nỗ lực tìm mọi cách tạo
sản phẩm khác biệt để thu hút khách du lịch. Do vậy, các quốc gia đều nỗ lực xây dựng thương
hiệu riêng và sử dụng các phương tiện marketing hiện đại để thu hút khách du lịch. Nói cách khác,
cạnh tranh giữa các nước du lịch phát triển làm gia tăng nỗ lực sử dụng các biện pháp tạo lợi thế
cạnh tranh.
Cùng với xu thế phát triển chung của du lịch toàn cầu và khu vực, những năm gần đây, Du
lịch Việt Nam đã tăng trưởng khá nhanh, trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần tích cực
vào phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Du lịch phát triển đã góp phần tạo
nhiều việc làm, tăng thu nhập ngoại tệ, cải thiện kết cấu hạ tầng và nhiều lĩnh vực trọng yếu khác.
Tài nguyên thiên nhiên, nhân văn đa dạng và vị trí địa lý thuận lợi là những nguồn lực và nhân tố
quan trọng đối với sự phát triển du lịch ở Việt Nam. Tuy nhiên, lượng khách quốc tế đến Việt Nam
và thu nhập từ du lịch còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn. Trong bảng xếp
NLCT du lịch của Diễn đàn kinh tế thế giới từ năm 2007 đến nay, Việt Nam luôn ở thứ hạng thấp
hơn so với một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Trung
Quốc. Các nước trên đều thành công trong cạnh tranh thu hút khách quốc tế và trở thành điểm đến
quen thuộc được biết đến rộng rãi trên thị trường du lịch thế giới. Phải chăng Du lịch Việt Nam
đang ở thế yếu về NLCT điểm đến so với các đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực? Nguyên nhân
nào làm cho Việt Nam trong nhiều năm liền không vượt qua được các đối thủ cạnh tranh trong khu
vực trong bảng xếp hạng NLCT du lịch của Diễn đàn kinh tế thế giới? Phải có chính sách như thế
nào để Du lịch Việt Nam cải thiện được thứ hạng, nâng cao được vị thế cạnh tranh trong bối cảnh
cạnh tranh quyết liệt từ các đối thủ cạnh tranh trong khu vực? Vì vậy, việc tập trung đi sâu nghiên
cứu để phác hoạ bức tranh toàn cảnh thực trạng NLCT của Du lịch Việt Nam hiện nay, thấy được
Du lịch Việt Nam đang ở vị trí nào và nguyên nhân vì sao Du lịch Việt Nam luôn ở thứ hạng thấp
trong các bảng xếp hạng NLCT du lịch toàn cầu để từ đó đưa ra quan điểm và khuyến nghị nhằm
nâng cao NLCT của Du lịch Việt Nam trong thời điểm hiện nay là rất cấp thiết.
Thông qua Hội thảo này, chúng tôi hi vọng sẽ góp một phần ý kiến nhằm nâng cao NLCT
của Du lịch Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành điểm đến du lịch quốc tế hấp dẫn và có vị thế cạnh
tranh cao trong khu vực và trên thế giới, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỆ SỐ AN TOÀN VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
PGS.TS Nguyễn Thị Phương Liên – Khoa SĐH, ĐHTM
Tóm tắt
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về Basel 1, 2 và 3; khảo sát, đánh giá thực trạng hệ số an
toàn vốn của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong thời gian gần đây bằng nguồn
thông tin thứ cấp, so sánh tham chiếu với một số ngân hàng trên thế giới, bài viết đề xuất một vài ý
kiến nhằm nâng cao hệ số an toàn vốn của ngân hàng với hi vọng góp thêm những luận cứ khoa
học và thực tiễn cho sự phát triển bền vững của hệ thống NHTM Việt Nam, đưa các NHTM Việt
Nam từng bước hội nhập với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
PHÁT TRIỂN DU LỊCH SAU GẦN 5 NĂM VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
TS. Phạm Xuân Hậu – Khoa KSDL, ĐHTM,
Tóm tắt
Ngay khi Việt Nam gia nhập WTO 11-01-2007, chúng tôi có bài viết “Phát triển du lịch Việt
Nam trong điều kiện gia nhập WTO” đăng trên tạp chí Khoa học Thương mại số 18/2007. Bài viết
đã phân tích những cơ hội, thách thức đối với du lịch Việt Nam và đề xuất các giải pháp đối với
6
ngành và đối với các doanh nghiệp du lịch để sớm đưa du lịch nước ta thành một ngành kinh tế
quan trọng của đất nước.
Ở bài viết lần này, trên cơ sở phân tích thực trạng việc tận dụng những cơ hội, vượt qua các
thách thức, chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành du lịch
trong gần 5 năm qua kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO và đề xuất các giải pháp phát triển du lịch
giai đoạn 2012 đến 2020. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là các phuơng pháp nghiên
cứu định lượng và định tính kết hợp phương pháp phân tích, so sánh trên cơ sở các nguồn số liệu
thứ cấp.
Từ khóa: WTO, mở cửa thị trường, cơ hội và thách thức, năng lực cạnh tranh, giải pháp phát triển
du lịch.
CẠNH TRANH KINH TẾ TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG 2008
PGS. TS. Nguyễn Văn Lịch - Học viện Ngoại giao
Abstract
Tháng 6/2011, Giáo sư N. Roubini (New York), chuyên gia kinh tế nổi tiếng vì dự báo chính
xác tình hình khủng hoảng tài chính hiện nay, vừa đưa ra lời cảnh báo rằng, có 4 yếu tố tiêu cực
đang đồng thời tác động đến kinh tế thế giới. Đó là quá trình tái cấu trúc nợ tại châu Âu, tình trạng
suy thoái của Nhật Bản, sự tăng trưởng chậm lại của Trung Quốc và những khó khăn về tài chính
của Mỹ. Với sự tác động của 4 yếu tố trên, nên có 30% khả năng sẽ tạo ra một “cơn bão kinh tế
toàn diện” trong khoảng 2 năm nữa. Kinh tế thế giới đang đứng trước những nguy cơ mới. Theo
Giáo sư Roubini: “Hiện nay, đã thấy rõ những dấu hiệu của sự suy yếu. Tất cả các nước đang tiếp
tục đi trên con đường gia tăng nợ của nhà nước và của tư nhân. Chậm nhất là vào năm 2013, tất cả
những khoản nợ nần này sẽ cho thấy hậu quả của nó. Cơn bão kinh tế toàn diện có thể đổ ập xuống
kinh tế thế giới vào năm 2013”
1
. Trong bối cảnh trên, quan hệ kinh tế giữa các nước sẽ làm nảy
sinh nhiều mối quan hệ mới, làm cho nội dung, hình thức cạnh tranh ngày càng đa dạng,
phong phú. Những phân tích sau đây sẽ làm rõ điều này.
ANALYSIS OF THE PROCESS AND EXPERIENCE OF CHINA’S OVERALL OPENING-
UP TO THE WORLD:INTERNATIONALIZATION, COOPERATION AND
DEVELOPMENT
Yujie Zhang
2
Abstract
China is in possession of the most business opportunities in the world and it has changed
greatly ever since its reform and opening-up. Now, with its per capita GDP exceeding $4,000,
China has become the second largest economy all over the world, as the most vibrant emerging
economy. Developments of China do have positive economic effects on surrounding areas, on
neighboring countries and even on the whole world. It is basic experience with development,
internationalization and cooperation in China.
Key Words: Reform and Opening-up; Chinese Economy; Asian Economy;
internationalization; world Economy
PHÁT TRIỂN DU LỊCH SAU GẦN 5 NĂM VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
TS. Phạm Xuân Hậu – Khoa KSDL - ĐHTM
Tóm tắt
Ngay khi Việt Nam gia nhập WTO 11-01-2007, chúng tôi có bài viết “Phát triển du lịch Việt
Nam trong điều kiện gia nhập WTO” đăng trên tạp chí Khoa học Thương mại số 18/2007. Bài viết
đã phân tích những cơ hội, thách thức đối với du lịch Việt Nam và đề xuất các giải pháp đối với
1
Kinh tế toàn cầu có thể đối mặt với giai đoạn khó khăn mới, Tin kinh tế thế giới, ngày 15/6/2011
2
7
ngành và đối với các doanh nghiệp du lịch để sớm đưa du lịch nước ta thành một ngành kinh tế
quan trọng của đất nước.
Ở bài viết lần này, trên cơ sở phân tích thực trạng việc tận dụng những cơ hội, vượt qua các
thách thức, chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành du lịch
trong gần 5 năm qua kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO và đề xuất các giải pháp phát triển du lịch
giai đoạn 2012 đến 2020. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là các phuơng pháp nghiên
cứu định lượng và định tính kết hợp phương pháp phân tích, so sánh trên cơ sở các nguồn số liệu
thứ cấp.
Từ khóa: WTO, mở cửa thị trường, cơ hội và thách thức, năng lực cạnh tranh, giải pháp phát triển
du lịch.
XUẤT KHẨU DỊCH VỤ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP: THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
PGS.TS Hà Văn Hội – ĐH Kinh tế, ĐHQGHN
Tóm tắt
Mặc dù xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ, nhưng
kim ngạch và tốc độ tăng trưởng của hoạt động này vẫn chưa xứng với tiềm năng của nó. Nguyên
nhân của tình trạng này là do nhận thức về vai trò của xuất khẩu dịch vụ chưa thật đúng đắn, dẫn
đến hệ thống chính sách và biện pháp thúc đẩy phát triển dịch vụ để xuất khẩu chưa được chú
trọng.
