Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và liên hệ trách nhiệm của bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.25 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH

TIỂU LUẬN
MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và liên
hệ với trách nhiệm của sinh viên hiện nay

HÀ NỘI, 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH

TIỂU LUẬN
MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và liên
hệ với trách nhiệm của sinh viên hiện nay

HÀ NỘI, 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ---------------------------------------------------------------------------------------- 2
A. Giới thiệu đề tài -----------------------------------------------------------------------------------3
I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu --------------------------------------------------------- 3
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu --------------------------------------------------------------- 3
B. Nội dung chính ------------------------------------------------------------------------------------4
I. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu ---------------------------------------------------- 4


1. Căn cứ lý luận ----------------------------------------------------------------------------4
2. Cơ sở thực tế ----------------------------------------------------------------------------- 5
II. Đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu ---------------------------------------------- 6
1. Thực trạng vấn đề ----------------------------------------------------------------------- 6
2. Những mặt thành công của vấn đề ---------------------------------------------------- 9
3. Những mặt hạn chế của vấn đề -------------------------------------------------------13
4. Nguyên nhân gây ra thực trạng của vấn đề ----------------------------------------- 14
III. Đề xuất giải pháp --------------------------------------------------------------------------16
IV. Liên hệ với trách nhiệm của sinh viên hiện nay ---------------------------------------17
C. Kết luận ------------------------------------------------------------------------------------------ 19
LỜI CẢM ƠN -------------------------------------------------------------------------------------- 23
PHỤ LỤC: TÀI LIỆU THAM KHẢO ---------------------------------------------------------- 24

1


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới nói chung vẫn
đang tiếp diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa” tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch sử, thực tiễn sâu xa,
vững chắc, mang tính quy luật khách quan, tất yếu và hoàn toàn khả thi.
Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khăn. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ
cung cấp cho ta thêm những thông tin, kiến thức q báu về tình hình kính tế, chính trị, xã
hội trong nước để bước đầu hình thành cho mình những tư duy kinh tế. Qua đó giúp ta
hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ớ Việt Nam hiện nay.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, tôi đã chọn đề tài: “Thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và liên hệ với trách nhiệm của sinh viên hiện nay”

2



A. Giới thiệu đề tài
I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy
luật vận động của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia dân tộc đều có quyền lựa chọn con đường, sự
phát triển cho chính mình sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, với quy luật
khách quan của lịch sử và nhu cầu, khát vọng của dân tộc. Do vậy, Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan hoàn toàn phù hợp với xu thế chung đó.
Trước thời cơ và vận hội, nguy cơ và thách thức đan xen nhau thì việc tìm hiểu nhằm
nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là việc làm mang
tính cấp thiết, có tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức và hành động của mỗi chúng
ta trong giai đoạn hiện nay.
Và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi
lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển. Do vậy,
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề cấp thiết và cần được tìm hiểu, nghiên
cứu một cách kĩ càng.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những thành tựu về lý luận cũng như
thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mấy chục
năm qua, nhất là trong 25 năm đổi mới, tại Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ rõ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta “… là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa
cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”.
Như thế, thời kỳ quá độ ở nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu

tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư
của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra, những di hại của cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp mà xã hội ta đã trải qua mấy chục năm qua, mà hơn thế, cái cũ ở đây còn là
những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những
nhân tố này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư nhân, kinh
tế thị trường...) nhưng lại là cũ so với những nhân tố xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
xây dựng. Đặc biệt cần hiểu, sự biến đổi về chất mà Đảng ta đề cập ở đây là sự biến đổi
mang tính bản chất, căn bản, tồn diện khác với sự biến đổi về lượng, biến đổi của từng
bộ phận, mang tính cục bộ. Điều này có nghĩa là trong thời kỳquá độ , ở nước ta sẽ diễn ra
sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản và tồn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; và, q trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ
3


chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng
chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu
dài là một tất yếu lịch sử.
Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Đó
là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có
những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã
hội thế giới tan rã và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tạm thời thối trào.
Bên cạnh đó, “các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta vẫn khẳng định “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là
một dân tộc anh hùng, nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền thống đồn kết
và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan
trọng; cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế

tri thức cùng với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
B. Nội dung chính
I. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
1. Căn cứ lý luận
Muốn hiểu được rõ thế nào là quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước hết ta phải hiểu được
thế nào là thời kỳ quá độ. Theo lý luận Mác-Lênin đã khẳng định muốn tiến từ một
phương thức sản xuất thấp lên một phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải
qua thời kì quá độ. Mác đã khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “Thời kì quá độ là thời kì
cải biến Cách mạng khơng ngừng, triệt để và toàn diện từ phương thức sản xuất này sang
phương thức sản xuất khác. Trong thời kì quá độ xét về mặt kinh tế, chình trị, xã hội đó là
một thời kì có nhiều mâu thuẫn đặt ra địi hỏi lý luận phải giải quyết triệt để”. Từ khái
niệm về thời kì q độ ở trên ta có cơ sở để tìm hiểu về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cũng trong di sản lý luận kinh điển Macxit thì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự phát
triển trực tiếp từ những luận chứng khoa học về tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội
về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Theo lý luận này thì: “Q độ lên
chủ nghĩa xã hội là sự chuyển tiếp quá độ bằng Cách mạng để phủ định một trật tự của xã
hội cũ sang một trật tự xã hội mới với phương thức sản xuất mới, quan hệ sản xuất và chế
độ sỡ hữu mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa, với Nhà nước kiểu mới mà chủ thể quyền
lực là giai cấp công nhân và nhân dân lao động”.
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp thống trị và những thế lực
thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
4


động. Cuộc đấu tranh này diễn ra trong hoàn cảnh mới là giai cấp cơng nhân giành được
chính quyền nhà nước và nó diễn ra trong mọi lĩnh vực.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau:
• Một là: Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư
bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên

chế độ áp bức bóc lột. Cịn chủ nghĩa xã hội xây dựng trên cơ sở công hữu tư liệu sản xuất
là chủ yếu, khơng cịn các giai cấp đối kháng, khơng cịn chế độ áp bức, bóc lột. Muốn có
được xã hội như vậy thì ta cần phải có một khoảng thời gian nhất định.
• Hai là: chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ
cao. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề vật chất - kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội.
Nhưng muốn tiền đề đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội cần phải tổ
chức, sắp xếp lại. Đối với những nước chưa trải qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên
xã hội chủ nghĩa thì thời kỳ q độ có thể phải kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm là là tiến
hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
• Ba là: Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội khơng tự phát nảy sinh trong lịng chế
độ tư bản chủ nghĩa, đó là kết quả của q trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Dù
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản có ở mức cao đến mấy thì cũng chỉ tạo ra tiền đề vật
chất – kỹ thuật, điều kiện hình thành các quan hệ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
cần phải có thời gian để xây dựng, phát triển các quan hệ đó.
• Bốn là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cơng cuộc mới mẻ, khó khăn và phức tạp,
cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
Thời kỳ q độ ở những nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau thì khác nhau.
Nước đã phát triển lên trình độ cao thì tương đối ngắn, cịn những nước lạc hậu, kém phát
triển thì phải kéo dài hơn và gặp phải nhiều khó khăn phức tạp hơn.
2. Cơ sở thực tế
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc
và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đã hoàn thành thắng lợi, đất nước đã hịa bình thống nhất q độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
• Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử.
Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là

quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế - xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái
kinh tế- xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân
theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
5


Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công
nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản xuất
để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có của
nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này không
những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền
đề vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra
đời của xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của lồi
người. Theo quy luật tiến hố của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
• Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của
thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân
chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do,
dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “làm cho nhân dân lao động thốt nạn bần cùng, làm
cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực
hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lơgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm
cho cách mạng dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
II. Đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1. Thực trạng vấn đề
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan đối với mọi nước đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng do đặc điểm của các nước

khác nhau thì cách thức, hình thức thời kỳ quá độ cũng khác nhau.
Đối với các nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà lên chủ nghĩa xã
hội thì đây gọi là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Loại hình này
phản ánh quy luật phát triển tuần tự của lịch sử.
Còn đối với các nước kinh tế còn lạc hậu như Việt Nam thì cũng có thể q độ tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không cần trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đây gọi là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển của tư bản chủ nghĩa.
Loại hình này phản ánh qui luật phát triển nhảy vọt của tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn đan xen,
có những đặc trưng cơ bản:
- Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp.
Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt, kéo dài nhiều thập kỷ, hậu quả để lại còn nặng nề.
Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
6


- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất
cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá
trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các
dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những
thách thức gay gắt.
- Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hơp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức,
song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất
đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của Cách mạng Việt Nam

trong thời đại ngày nay. Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành
Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn dứt
khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân dân, phản
ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng
tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này cần được hiểu đầy đủ
với các nội dung sau đây:
• Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường
cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
• Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ q độ cịn nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản tư bản
chủ nghĩa khơng chiếm vai trị chủ đạo. Thời kỳ q độ cịn nhiều hình thức phân phối;
ngồi phân phối theo lao động vẫn là chủ đạo còn phân phối theo mức độ đóng góp và
quỹ phúc lợi xã hội; thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ
bóc lột tư bản chủ nghĩa khơng giữ vai trị thống trị.
7


• Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là

những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành tựu về quản lý để phát triển xã hội,
quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực
lượng sản xuất.
• Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ địi hỏi
phải có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá
trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí,
coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế
“phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải tơn trọng quy luật
khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ
và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức, bước đi thích hợp. Phát triển theo
con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở chủ
nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và
kiến trúc thượng tầng.
Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, họ trực tiếp thực
hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ chưa trải
qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên, chúng ta có đủ cơ sở thực tiễn khách
quan và chủ quan như Đảng ta đã chỉ rõ để thực hiện thành công bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
• Về khả năng khách quan:
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và tồn cầu
hố kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó
mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu
vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể
thực hiện “ con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người.
Đi trong dịng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng
hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa

chọn con đường phát triển tiến bộ của mình.
• Về những tiền đề chủ quan:
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thơng minh,
trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục ngàn
người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới.
8


Nước ta có nguồn tài ngun đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ
thuật đã được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những
tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút
vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước
phát triển.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử mà
còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh
khơng chỉ vì độc lập dân tộc mà cịn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Những yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng
được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng
giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với nhân dân, có
Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh
và khối đại đồn kết tồn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm
thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Những mặt thành công của vấn đề
Trong suốt thời kì quá độ nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (từ 1986) nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn cả về kinh tế, xã hội và chính trị.
a) Về kinh tế:
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào chủ

nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài,
nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ
khi cuộc kháng chiến trường kì kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì q độ thì
dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa
phong kiến, chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mang tính độc lập, mang tính chất dân
chủ nhân dân, thốt khỏi sự phụ thuộc hồn tồn vào chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát triển nhất định nhưng
kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kì đổi mới). Sau gần 30 năm đổi
mới kinh tế đã có những bước chuyển biến đáng mừng.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực
hiện cam kết Dự luật về Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Hoa Kỳ,
do đó, thị trường xuất khấu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước
thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp
tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua
các cuộc thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các nhà
doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phịng bảo đảm, đó tạo môi
trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước.
9


Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyến dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi
bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyến dịch theo hướng khu vực I (gồm nông nghiệp,
lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỷ trọng đã giảm
xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực III (gồm
các ngành dịch vụ) đã tăng lên.
Nhà nước đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị

trường, Nhà nước đã dần dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử
dụng phương pháp hành chính coi kế hoạch hoá với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụ để
quản lý, điều hành nền kinh tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp chính sách và
các cơng cụ điều tiết vĩ mơ như chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập và chính sách kinh
tế đối ngoại.
Trong thời kì q độ, chính sách đối ngoại cũng phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã tham
gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế giới: gia nhập ASEAN năm 1995, gia nhập
AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp định thương mại Việt - Mĩ. Tháng
10 năm 2004 tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5).
Tháng 11 năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO và cũng trong năm này Việt Nam đã tổ
chức thành cơng hội nghị APEC.
Trong năm 2007 cả nước đó thu hút 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn trên 3,2 tỉ USD
vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút vốn FDI năm 2007 là cơ cấu
đầu tư đó chuyển dịch từ công nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ khách sạn, căn hộ cho thuê,
nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân hàng... Địa bàn đầu tư cũng chuyển mạnh đến các vùng
ít dự án như miền Trung, miền Bắc. Năm 2007, cả nước có 52 địa phương thu hút vốn
FDI. Các tỉnh miền Trung năm 2007 đó thu hút 3,3 tỉ USD vốn đầu tư đăng ký mới, tăng
264,5% so với năm 2006 và gần bằng số vốn FD1 của 18 năm trước đó cộng lại (3,5 tỉ
USD).
b) Về chính trị:
• Thứ nhất, đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất
yếu khách quan. Từ khi giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng Tháng 8 năm 1945,
Đảng Cộng sản Việt Nam về thực chất đã trở thành một Đảng cầm quyền. Trong suốt mấy
chục năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đảng ln là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng vả lãnh đạo
nhân dân.
Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhả nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay,
với yêu cầu mới của công cuộc đổi mới đặc biệt là xây dựng nền kinh tế định hướng xã