Mục đích bài viết nhằm chỉ ra những điểm còn bất cập trong xuất khẩu dịch vụ cũng như
chính sách và biện pháp đối với lĩnh vực này. Thông qua đó, bài viết đề xuất một số giải pháp trên
góc độ vĩ mô (đối với nhà nước) và vi mô (đối với các doanh nghiệp) nhằm thúc đẩy tăng trưởng
xuất khẩu dịch vụ trong thời gian tới.
Bài viết vận dụng các phương pháp phân tích, thống kê, kế thừa để tập hợp và tổng hợp số
liệu. Đồng thời, trên cơ sở số liệu thứ cấp, phương pháp phân tích SWOT được sử dụng để phân
tích và chỉ rõ thực trạng xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam trong thời gian qua.
Từ khóa trong bài: Phương thức xuất khẩu dịch vụ; Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, Cơ cấu dịch vụ
xuất khẩu; Chính sách xuất khẩu dịch vụ.
TIÊU CHUẨN DỊCH VỤ KHU VỰC CÔNG: NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỂ HIỆN TẠI
MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
PGS. TS. Hoàng Văn Hải, Th.S Dương Thị Thu – ĐH Kinh tế, ĐHQGHN
Th.S. Trần Thị Hồng Liên – ĐH Luật , ĐHQGHN
Tóm tắt
Cải tiến chất lượng dịch vụ khu vực công là một quá trình lâu dài và liên quan đến nhiều
nhóm đối tượng hữu quan khác nhau, như được mô tả trong Chuỗi giá trị dịch vụ khu vực công. Để
đảm bảo các yếu tố trong chuỗi đạt được kết quả tốt nhất, điều cần thiết là chúng được kiểm soát
thông qua hệ thống các tiêu chuẩn phù hợp. Hệ thống tiêu chuẩn cần đơn giản, thiết thực và dễ
hiểu để tất cả các nhóm đối tượng hữu quan (người lao động, các nhà lãnh đạo và quản lý, các
nhóm khách hàng bên trong và bên ngoài/công dân) đều có thể sử dụng dễ dàng. Hơn nữa, đôi khi,
người sử dụng dịch vụ có những kỳ vọng hết sức phi thực tế vào dịch vụ công. Thay cho việc phát
triển các tiêu chuẩn chặt chẽ cho điểm đánh giá tính đúng hạn, các nhà quản lý có thể chuyển
những nỗ lực của họ vào hiểu biết, theo dõi và quản lý kỳ vọng của người dân về lượng thời gian
cần cho dịch vụ. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của các tiêu chuẩn dịch vụ.
8
TRANH CHẤP LIÊN QUAN BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI MẶT
HÀNG THÉP TRONG WTO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆT NAM
Ths. Lê Thị Việt Nga – Khoa TMQT, ĐHTM
Tóm tắt
Để thúc đẩy cạnh tranh công bằng và đảm bảo phát triển thương mại thế giới trên nền tảng
phát triển bền vững, WTO đã đưa ra những quy định điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp phòng
vệ thương mại của các Thành viên. Tuy nhiên, thực tế vẫn có những tranh chấp xảy ra giữa các
Thành viên của WTO liên quan việc sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Vấn đề đặt ra là
với tư cách Thành viên của Tổ chức này, Việt Nam cần làm gì để tránh hoặc để giải quyết một cách
hiệu quả những tranh chấp liên quan biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt tranh chấp về biện
pháp phòng vệ thương mại đối với mặt hàng thép, một mặt hàng Việt Nam có điều kiện thuận lợi để
sản xuất và xuất khẩu nhưng đang phải đối mặt với áp lực cạnh tranh dữ dội của thép nhập khẩu
và các biện pháp phòng vệ thương mại của nước nhập khẩu. Bằng phương pháp phân tích, tổng
hợp, tác giả mạnh dạn đặt ra một số vấn đề cần thiết cho Việt Nam để có thể sử dụng hiệu quả
những quy định của WTO về phòng vệ thương mại đối với mặt hàng thép sau khi nghiên cứu những
quy định của WTO và những tranh chấp giữa các Thành viên của WTO liên quan biện pháp phòng
vệ thương mại đối với mặt hàng thép.
THỰC TRẠNG NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM VÀ NĂNG LỰC ĐÁP ỨNG
NHU CẦU LIÊN KẾT KINH DOANH
Viện Phát triển doanh nghiệp - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Viện nghiên cứu và phát triển Logistics
Tóm tắt
Môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày nay không còn là sự cạnh tranh giữa các công ty với
nhau mà là giữa các chuỗi cung ứng. Việc quản lý chuỗi cung ứng đòi hỏi một sự cộng tác và điều
động hiệu quả dòng vật tư, hàng hóa, dịch vụ và thông tin xuyên suốt các hệ thống logistics của tất
cả các tổ chức trong mạng lưới. Việt nam có thuận lợi về điều kiện địa lý và những yếu tố để phát
triển ngành logistics, tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng còn hạn chế, vai trò quan trọng của ngành
logistics vẫn chưa được phát huy đúng mức, nhất là trong việc làm cầu nối trong kinh doanh, thúc
đầy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chi phí logistics ở Việt Nam cao hơn từ
130 đến 150% so với mặt bằng chung ở các nước phát triển, dẫn đến năng lực cạnh tranh yếu kém
của nhiều sản phẩm và dịch vụ. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không đang
ngày càng được nâng cấp và phát triển, tuy vậy, vấn đề đang nổi lên là thiếu sự kết nối giữa các
phương thức giao thông vận tải khác nhau này. Hơn nữa, năng lực của các doanh nghiệp logistics
Việt Nam cũng còn hạn chế, các doanh nghiệp này cung cấp chủ yếu thuộc 3 nhóm dịch vụ logistics
trên cơ sở vận tải, kho bãi và giao nhận. Họ có nguy cơ tiếp tục bị lệ thuộc và “thua trên sân nhà”
trong lĩnh vực logistics khi phải đối mặt với các công ty có bề dày kinh nghiệm và hệ thống cung
cấp dịch vụ rộng khắp trên nhiều quốc gia.
FTA VIỆT NAM – EU : PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG GIẢM THUẾ CÁ SẢN PHẨM DỆT
MAY VÀ DA GIẦY TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM SỬ DỤNG MÔ HÌNH GTAP.
Ths.Nguyễn Duy Đạt – Khoa TMQT, ĐHTM
Tóm tắt
Năm 2010, Việt Nam và EU đã ký tắt Hiệp định Đối tác, hợp tác toàn diện (PCA) và đồng
thuận xem xét nghiên cứu đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa hai bên. Với tính chất
là một hiệp định có mức độ cam kết mở cửa thị trường mạnh và sâu trong hầu hết các lĩnh vực
thương mại (hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…), FTA Việt Nam – EU được kỳ vọng tác
động tích cực đến nhiều ngành sản xuất cũng như nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU, trong đó ngành dệt may và da giày là những ngành xuất khẩu
9
hàng đầu của Việt Nam sang EU. Bài viết sử dụng mô hình GTAP để phân tích tác động của cam
kết FTA trong lĩnh vực dệt may và da giày đến tăng trưởng, xuất nhập khẩu cũng như phúc lợi của
nền kinh tế. Việc phân tích cho thấy khi EU giảm thuế đối với các sản phẩm dệt may và da giày Việt
Nam một mặt làm tăng xuất khẩu, sản lượng công nghiệp trong ngành dệt may và da giày cũng như
GDP và tích lũy vốn vật chất trong nền kinh tế. Nhưng FTA mặt khác vẫn sẽ khiến chúng ta tăng
nhập siêu do giá trị gia tăng trong ngành dệt may và da giày kém cũng như cơ cấu lạc hậu của nền
kinh tế.
Từ khóa: GTAP, FTA, Việt Nam - EU, hội nhập kinh tế quốc tế, dệt may, da giày.
LỰA CHỌN CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ DỰA TRÊN MÔ HÌNH MUNDELL-
FLEMING
Th.S Vũ Thị Minh Phương – Khoa SĐH, ĐHTM
Tóm tắt
Trải qua hơn hai mươi năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước,
nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Song
trong thời gian qua do tác động của cưộc suy thoái toàn cầu Việt Nam cũng không tránh khỏi hiệu
ứng lan truyền này. Với sự tích cực điều hành của Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước
được phục hồi nhưng vẫn còn đang tiềm ẩn những nguy cơ suy thoái, Để ổn định nền kinh tế, chính
sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái đã được sử dụng như là những công cụ
quản lý vĩ mô trọng yếu của Nhà nước.Tuy nhiên trong quá trình điều hành vẫn còn những bất cập
và tiếp tục từng bước phải điều chỉnh. Với giới hạn của bài viết này sẽ chỉ ra những bất cập của
việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô đặc biệt là chính sách tiền tệ dựa trên Mô hình Mundell-
Fleming trong lý thuyết kinh tế học hiện đại, từ đó đưa ra các khuyến nghị về chính sách nhằm ổn
định kinh tế vĩ mô.
CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM - YẾU TỐ CẦN THIẾT NHẰM
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
ThS. Trần Mai Ước, ThS. Nguyễn Thị Minh Tâm - Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Trong một thế giới mở cửa và hội nhập, việc cải thiện môi trường đầu tư hoặc hướng tới
một môi trường kinh doanh lành mạnh, đủ sức cạnh tranh là đích đến để phát triển kinh tế, xã hội
của bất kỳ quốc gia đang phát triển nào, trong đó có Việt Nam. Cải thiện môi trường đầu tư là một
trong những điểm quan trọng và cần thiết để phát triển kinh tế nhanh, bền vững của nước ta trong
giai đoạn hiện nay nhằm tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Trong những năm gần đây, kết quả thu hút đầu tư của Việt Nam đã có chuyển biến tích cực,
mặc dù đạt được những kết quả bước đầu, song các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu
là các dự án có quy mô vừa và nhỏ, chưa thu hút được nhiều dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện
đại. Bài viết nêu một số vấn đề cần tập trung giải quyết để trong thời gian tới Việt Nam sẽ trở
thành một địa điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, tạo thành chất “xúc tác” cần thiết để phát
triển kinh tế.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
Th.S Nguyễn Thị Dung Huệ - Đại học Ngoại Thương
Tóm tắt
10
Dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, hàng năm mang lại kim ngạch xuất khẩu
cao, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, mang lại công ăn việc làm cho một số lượng lớn người
lao động Việt Nam. Tuy nhiên, ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) dệt may trong nước còn sơ khai
và non yếu dẫn đến ngành công nghiệp dệt may phụ thuộc quá nhiều vào nguồn cung ứng bên
ngoài, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm và hiệu quả xuất khẩu thấp. Điều này khiến ngành công
nghiệp dệt may Việt Nam khó có thế phát triển một cách bền vững. Do đó, việc phát triển công
nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành dệt may đang trở thành một vấn đề thu hút được sự quan tâm
không chỉ của các cơ quan hoạch định chính sách, các chuyên gia nghiên cứu mà còn của chính các
doanh nghiệp.
Bài viết giới thiệu quan điểm lý thuyết về các tiêu chí phát triển CNHT dệt may và phân tích
thực tế phát triển CNHT dệt may của Việt Nam thông qua các tiêu chí này. Từ đó, bài viết đề xuất
một số giải pháp nhằm phát triển hơn nữa ngành CNHT dệt may tuy non trẻ nhưng đóng một vai
trò vô cùng quan trọng đối với ngành công nghiệp dệt may trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
SẢN PHẨM THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM Ở THỊ TRƯỜNG MỸ
Nguyễn Thị Lệ - Khoa KT, ĐHTM
Tóm lược
Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình CNH – HĐH cũng như chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Thủy sản là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam và những năm qua, xuất khẩu mặt hàng này đã có cải thiện đáng kể nhưng mức độ tăng
vẫn chưa thực sự ổn định và gặp phải không ít các rào cản từ các thị trường lớn như Mỹ. Thực tế,
năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủy sản của nước ta chưa cao, đồng thời trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các gói trợ cấp về tài chính không còn được phép sử dụng thì vai trò
của xúc tiến thương mại Nhà nước càng được thể hiện rõ. Qua bài viết, tác giả sẽ làm rõ những
vấn đề liên quan đến xúc tiến thương mại (XTTM) Nhà nước, thực trạng năng lực cạnh tranh của
sản phẩm thủy sản và đề xuất một số giải pháp về XTTM Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm này ở thị trường Mỹ trong thời gian tới.
Từ khóa :Năng lực cạnh tranh, Sản phẩm thủy sản, Thị trường Mỹ, Xúc tiến thương mại Nhà nước
ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH TẦM CỠ QUỐC TẾ, SỰ CẦN THIẾT VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA NHẰM
PHÁT TRIỂN ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH ĐẠT TẦM CỠ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Tú - Khoa KSDL, ĐHTM
Tóm tắt
Trong bối cảnh nền kinh tế cạnh tranh và xu thế hội nhập có tính toàn cầu như hiện nay, cùng
với đó, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO đã tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch nước
ta phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, song cũng vì thế mà phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt
ở tầm quốc tế. Để tham gia và khẳng định thương hiệu nhằm tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút khách
trên thị trường du lịch quốc tế, Việt Nam cần thiết phát triển một số điểm đến du lịch đạt tầm cỡ
quốc tế có chất lượng, mang tính bền vững, đủ năng lực cạnh tranh dựa trên tiềm năng tài nguyên du
lịch và nhiều yếu tố khác.
Mục đích của bài viết là chỉ ra các tiêu chí cần có của điểm đến du lịch tầm quốc tế, khẳng
định sự cần thiết và những vấn đề cần phải giải quyết để có thể phát triển một số điểm đến du lịch
của Việt Nam đạt tầm quốc tế.
Bằng phương pháp nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước, đặc biệt các nghiên cứu
tổng kết tình hình phát triển du lịch kết hợp với khảo cứu sơ bộ hoạt động du lịch tại một số điểm
11
đến du lịch của nước ta như Hạ Long, Hà Nội, Phố cổ Hội An, Sapa, Cát Bà,…bài viết đề cập đến
một số tiêu chí xác định điểm đến du lịch đạt tầm quốc tế; khẳng định sự cần thiết phát triển điểm
đến du lịch đạt tầm quốc tế ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá sơ bộ hoạt động du lịch tại một số
điểm đến có tiềm năng du lịch đặc sắc ở Việt Nam để nhận dạng tài nguyên du lịch và những bất
cập trong hoạt động du lịch, tổng hợp tình hình và đưa ra nhận định về tính cấp thiết cũng như điều
kiện và các vấn đề phải giải quyết để có thể phát triển một số điểm đến du lịch của Việt Nam đạt
tầm quốc tế.
Từ khóa (keywords): Điểm đến, cần thiết, phát triển, tầm quốc tế, tiêu chí.
GIẢI PHÁP VĨ MÔ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP, HỢP TÁC VÀ CẠNH TRANH
Th.S Nguyễn Thu Quỳnh – Phòng HCTH, ĐHTM
Tóm tắt
Trong những năm gần đây, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ với thị trường xuất khẩu được mở rộng đáng kể. Bên cạnh những thị trường truyền
thống như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản nước ta đã tiếp cận thành
công các thị trường mới như Hoa Kỳ, EU, Trung Đông, Châu Phi. Tuy nhiên, số lượng thị trường
và quy mô xuất khẩu nông sản vào từng thị trường xuất khẩu như hiện nay còn chưa tương xứng
với tiềm năng xuất khẩu nông sản của nước ta. Mặt khác, trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi xu
thế hội nhập, hợp tác và cạnh tranh ngày càng rõ nét, việc duy trì và phát triển thị trường xuất
khẩu nông sản gặp không ít khó khăn, thách thức. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nước ta là phải phát
triển thị trường xuất khẩu nông sản để đảm bảo được kế hoạch xuất khẩu đặt ra.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thị trường xuất khẩu nông sản nước ta thời gian qua,
nhận diện những tác động của xu thế hội nhập, hợp tác và cạnh tranh tới thị trường xuất khẩu nông
sản, bài viết đề xuất những giải pháp vĩ mô nhằm phát triển thị trường xuất khẩu nông sản nước ta
trong bối cảnh hiện nay.
PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH TÂM LINH Ở VIỆT NAM
Th.S. Nguyễn Văn Luyền – Khoa KSDL, ĐHTM
Tóm tắt
Trên thế giới, Du lịch tâm linh (DLTL) đã tồn tại và phát triển từ trăm năm nay. Đây là một
trong những loại hình Du lịch (DL) chiếm tỷ trọng lớn trong ngành DL. Ở Việt Nam, trong chiến
lược phát triển DL 2001 – 2010 và định hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cũng đã khẳng định:
“Phát triển Du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Cùng với tiềm năng phong
phú, đa dạng, ngành DL Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh cả chiều rộng và chiều sâu.
Tuy nhiên, DLTL một loại hình DL được xem như là mới ở nước ta, thực tế đã có những đóng góp
đáng kể vào sự phát triển của ngành nhưng vẫn chưa được hiểu, quan tâm đầu tư để phát triển
đúng với tiềm năng của nó, cả với những nhà hoạch định, các doanh nghiệp DL, các tổ chức điểm
đến và với ngay cả những du khách hành hương. Vì vậy, thời gian tới DLTL phải được xem như là
một điểm nhấn và được đầu tư thoả đáng.
Được tiếp cận ở góc độ vĩ mô, sử dụng phương pháp phân tích thống kê và khảo sát trực
quan. Bài viết đã đánh giá về sự phát triển của ngành DL Việt Nam thời gian qua, bản chất của
DLTL, sự phát triển loại hình DL này của một số nước trên thế giới và ở Việt Nam, để từ đó đưa ra
những giải pháp phát triển DLTL của ngành DL.
FROM BAMBOO CAPITALISM WATER LILY : CASES OF LCG INDUSTRY IN EAST
ASIAN
Keunyeob Oh, Insoo Han, Jinman Yoo
-
Chungnam National University, Korea
12
Abstract
There are a couple of frameworks to explain the economic development in East Asian
countries; Flying geese model, Bamboo capitalism, and Water lily model. This paper this paper
investigates the development of the liquid crystal display (LCD) industry in East Asia and
determines which model describes best the development of LCD industry in the region.
We first explain three models and provide brief history of LCD industry in this area. Then,
we analyze the trade structure and competitiveness by using international trade data. We find that
Korea exports panels to Japan, China, and Taiwan, while Korea imports materials, components,
and manufacturing equipment from Japan. Although China exports a lot of LCD panels and other
IT products, this paper shows China has a long way to go in the sense that China is importing large
panels from Korea, manufacturing equipment from Japan, and components from Taiwan and
Japan. Although Japan’s place in the industry appears to be declining, Japan is still strongly
competitive in that Japan supplies much manufacturing equipment and materials and components.
This structure seems to show that the development of LCD industry might be explained in terms of
Bamboo capitalism. On the other hand, from the fact that new LCD clusters are being established
in China in addition to previous clusters of Korea, Taiwan, and Japan, it seems reasonable to
conclude that LCD industry is on the way from Bamboo capitalism to Water lily model.
Key words: LCD, International Trade, Competitiveness, Flying Geese Model
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN PHẨM CHÈ CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG MỸ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Th.S. Phan Thu Giang – Khoa TMQT, ĐHTM
Tóm tắt:
Là một trong những mặt hàng nông sản có thế mạnh, từ lâu chè đã được coi là một cây
trồng quan trọng có vị trí chiến lược đối với một số tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ. Việc phát
triển cây chè sẽ đem đến cho các khu vực này những cơ hội mới để phát triển kinh tế. Chè khẳng
định mình không chỉ bằng việc thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn là một mặt hàng
xuất khẩu quan trọng.
Mặc dù chưa phải là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của ngành chè Việt Nam nhưng
thị trường Mỹ vẫn là một trong những thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành nông sản Việt Nam
nói chung và của mặt hàng chè nói riêng. Mục đích của bài viết này là phân tích thực trạng xuất
khẩu chè của Việt Nam vào thị trường Mỹ, từ đó đề xuất một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chè
của Việt Nam sang thị trường này.
Từ khóa: chè, thị trường Hoa Kì, thúc đẩy xuất khẩu, sản phẩm chè xuất khẩu, xuất khẩu chè.
HỢP TÁC THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ VIỆT NAM - CAMPUCHIA (1998-2010)
ThS. Trần Xuân Hiệp - Đại học Duy Tân – Đà Nẵng
Tóm tắt
Quan hệ kinh tế Việt Nam – Campuchia thời gian qua đã gặt hái được nhiều thành tựu quan
trọng, góp phần vào sự ổn định, phát triển của mỗi quốc gia, củng cố và tăng cường hơn nữa mối
quan hệ hữu nghị, truyền thống giữa hai dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được,
quan hệ kinh tế hai nước còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Trong giới hạn bài viết,
chúng tôi chỉ điểm lại một số thành tựu nổi bật trong quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư giữa
Việt Nam và Campuchia. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị cơ bản nhằm thúc đẩy mối quan hệ
này phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
13
XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Vũ Anh Tuấn – Khoa TMQT, ĐHTM
Tóm tắt
Việt Nam – Hoa kỳ đã mở rộng quan hệ hợp tác song phương, nhất là về kinh tế và thương
mại. Hoa kỳ luôn được coi là thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
trong đó có ngành gỗ. Các sản phẩm gỗ của Việt Nam được thị trường Hoa kỳ khá ưa chuộng. Tuy
nhiên, hoạt động xuất khẩu gỗ trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn. Qua phân tích tác giả đề
xuất một số khuyến nghị với ngành gỗ Việt Nam.
ẢNH HƯỞNG CỦA CẮT GIẢM THUẾ QUAN ĐỐI VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP WTO
NCS. Nguyễn Thị Thu Hiền – Th.s Vũ Ngọc Tú , Khoa KT, ĐHTM
Tóm tắt
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp I-O để phân tích ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế
quan hàng nông sản đối với sản lượng và việc làm của khu vực nông nghiệp nói riêng và với nền
kinh tế nói chung. Kết quả phân tích cho thấy, mức cắt giảm thuế quan 20% trong khuôn khổ WTO
gây ra tác động rất nhỏ đối với sản lượng và việc làm của nền kinh tế: sản lượng tăng thêm
0,008%, trong đó khu vực nông nghiệp tăng 0,021%; số việc làm tăng thêm 0,0048% (1793 việc
làm), trong đó số việc làm trong khu vực nông nghiệp tăng 0,0085% (1708 việc làm). Thông qua
các kết quả phân tích và so sánh, nghiên cứu cũng đề xuất một số định hướng nhằm khai thác tốt
hơn những lợi thế của nông nghiệp Việt Nam khi tham gia WTO, đó là: cần chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu nông sản theo hướng tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến, tăng mức
độ chuyên môn hóa và ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp để tạo ra những sản
phẩm nông sản có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh tại chính thị trường trong nước và
xuất khẩu.
Từ khóa: Nông nghiệp, thuế quan, phương pháp I-O, cạnh tranh (Agriculture, Tariff, I-O analysis,
Competition)
KINH NGHIỆM PHÁT HUY LỢI THẾ TRONG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN SAU GIA
NHẬP WTO CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Th.S Vũ Văn Hùng – Khoa LLCT, ĐHTM
Tóm tắt
Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp
nói riêng, mỗi quốc gia đều tập trung đầu tư cho một số mặt hàng mũi nhọn dựa trên các lợi thế để
sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp, có sức cạnh tranh cao
trên thị trường quốc tế. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước thành công trong lĩnh vực xuất
khẩu nông sản như Thái Lan và Trung Quốc cho thấy, Chính phủ các nước này rất quan tâm tới
việc phát triển nông sản xuất khẩu thông qua việc phát huy lợi thế. Kinh nghiệm có được từ các
quốc gia trên như: vấn đề lựa chọn cơ cấu cây trồng, vấn đề đầu tư khoa học công nghệ, vấn đề hỗ
trợ xuất khẩu nông sản, rất cần thiết đối với nước mới gia nhập WTO như Việt Nam. Xuất phát từ
nhu cầu cấp thiết của sự phát triển, áp lực của cạnh tranh quốc tế và lộ trình cam kết với WTO,
Việt Nam cần phát huy tốt những lợi thế của mình để đưa nền nông nghiệp phát triển bền vững, có
vị thế và hiệu quả kinh tế cao từ việc xuất khẩu nông sản.
Từ khóa: Bài học kinh nghiệm, Cam kết WTO của Việt Nam, Giá trị nông sản, Kinh nghiệm xuất
khẩu nông sản, Nông sản, Nông nghiệp, Nông dân.
14
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP, CẠNH
TRANH VÀ HỢP TÁC
ThS. Bùi Thị Dung - Trường Chính trị Bình Dương
ThS. Trần Mai Ước - Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Năm 2005, luật Doanh nghiệp ra đời đã tạo nên một “hơi thở” mới cho nền kinh tế. Kể từ
đó đến nay đã có nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời, có sự đóng góp nhất định đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh và hợp tác hiện nay thì vai
trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại càng quan trọng đối với sự phát triển nhanh, bền vững
của nước ta hiện nay. Bài viết góp phần nhận dạng các đặc điểm về thuận lợi, thách thức của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ đó đưa ra một vài giải pháp cơ bản nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa trong giai đoạn hiện nay.
TĂNG CƯỜNG MỐI LIÊN KẾT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ: VIỆT NAM VÀ DIỄN ĐÀN
HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
Đặng Hoàng Anh – Khoa KT, ĐHTM
Tóm tắt
Trong trào lưu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang diễn ra như một xu thế khách
quan. Là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam không thể đứng
ngoài một quá trình chung đang diễn ra trên toàn cầu. Ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ
trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào không
liên kết, Nhóm G77 và đặc biệt là Liên Hợp Quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu
tranh cho một trật tự mới, công bằng, đồng thời tham gia tích cực vào các liên kết kinh tế - thương
mại quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái
Bình Dương (APEC), và gần đây nhất là trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới
(WTO). Nếu vào năm 1990, Việt Nam mới có quan hệ buôn bán với trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ
thì đến năm 2001 đã là trên 170 và đến nay là hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 80 quốc
gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta. Trong giới hạn bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến
Liên kết thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
nhằm tìm ra những thuận lợi, khó khăn và khuyến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ
giữa Việt Nam và Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương.
HỘI NHẬP FTA VIỆT NAM – EU: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
Đỗ Thị Thanh Huyền – Viện PTTM, ĐHTM
Tóm tắt
Trong những năm gần đây EU luôn là đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việc đàm phán
và ký kết một FTA giữa Việt Nam và EU được xem là bước đi quan trọng giúp Việt Nam hội nhập
sâu hơn vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, với tính chất là một cam kết mở cửa thị trường mạnh và
sâu trong hầu hết các lĩnh vực thương mại (hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…), FTA Việt
Nam - EU nếu được đàm phán và ký kết sẽ đem đến cho nền nền kinh tế Việt Nam nói chung và các
ngành thương mại nói riêng cơ hội thúc đẩy thương mại, cải thiện môi trường đầu tư… nhưng cũng
có nhiều thách thức. Việt Nam cần có những bước đi phù hợp trong việc tiến hành đàm phán, kí kết
FTA với EU nhằm chủ động nắm bắt cơ hội và đối mặt với thách thức khi hội nhập FTA này.