10


hội chủ nghĩa thì vai trị lãnh đạo của Đảng vả quản lý của Nhà nước được nâng lên. Đảng
đã lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
thành pháp luật. Chủ trương chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ
máy Nhà nước. Đảng đã lãnh đạo, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do dân, vì dân. Đảng đã và đang lãnh đạo ngày càng tốt hơn công tác kiểm
tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền cùng với sự lãnh đạo của Đảng thì quản lý Nhà nước cũng được tăng cường.
Nhà nước quản lý kinh tế: trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước quản lý kinh tế thị
trường tức là điều khiển kinh tế sao cho nó tự vận động đến các mục tiêu mong muốn
bằng cách sử dụng các công cụ điều tiết và can thiệp mỗi khi cần thiết. Nhà nước chỉ quản
lý vĩ mô nền kinh tế chứ không hề “làm kinh tế” như doanh nghiệp đang làm tức là Nhà
nước lựa chọn phương án phát triển kinh tế, xã hội. Can thiệp điều khiển mỗi khi nền kinh
tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế, chính trị, xã hội bên trong, bên
ngoài.
Đối với việc quản lý xã hội thì Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, coi trọng
giáo dục nâng cao đạo đức kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao
dân trí. Đã kết hợp được sức mạnh pháp luật với sức mạnh quân chúng. Đây là nét đặc sắc
và cũng là thành công của Đảng và Nhà nước trong việc kết hợp pháp lý và văn hoá
truyền thống của các thế hệ người Việt Nam được đúc kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
• Thứ hai: Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục giữ vững ổn
định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh, bảo vệ chế độ, chủ quyền đất nước. Mặc dù
những kẻ thù địch không ngừng chống phá cách mạng trong nước, mặc dù xảy ra khủng
hoảng kinh tế, xã hội vào thời kì những năm 1996 - 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn
được ổn định. Thành quả này là kết quả tổng hợp của công cuộc đổi mới trong đó quốc
phịng an ninh giữ vai trị đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc phịng, cải thiện
đời sống của lực lượng vũ trang ln được quan tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh

quân đội ln được nâng lên. Thế trận quốc phịng tồn dân luôn được củng cố vững chắc,
chủ quyền đất nước càng được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt
chính sách kết hợp kinh tế và an ninh quốc phịng.
• Thứ ba: Chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống chính trị về
củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường lối đổi
mới, làm rõ dần con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, củng cố về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền dân chủ, do dân và vì dân. Điều
đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo chế độ
phổ thơng đấu phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người đại diện
11


cho mình - những người sẽ thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền
những vấn đề bất cập trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt họ đòi hỏi những quyền lợi
hợp pháp mà họ được hưởng.
Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc biệt chú ý quan
tâm, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường
văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Đảng luôn luôn tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hố, tập qn, tín ngưỡng tơn giáo của
các dân tộc, ln thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng tơn giáo nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi
ích quốc gia dân tộc.
• Thứ tư: Chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phả vỡ thế bao vây, cơ lập,
tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai tích cực và năng
động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, Chúng ta đã khắc
phục và tăng cường quan hệ với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình
thường hố quan hệ Việt - Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Nam Á, Châu Phi, Mỹ