Các từ khóa: Cơ hội, EU, FTA, thương mại, thách thức, Việt Nam.
15
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – NHẬT BẢN (VJEPA)
ĐÉN XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN SAU GẦN HAI NĂM
THỰC THI
ThS. Dương Hoàng Anh, ThS. Phạm Thị Dự - Khoa KT, ĐHTM
Tóm tắt
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) chính
thức có hiệu lực và đi vào thực thi. Việc thực thi VJEPA với các lộ trình cắt giảm thuế sẽ có tác
động như thế nào đến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Nhật, đặc biệt với các nhóm hàng chủ lực
của Việt Nam như thủy sản, dệt may, rau quả Qua nghiên cứu thực trạng xuất khẩu từ 2010 đến
nay, nhóm tác giả muốn chỉ rõ những tác động tích cực của việc thực thi VJEPA đến xuất khẩu
hàng hóa Việt Nam sang Nhật và đưa ra một vài hàm ý chính sách cho chính phủ Việt Nam.
Từ khóa: Hiệp định đối tác kinh tế, VJEPA
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG SỨC CẠNH TRANH CỦA KINH TẾ THỦ ĐÔ TRONG
HỘI NHẬP HIỆN NAY
TS. Hoàng Xuân Nghĩa - Viện nghiên cứu phát triển KT-XH Hà Nội
Tóm tắt
Thủ đô Hà Nội cùng với cả nước đã tham gia tích cực quá trình mở cửa, hội nhập và đạt được
những thành công bước đầu. Đặc biệt, kể từ khi Việt Nam chính thức ra nhập tổ chức WTO năm
2007 thì quá trình này chuyển sang giai đoạn mới sâu sắc và toàn diện hơn. Nhưng chỉ ngay sau đó
1 năm, nền kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng, suy thoái tồi tệ nhất và tác động lan truyền
nhanh chóng. Có thể nói, đây là những thử thách quan ngại đầu tiên đối với một nền kinh tế vừa
mới hội nhập như Việt Nam. Khủng hoảng, suy thoái cũng cho chúng ta nhận thức rằng, hội nhập
cùng với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, thời cơ và thách thức đan xen, đang gây áp lực mạnh mẽ
lên các nền kinh tế trong cuộc chơi toàn cầu hóa. Do đó, đây cũng là cơ may để chúng ta xem xét
đánh giá lại mình và có đối sách thích hợp cho những bước đi hội nhập tiếp theo. Với cách tiếp cận
như vậy, Bài viết sẽ tập trung phân tích đánh giá các hạn chế về chất lượng tăng trưởng, sức cạnh
tranh ở các cấp độ nền kinh tế, hàng hóa – dịch vụ và từng doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và công nghệ, đặc biệt, các yếu tố nền tảng về thể chế, điều hành vĩ mô và cơ sở hạ tầng của nền
kinh tế Thủ đô, như là nội dung và yếu tố cốt lõi của cạnh tranh trong hội nhập toàn cầu hiện nay.
MẤY VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN LOGISTICS Ở VIỆT NAM
PGS.TS. Lê Xuân Đình - Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Những ngày cuối của Quý I/2011, cả nước đang nóng lên với thông tin, rằng 70% doanh thu
hiện đang rơi vào túi các doanh nghiệp logistics nước ngoài, trong khi đó, ước tính sơ bộ, tổng
nguồn thu từ dịch vụ logistics (bao gồm kho vận, giao nhận, vận chuyển và phân phối) vào khoảng
15-20% GDP của VN là một con số khổng lồ (khoảng 12 tỉ USD/năm với mức GDP như hiện nay).
Nguyên nhân do đâu và làm như thế nào để chiếm lĩnh “sân nhà” đang là vấn đề làm đau đầu các
nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách Việt Nam.
Tóm tắt
Nghiên cứu của tác giả đã khái quát quá trình phát triển logistics ở Việt Nam, nhấn mạnh
sự khác biệt về nhận thức, cũng như chỉ rõ tiềm năng phát triển cả trong hiện tại và tương lai trên
cơ sở phân tích dự báo xu hướng phát triển logistics thế giới. Sau khi làm rõ thực trạng logistics
của Việt Nam, tác giả đã tập trung phân tích những điều kiện tiên quyết của việc đẩy mạnh phát
triển logistics trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Trước thực tế là các doanh nghiệp logicstis
Việt Nam vừa chưa có tiềm lực, kinh nghiệm, vừa thiếu đầu tư công nghệ do thiếu vốn, chỉ đáp
ứng những dịch vụ đơn giản, hoạt động manh mún, qua nhiều trung gian, đại lý… nên chất lượng
16
dịch vụ thấp, kém hấp dẫn. Theo tác giả, cần có bước đi thích hợp, một mặt vừa tích lũy để đầu tư
hiệu quả hạ tầng logistics, nhưng đồng thời vẫn phải coi trọng việc lựa chọn đối tác “đủ tầm” –
năng lực, uy tín, kinh nghiệm, ưu tiên chọn các công ty logistics nổi tiếng trên thế giới, liên kết với
họ, tham khảo ý kiến của họ, học tập kinh nghiệm của họ để phát triển logistics nước nhà một cách
bền vững và hiệu quả. Cuối cùng nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp cơ bản trước mắt để phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của logistics trong quá trình hội nhập.
LIÊN KẾT KINH DOANH TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ DU LỊCH
Lương Minh Huân - Viện PTDN, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Tóm tắt
Cùng sự nghiệp đổi mới của đất nước hơn 20 năm qua và sau 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển du lịch giai đoạn 2001- 2010, ngành Du lịch đã có nhiều tiến bộ và đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên sự phát triển thiếu liên kết vẫn còn là điểm hạn chế của du lịch
Việt nam. Chuỗi giá trị trong ngành du lịch bao gồm tất cả các bên tham gia vào quá trình cung
cấp các trải nghiệm du lịch, từ nhóm các sản phẩm đặc trưng (dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
dịch vụ lữ hành), đến nhóm các sản phẩm gắn với du lịch (dịch vụ vận chuyển, dịch vụ văn hóa,
dịch vụ vui chơi giải trí) và cuối cùng là nhóm các sản phẩm phụ trợ (bán lẻ hàng hóa, dịch vụ y tế,
dịch vụ bảo hiểm ) .Thực trạng phát triển du lịch hiện nay ở Việt Nam cho thấy đã và đang tồn tại
các mối liên kết giữa các bên tham gia trong chuỗi giá trị du lịch để hình thành một sản phẩm du
lịch tổng hợp cung cấp cho khách du lịch như : liên kết theo ngành nghề kinh doanh, liên kết theo
tổ chức quản lý, liên kết dọc, liên kết theo hành lang phát triển. Tuy nhiên hiện nay du lịch Việt
nam vẫn thiếu các mô hình liên kết tốt, hiệu quả, có sự định hướng của Nhà nước, tạo ra giá trị và
sức cạnh tranh cao hơn của sản phẩm. Chính vì vậy, mặc dù sản phẩm du lịch hiện nay đang phát
triển một cách ồ ạt nhưng phần lớn trùng lặp và nghèo nàn về nội dung.
Cùng sự nghiệp đổi mới của đất nước hơn 20 năm qua và sau 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển du lịch giai đoạn 2001- 2010, ngành Du lịch đã có nhiều tiến bộ và đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận. Những kết quả về lượng khách, thu nhập, tỷ trọng GDP và việc làm đã
khẳng định vai trò của ngành Du lịch trong nền kinh tế quốc dân. Ngành Du lịch đã có đóng góp
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá, bảo vệ môi trường và giữ vững an ninh quốc phòng. Năm 2010 Việt Nam đón
được trên 5 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ hơn 28 triệu lượt khách du lịch nội địa, thu nhập
bằng 4,5% GDP. Trong 6 tháng đầu năm 2011 tình hình phát triển du lịch vẫn rất khả quan, khách
du lịch quốc tế ước đạt 2,96 triệu lượt khách, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2010; khách du lịch
nội địa ước đạt 17,5 triệu lượt; thu nhập từ hoạt động du lịch ước đạt 62 nghìn tỷ đồng. Việt Nam
đang nổi lên trở thành một điểm đến mới trong khu vực giành được sự quan tâm của nhiều đối
tượng khách quốc tế.
Thực tiễn phát triển du lịch trong giai đoạn vừa qua cho thấy mặc dù chiến lược phát triển du
lịch giai đoạn 2001 – 2010 đã xác định phát triển du lịch cần có sự phối hợp liên ngành, liên vùng,
nhưng sự phát triển thiếu liên kết vẫn còn là điểm hạn chế của du lịch Việt nam. Hoạt động du lịch
có khả năng thu hút và cần có sự tham gia rộng rãi các thành phần xã hội. Do vậy cần xác lập
những mô hình hoạt động có hiệu quả nhằm khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội dưới sự
quản lý thống nhất của Nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, giữ gìn và bảo vệ tài
nguyên, môi trường. Những mô hình phát triển du lịch thành công tại các nước phát triển du lịch
đều cho thấy chuỗi liên kết, tham gia của nhiều thành phần phối hợp trong hoạt động du lịch, đặc
biệt sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, khối quản lý nhà nước và doanh nghiệp,
thấy được vai trò, trách nhiệm của mỗi ngành đối với phát triển du lịch. Các địa phương cần liên
kết để phát triển, các doanh nghiệp cần liên kết hợp tác theo yêu cầu của thị trường, cũng như huy
động sự tham gia rộng rãi của cộng đồng trong hoạt động du lịch. Chính vì vậy, phát triển du lịch
cần được phân tích, đánh giá trong chuỗi giá trị của ngành du lịch để có thể nhận thức được rõ
hơn vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, từ đó đề ra chính sách phát
17
triển một cách đồng bộ và hiệu quả hơn, giúp du lịch Việt Nam nâng cao được năng lực cạnh trong
khu vực và trên thế giới.
THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN
NCS. Nguyễn Quốc Nghi và Nguyễn Hồng Xuân
Khoa Kinh tế - QTKD, Trường Đại học Cần Thơ
Tóm tắt
Sau hơn bốn năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường bán lẻ Việt
Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, Việt Nam luôn được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển
kinh doanh bán lẻ (GRDI), nằm trong Top 15 thị trường bán lẻ hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Từ
ngày 01/01/2009, Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, ngày càng nhiều các doanh
nghiệp bán lẻ có 100% vốn nước ngoài gia nhập thị trường làm cho thị trường bán lẻ Việt Nam
ngày càng sôi động, hội nhập vào xu hướng chung của thế giới và mở ra cơ hội phát triển hệ thống
bán lẻ hiện đại. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, thách thức cần phải tháo gỡ để phát triển toàn
diện một thị trường bán lẻ Việt Nam năng động, hiện đại, hội nhập. Vì thế, bài viết này nhắm đến
các mục tiêu: (1) Mô tả thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam; (2) Nhận định thời cơ, thách thức
đối với thị trường bán lẻ; và (3) Đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam.
THE KNOWLEDGE-BASED MANAGEMENT IN VIETNAM: EVIDENCE FROM CASE
STUDIES
Nguyen Ngoc Thang, PhD
(Corresponding author)
University of Economics and Business, Vietnam National University
Abstract
This paper aims to advance understanding of the knowledge-based management in Vietnam
by studying three big Vietnamese companies. These three cases illustrate how knowledge-based
management pursues a vision for the future based on ideals that consider the relationships of
people in society. The finding shows that these three cases succeeded because of their flexibility
and mobility to keep meeting to the changing needs of the customers or stakeholders. Particular
emphasis is given to the need for future research to examine knowledge-based management of the
companies in a different industry segments and companies originating in other countries.
Keywords: Knowledge creation; knowledge-creating companies; knowledge-based
management; Vietnam
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG
ĐA CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. Nguyễn Thị Hương Giang- Khoa Kinh tế, ĐHTM
Tóm tắt
Bán hàng đa cấp là phương thức bán hàng trực tiếp, loại bỏ các khâu trung gian, tiết kiệm
chí phí. Hoạt động bán hàng đa cấp du nhập vào Việt Nam từ những năm 2000, và hiện nay đang
hứa hẹn phát triển nhanh. Mặt hàng được mua bán phổ biến trong phương thức bán hàng đa cấp
chủ yếu là nhóm hàng thực phẩm chức năng. Quản lý Nhà nước đối với bán hàng đa cấp nhóm
hàng thực phẩm chức năng tại Việt Nam hiện nay đã bước đầu tạo được hành lang cho hoạt động
này phát triển, tuy nhiên do lợi ích và những biến tướng của hoạt động này gây ra những khó khăn
cho quản lý Nhà nước. Bài viết đã đưa ra thực trạng quản lý Nhà nước và đưa ra các giải pháp cho
các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, cho người tham gia, kiến nghị đối với Nhà nước, xã hội để
quản lý Nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp nhóm hàng thực phẩm chức năng được tốt
hơn.
18
TĂNG CƯỜNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI THÔNG QUA PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH
TRANH
ThS. Nguyễn Thị Tình- Khoa Luật Thương mại, ĐHTM
Tóm tắt
Nhượng quyền thương mại là hoạt động tuy không còn xa lạ trong thực tiễn Việt Nam
nhưng dưới góc độ pháp lý, đây là khái niệm mới được thừa nhận trong Luật Thương mại 2005.
Một trong những vấn đề gây khó khăn cho các thương nhân khi tham gia hoạt động nhượng quyền
thương mại là nguy cơ đối mặt với khả năng vi phạm pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong khi nếu
thiếu vắng những hành vi này hoạt động nhượng quyền thương mại sẽ khó mà thành công và phát
huy hiệu quả. Trong bài viết này, tác giả tập trung đi sâu phân tích một số hành vi hạn chế cạnh
tranh thường xuất hiện trong quan hệ nhượng quyền thương mại, chỉ ra sự mâu thuẫn giữa các quy
phạm pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh với bản chất của quan hệ nhượng quyền
thương mại. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh với pháp luật của EU, trên cơ sở đó
đề ra những giải pháp hợp lý nhằm thúc đẩy hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển, đồng
thời vẫn đảm bảo được sự quản lý cần thiết của nhà nước đối với hành vi hạn chế cạnh tranh.
(Keywords: “độc quyền lãnh thổ”, “franchise”, “hạn chế cạnh tranh”, “nguồn cung cấp”
“nhượng quyền thương mại”).
ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THÔNG QUA VIỆC
THAM GIA SÀN GIAO DỊCH QUỐC TẾ - NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH Ở SÀN GIAO
DỊCH ĐIỆN TỬ ALIBABA.COM
CN. Nguyễn Thị Vân, Khoa TMĐT, ĐHTM
Tóm tắt
Theo thống kê của Bộ công thương, năm 2010, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch
thương mại điện tử đạt mức 14%. Đánh giá mức độ hiệu quả do sàn giao dịch điện tử mang lại ,
47% doanh nghiệp đánh giá hiệu quả của sàn chỉ ở mức trung bình, 28% đánh giá ở mức thấp và
rất thấp. Nhìn vào kết quả này có thể thấy hiệu quả từ sàn giao dịch điện tử còn rất thấp. Mặc dù,
90% giá trị giao dịch thương mại điện tử hiện nay là từ giao dịch B2B (giao dịch giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp) và thông qua việc sử dụng sàn giao dịch điện tử B2B, các doanh nghiệp
có thể tiếp cận các cơ hội kinh doanh, vượt qua khoảng cách không gian và thời gian. Tuy vậy, hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp khó khăn trong việc hiểu biết về sàn giao dịch điện tử
và cách thức khai thác dịch vụ của sàn một các hiệu quả nhất.
Alibaba.com trong nhiều năm luôn được đánh giá là website thương mại điện tử dành cho
doanh nghiệp giao thương lớn nhất thế giới với sự tham gia của khoảng 40 triệu thành viên tại hơn
240 quốc gia và vùng lãnh thổ. Bài viết tập trung hệ thống lý thuyết về sàn giao dịch điện tử và
cách thức khai thác dịch vụ này nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt
Nam trên một sàn giao dịch điện tử điển hình là Alibaba.
RESTRUCTURING AGRICULTURAL PRODUCTION IN THE CONTEXT OF
INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION
Nguyen Thu Huong, MBA- Học viện Tài chính
Nguyen Thi Thuy Duong- Phòng Khoa học Đối ngoại, ĐHTM
Abstract
19
After 20 years of implementing renovation, Vietnam has achieved some proud
achievements, especially in agriculture. For example, from a backward agricultural country,
Vietnam has become one of the leading exporters of agricultural products and has been ranked at
second position in exporting rice, coffee, rubber, pepper, and so on.
However, in the context of international economic integration, we can easily see some real
problems of Vietnam agricultural production such as: spontaneous and unstable agricultural
structure, low competitiveness, lack of capital investment in agricultural production. Therefore,
restructuring agricultural production in terms of integration is inevitable. The following article
focuses on the introduction of fundamental solutions to restructure agricultural production in the
context of international economic integration
Key words: agricultural production; international economic integration
CÁC KHU VỰC ĐẶC MIỄN RIÊNG BIỆT TRONG THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ
QUỐC TẾ - KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN
TS. Nguyễn Vũ Hoàng- ĐH Kinh tế quốc dân
Tóm tắt
Các khu vực đặc miễn riêng biệt trong thương mại và đầu tư quốc tế là sản phẩm có tính
lịch sử của sự phát triển kinh tế xã hội trong và ngoài nước cùng các quan hệ kinh tế quốc tế, với
quá trình phát triển hàng trăm năm, song chỉ vài thập kỷ gần đây, các khu vực đặc miễn riêng biệt
mới thực sự trở thành một trong những đặc điểm và xu hướng nổi bật của đời sống kinh tế - xã hội
quốc tế.
Việc hình thành các khu vực đặc miễn riêng biệt trong thương mại và đầu tư quốc tế (sau
đây được đề cập tới như là khu vực đặc miễn riêng biệt) đang ngày càng trở nên mạnh mẽ trong
những năm gần đây với những tên gọi đa dạng như khu kinh tế đặc biệt (hay đặc khu kinh tế), khu
kinh tế mở, khu thương mại tự do, hay thậm chí đơn giản chỉ là khu kinh tế, khu tự do…
Xét trên toàn thế giới, các khu vực này được biểu đạt phong phú bằng hàng chục thuật ngữ
khác nhau, song về bản chất, chúng thống nhất với nhau bởi những đặc trưng sau đây:
- Các khu vực đặc miễn riêng biệt luôn là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc
gia, thường là những khu vực có ranh giới địa lý riêng biệt, có hàng rào giới hạn với các vùng lãnh
thổ còn lại của các nước sở tại và được Chính phủ nước đó cho phép xây dựng và phát triển.
- Các khu vực đặc miễn riêng biệt là nơi có môi trường kinh doanh được hưởng những quy
chế tự do và tính ưu đãi hơn các vùng khác trong nền kinh tế nội địa. Các khu vực này thường có vị
trí thuận lợi cho phát triển sản xuất- thương mại, được ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, được giành
cho những biệt đãi về chính sách tài chính, thuế, tín dụng, ngoại tệ, các thủ tục hải quan, quản lý
hành chính Các khu vực này có sức hấp dẫn lớn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước không
chỉ là ở giá nhân công và ưu đãi thuế, mà còn vào các vấn đề khác như điều kiện kinh tế tổng thể
ổn định thuận lợi, tỷ giá hối đoái; tình hình chính trị, xã hội ổn định; cơ sở hạ tầng phát triển; bảo
đảm về pháp luật; chất lượng nguồn lao động và luật lệ lao động; các quy trình quản lý hành chính
nhanh chóng và hiệu quả; tốc độ thu hồi vốn và lợi nhuận…
- Đặc trưng chính về hoạt động kinh tế của các khu vực địa lý riêng biệt là ưu tiên hướng
ngoại, thu hút chủ yếu là vốn nước ngoài nhằm phát triển các loại hình kinh doanh hướng về thị
trường thế giới.
Các dạng thức của các khu vực đặc miễn riêng biệt trong thương mại và đầu tư quốc tế rất
đa dạng. Bài viết nêu bật các dạng thức căn bản như Khu kinh tế đặc biệt; Khu thương mại nước
ngoài; Kho ngoại quan; Khu vực bán lẻ tự do; Cảng tự do; Khu công nghiệp; Khu chế xuất; Khu
vực thương mại tự do; Khu kinh tế cửa khẩu.
20
Việc thiết lập các khu vực đặc miễn riêng biệt mang lại những lợi ích rõ ràng và thiết thực
cho cả bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư, nhất là tại các nước đang phát triển, nơi nền kinh tế
đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, có hạn chế nhất định về các khả năng hành chính, khả
năng công nghệ, tiếp thị hoặc quản lý trong khi lại chưa muốn và chưa có khả năng thiết lập cùng
một lúc ở nhiều địa phương hay trên toàn quốc, môi trường kinh doanh đặc biệt ít điều tiết, nhiều
khuyến khích như ở khu vực đặc miễn. Một khu vực đặc miễn thành công trong thương mại và đầu
tư quốc tế cần phải được xây dựng trên cơ sở một kế hoạch, một chiến lược tốt, với những mục tiêu
và chức năng rõ ràng. Các khu vực này phải có một cơ sở hạ tầng – dịch vụ phù hợp đối với việc
triển khai các hoạt động kinh doanh trong phạm vi khu vực đặc miễn, đồng thời phải là một môi
trường đầu tư có sức hấp dẫn mạnh các nhà đầu tư một cách toàn diện từ điều kiện chính trị - kinh
tế -xã hội tổng thể ổn định, có sự đảm bảo về pháp luật, đảm bảo tốc độ thu hồi vốn và lợi nhuận,
có quy trình quản lý hành chính gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả.
Từ khóa:
Khu vực đặc miễn riêng biệt
Khu kinh tế đặc biệt
Khu thương mại nước ngoài
Kho ngoại quan
Khu vực bán lẻ tự do
Cảng tự do
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Khu vực thương mại tự do
Khu kinh tế cửa khẩu
NHẬN DIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ NHỮNG THÁCH THỨC CƠ BẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH CẠNH TRANH CỦA QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
TS. Trần Thị Thu Phương- Khoa Luật TM, ĐHTM
Tóm tắt
Trong bối cảnh mới của quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam đang đứng trước
khá nhiều thách thức. Những thách thức này đến từ nhiều phía, từ nhiều lĩnh vực. Vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam là làm thế nào để vượt qua những thách thức này. Bài viết tập trung đi vào nhận diện
và đánh giá các thách thức cơ bản của Việt Nam hiện nay để từ đó đưa ra các khuyến nghị giúp
Việt Nam có thể cạnh tranh, hội nhập và phát triển hiệu quả trong thời gian tới. Việc nhận diện và
đánh giá các thách thức này được thực hiện trên cơ sở tổng quan các nguồn tài liệu có độ tin cậy
cao từ các văn bản, báo cáo chính thức của Đảng, của các bộ ngành có liên quan và của các tổ
chức có uy tín trong và ngoài nước. Các khuyến nghị được đưa ra trên cơ sở phân tích những điểm
mạnh và hạn chế của Việt Nam về nguồn lực hiện tại và những dự đoán về nguồn lực trong tương
lai.
LIÊN KẾT KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC ASEAN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN
NAY TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
NCS Võ Hữu Hòa- ĐH Duy Tân
Tóm tắt
Những năm gần đây, chúng ta đã được chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ
của quá trình liên kết khu vực, liên kết toàn cầu về kinh tế. Sự hợp tác giữa các nước trong cùng
một tiểu vùng hay trong khuôn khổ khu vực tạo điều kiện cho các nước thành viên phát huy những
mặt mạnh của mình, phát triển tối đa nội lực, bổ sung lẫn nhau để phát triển và đưa cả khu vực
21
phát triển tương đối đồng đều, tăng cường khả năng cạnh tranh và lợi thế của cả khu vực. Đông
Nam Á gần đây được nhiều chuyên gia phân tích và nhiều trung tâm nghiên cứu kinh tế nhắc đến
với nhiều vấn đề và góc độ khác nhau, trong đó vấn đề liên kết kinh tế được bàn luận khá nhiều.
Với tổng thể nền kinh tế có quy mô lớn hơn Ấn Độ, Hàn Quốc; dân số hơn nửa tỷ người, ASEAN có
nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm kinh tế sánh ngang với Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin và
Nga. ASEAN đang tăng cường hội nhập để tối ưu hóa khả năng hiệp lực trong khu vực và thu hút
sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, cam kết thúc đẩy nhanh kế hoạch thành lập Cộng đồng
Kinh tế ASEAN vào năm 2015 bất chấp những thách thức từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Xem xét lịch sử các hoạt động liên kết kinh tế của ASEAN, những mặt đạt được và chưa được trong
các hoạt động này và rút ra những tồn tại, những bài học kinh nghiệm của các liên kết này là
những vấn đề đang rất cần được quan tâm hiện nay.Trong khuôn khổ của bài tham luận này xin
trao đổi một vài khía cạnh về các hoạt động liên kết kinh tế của các nước ASEAN thời gian qua và
một số vấn đề đặt ra hiện nay trong liên kết kinh tế quốc tế mà các nước ASEAN đang phải đối
diện, giải quyết để hướng tới một cộng đồng vững mạnh trong thế giới liên kết.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI HỆ THỐNG PHÂN PHỐI XĂNG DẦU DÂN DỤNG TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
ThS. Vũ Ngọc Tú – Khoa Kinh tế
Nguyễn Mạnh Hùng – Phòng KHĐN, ĐHTM
Tóm tắt
Hệ thống phân phối xăng dầu có vai trò quan trọng giúp các tác nhân trong nền kinh tế có
thể sử dụng được nguồn nhiên liệu quan trọng bậc nhất thế giới. Hiện nay hệ thống phân phối xăng
dầu của nước ta còn tồn tại khá nhiều những hạn chế mang tính độc quyền cao, chất lượng dịch vụ
thấp. Do đó bài viết tập trung vào thực trạng hệ thống phân phối xăng dầu trên thị trường nội địa
gồm: các thành phần tham gia hệ thống phân phối, sự phân bổ mạng lưới phân phối trên phạm vi
toàn quốc… Bài viết đánh giá tổng quát cơ chế quản lý nhà nước đối với thị trường xăng dầu nói
chung và hệ thống phân phối nói riêng. Về cơ sở dữ liệu, sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp thông qua
các bảng số liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Từ các số liệu thực tế cho chúng ta
thấyhệ thống phân phối xăng dầu dân dụng của nước ta hiện nay vẫn mang tính độc quyền cao,
tính cạnh tranh hạn chế. Trong giai đoạn tiếp theo, cần có những chính sách quản lý nhà nước để
đưa thị trường này hoạt động đúng theo những quy luật khách quan.
Từ khóa: Diezel, hàng thiết yếu, quản lý, nội địa, hội nhập, thị trường, xăng dầu
PRODUCT POSITIONING OF KOREAN AGAINST JAPANESE CONSUMER
GOODS IN VIETNAM’S MARKET
Assoc. Prof. Dr. Pham Thu Huong, Foreign Trade University, Vietnam
Dr. Dao Ngoc Tien, Foreign Trade University, Vietnam
The authors acknowledge a financial sponsorship from the POSCO TJ Park Foundation to
implement the survey in Vietnam. This paper is a revision of the full research paper presented at
the conference in Seoul, Korea, May, 2007.
Abstract
The paper concentrates on product positioning of Korean against Japanese consumer goods
in Vietnam, especially electronics and cosmetics products. Based on a survey conducted in Vietnam
and a general understanding of the theory of product positioning, this paper explores which
position Korean companies occupy in comparison with those of Japanese products and how to improve
positions of Korean products in Vietnam’s market.
22
THE ROLE OF EXCHANGE RATE IN IMPROVING THE TRADE BALANCE OF
VIETNAM IN THE CONTEXT OF THE GLOBALIZATION
Le Mai Trang, MA - Economics Faculty, Nguyen Thi Thu Ha, MA - Department of Research
and External Affairs,
Abstract
After joining the World Trade Organization (WTO) and suffering from the global financial
crisis in 2007, Vietnam’s economy and foreign economic activities have had many opportunities but
also met challenges. One of challenges is the increase of trade deficit, which was nearly 2,8 billions
USD and 10,4 billions USD in 2006 and 2007 respectively. Despite reaching its peak of 12,8
billions USD in 2008, the trade deficit modestly reduced to 8,3 billions USD in 2009 and 7,1
billions USD in 2010. The average trade deficit was 4.4 billions USD in the period of 2002 – 2005,
this figure was nearly doubled in the period of 2006 – 2010 (8,28 billions USD). Under those
circumstances, since 2009, the State Bank of Vietnam has implemented many policies to devalue the
Vietnam dong in order to foster exports and improve the trade balance. However, in fact, the trade
balance of Vietnam has not changed positively. Hence, the authors concentrate on finding out the
reasons why Vietnam’s trade balance has not improved despite the Vietnam dong (VND)
devaluation by the State Bank. In addition, some significant solutions are suggested to improve the
trade balance in the coming time. In this study, we also take advantages of using the
macroeconomic model of trade balance and macroeconomic consistency as a fundamental theory.
Concurrently, the data relating to the theoretical models are collected, analyzed and compared to
clarify theoretical and practical issues of the trade balance of Vietnam.
CHỦ ĐỀ 2: GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
23
PROMOTING E-LEARNING IN UNIVERSITY EDUCATION IN KOREA:
THE ROLE OF REGIONAL UNIVERSITY E-LEARNING CENTERS
In-Soo HAN, Keun-yeob OH, and Kyung-Hye PARK, Chungnam National University,
Korea
Astract
Recently, much emphasis has been placed on facilitating e learning in university education
in Korea. Many universities and colleges have made efforts to build their own cyber-campuses and
have developed various forms of e-learning content for their taught courses. Among them, 10
universities have been designated as “Regional University E-learning Centers” (RUECs) by the
Korean government. These centers have the objective of promoting the development of e learning
content for classes. They also have many programs to facilitate the sharing of the content
developed among the universities in their region.
In this paper, we sought to analyze the function and role of RUECs in promoting e-learning
for university education in Korea. Additionally, the performance of the project is investigated
through a case study of a regional university e-learning center. Performance is assessed in terms of
class satisfaction and formal evaluations by class participants.
Key words: e-learning, Korea, university education, regional university e-learning centers
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC, LIÊN KẾT GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI DOANH
NGHIỆP NHẰM ĐÁP ỨNG NHU CẦU VỀ LAO ĐỘNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP
KINH DOANH NGÀNH DU LỊCH TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
ThS. Trần Mai Ước, ThS Bùi Huy Tùng – Trường Đại học Ngân Hàng
Tóm tắt
Đào tạo gắn liền với nhu cầu của doanh nghiệp đang là xu thế tất yếu, nhất là trong giai
đoạn Việt Nam chủ động hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc hợp
tác giữa trường đại học và doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho cả hai, tuy
nhiên do đây là vấn đề còn mới nên hai bên còn chưa thực sự quyết tâm trong việc hợp tác. Bài viết
đi vào làm rõ hơn một số nội dung liên quan đến việc liên kết giữa trường đại học với doanh nghiệp
và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đáp ứng nhu cầu ngày cao về lao động cho các doanh
nghiệp kinh doanh ngành du lịch trong bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay.
BENEFITS AND SHORTCOMINGS RELATING TO INTERNATIONAL CO-
OPERATION IN VIETNAM HIGHER EDUCATION
Hoang Thu Ba, BA - Faculty of English-Vietnam University of Commerce
Tóm tắt
Sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO), Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ về
mọi mặt từ kinh tế, xã hội, văn hóa. Giáo dục cũng không là ngoại lệ.
Trở thành thành viên của WTO, nền giáo dục Viêt Nam đã cam kết mở cửa hướng tới thị
trường giáo dục. Việc mở cửa này đã tạo ra không ít ảnh hưởng tới sự thay đổi của nền giáo dục
Việt Nam. Cùng với xu thế hội nhập, bài viết này được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu những
thuận lợi và khó khăn từ chính sách mở cửa giáo dục-một chính sách hợp tác quốc tế trong giáo
dục đại học-tiếp cận với một nền dịch vụ giáo dục quốc tế.
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP
TS. Lê Thị Thanh Hải – Khoa KTKT, ĐHTM
24
Tóm tắt
Chất lượng lao động kế toán, kiểm toán phụ thuộc rất lớn vào chất lượng công tác đào
tạo. Trong những năm qua, mặc dù các Trường, Học viện, Viện có tham gia đào tạo nguồn nhân
lực này đã có những đổi mới, cải cách đáng kể trong chương trình, nội dung, phương pháp giảng
dạy,… với mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cung ứng cho xã hội. Song chất lượng
nguồn nhân lực chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của xã hội cũng như kỳ vọng của những
người sử dụng lao động, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa. Bài viết tập trung giải quyết
thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực kế toán – kiểm toán tại Việt Nam cũng như cơ hội
nghề nghiệp cho những sinh viên chuyên ngành, từ đó đề xuất những định hướng thay đổi căn
bản công tác đào tạo chuyên ngành kế toán – kiểm toán tại các Trường, Học viện, Viện của Việt
Nam trong điều kiện phải đối mặt với nhiều thách thức mới trong môi trường cạnh tranh gay gắt
với các cơ sở đào tạo nước ngoài tại Việt Nam.
THÚC ĐẨY HỢP TÁC GIÁO DỤC GIỮA ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI VỚI CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TRUNG QUỐC.
ThS Nguyễn Thị Minh Ngọc - Khoa ĐTQT, ĐHTM
Tóm tắt
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế giáo dục của mỗi quốc gia, giáo dục được coi là
một ngành “dịch vụ đặc biệt”, xu thế “cạnh tranh” trở thành xu thế tất yếu để tồn tại và phát triển.
Muốn phát triển nhanh, phát triển bền vững, các cơ sở đào tạo luôn tìm kiếm cho mình những cơ
hội hợp tác với các trường trong khu vực và trên thế giới. Việc hội nhập hợp tác giáo dục không
những đem lại những lợi ích thiết thực giúp cho nền giáo dục quốc gia phát triển mạnh mẽ mà còn
mang lại rất nhiều lợi ích cho các cơ sở đào tạo, các trường đại học và cho cả người học. Trong
những năm qua, việc hợp tác liên kết đào tạo giữa trường Đại học Thương mại với các trường Đại
học ở Trung Quốc đã đạt được những thành tích đáng khích lệ và nhận được sự đánh giá cao từ
phía trường đối tác và từ các em sinh viên. Tuy nhiên cần tăng cường hợp tác hơn nữa giữa Đại
học Thương mại và các trường Đại học của Trung Quốc để ngày càng nâng cao chất lượng đào
tạo, mở rộng các mô hình đào tạo và đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời kỳ quốc tế hóa.
Từ khóa: cạnh tranh dịch vụ giáo dục hợp tác lợi ích thúc đẩy
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
ThS. Nguyễn Thành Hưng – Khoa KTKT, ĐHTM
Tóm tắt
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các ngành dịch vụ của Việt Nam phải nâng cao chất
lượng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và yêu cầu của công tác quản lý. Lĩnh vực kế toán
kiểm toán, một lĩnh vực dịch vụ đã nằm trong lộ trình cam kết của Chính phủ cho phép mở cửa tự
do cạnh tranh. Khi đó, nền kinh tế của đất nước sẽ đòi hỏi các dịch vụ kế toán, kiểm toán phải có
chất lượng cao hơn, hoàn hảo hơn, được cung cấp bởi các chuyên gia có trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm, bản lĩnh và có đạo đức nghề nghiệp. Sự hội nhập này đã có những ảnh hưởng to lớn đến
hoạt động tài chính kế toán của các doanh nghiệp và còn tác động mạnh mẽ đến quá trình đào tạo
cử nhân chuyên ngành kế toán, kiểm toán ở tất cả các Viện, các Trường đại học thuộc khối ngành
kinh tế. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp các dữ liệu thứ cấp để đề cập đến thực
trạng đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán của Việt Nam trong bối cảnh hiện tại, và đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác đào tạo nguồn nhân lực quan trọng
này, đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều kiện hội nhập.
Từ khóa (Key word): Kế toán, đào tạo, hội nhập
25