Latinh, Trung Đông, với các tố chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức
ASEAN, AFTA, APEC, WTO. Chúng ta đã nối lại quan hệ với các quỹ tiền tệ như IMF,
ODA... nên chúng ta đã được hỗ trợ rất nhiều về vốn - một yếu tố đầu vào quan trọng của
sản xuất.
Đồng thời, chúng ta tiếp tục duy trì phát triển quan hệ đồn kết hữu nghị với các Đảng
cộng sản và cơng nhân các phong trào độc lập, các tổ chức và phong trào cách mạng tiến
bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền. Thành tựu trên lĩnh vực đổi
ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hồ bình, phá bỏ thể bị bao vây, cấm
vận, cải thiện môi trường quốc tế, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
c) Về xã hội:
Trong suốt thời kì quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến tốt về mặt xã hội.
Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được cải thiện một bước rõ
rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên. Những năm gần đây có 1,5 đến
1,7 triệu lao động được giải quyết việc làm. Mức tăng hàng năm của số người có việc làm
bắt đầu ngang bằng và vượt chút ít so với lượng tăng thêm trong năm của lực lượng lao
động.
Cùng với đời sống vật chất đời sống tinh thần cũng được nâng lên đáng kể. Trình độ
dân trí được nâng lên đáng kể, đời sống văn hố của nhân dân được cải thiện. Hoạt động
của các phương tiện thông tin đại chúng trở nên rộng khắp. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo,
các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, cơng tác kế hoạch hố gia đình và nhiều hoạt động xã
hội khác đều có mặt phát triển và tiến bộ. Các cấp Đảng bộ ở địa phương thường xuyên
chú ý đến các hoạt động văn hoá, nghệ thuật phục vụ đồng bào như chiếu phim ảnh, tổ
chức sinh hoạt tập thế...
12


Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ thống y tế, giáo dục.
Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp, luôn kịp thời chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Ở hầu
hết các xã, phường, thị trấn đều có các trạm xá với những cán bộ y tế đã được qua đào tạo.
Thành công về y tế lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta đã nhanh chóng kìm chế,

khoanh vùng được đại dịch Covid - 19
Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi là quốc
sách hàng đầu. Đảng vả Nhà nước ln có những chính sách hỗ trợ và đầu tư cho phát
triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh viên... Trình độ
học vấn ngày càng được nâng cao thể hiện ở sổ hồ sơ đăng kí dự thi vào đại học và cao
đẳng ngày càng tăng.
Tính năng động, sáng tạo của người dân được khơi dậy và phát huy. Người lao động
ngày càng chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải thiện đời
sống, tham gia ý kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội. Khơng
cịn nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trông chờ Nhà nước, dựa dẫm tập thể.
3. Những mặt hạn chế của vấn đề
Tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã cịn mắc khơng ít khuyết điểm và yếu kém.
• Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường nhưng
cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lý kinh tế nước ta cịn đang
trong q trình chuyển đổi, luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác
động cùng chiều để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và đúng
hướng. Các kế hoạch định hướng phát triển kinh tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử
dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên,... thủ lục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng cịn
chậm chạp. Thường có sai sót mới sửa đổi bổ sung chứ chưa đưa ra được từ khi ban hành
nên còn nhiều bất cập trong hệ thống hành chính quốc gia.
• Hai là: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả còn thấp. Nhìn
chung tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và thấp hơn so với
kế hoạch, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm.
Điều này cho thấy mơi trường đầu tư của Việt Nam cịn nhiều vướng mắc nhất là thủ tục
hành chính, lĩnh vực và phạm vi đầu tư chưa hấp dẫn so với các nước khác trong khu vực.
• Ba là: Cạnh tranh cịn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh tranh và năng lực
quản lý của các doanh nghiệp cịn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá
trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm
như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ thì hàng hố của Việt Nam cũng có sức

cạnh tranh yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chưa có được hàm lượng công nghệ cao, giá
trị gia tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ yếu là thơ hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than... và
chất lượng thấp. Bên cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện pháp bảo vệ thị trường
nội địa. Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng công nghệ
trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt Nam cịn thấp. Theo con số thống kê Việt Nam
13


có gần 40 triệu lao động thì có tới 83% lao động khơng có trình độ chun mơn kĩ thuật,
số lượng công nhân được đào tạo nghề chiếm chưa tới 26 %.
• Bốn là: Hạn chế trong quản lý của Nhà nước.
Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội nhưng nhìn chung bộ máy quản
lý, hệ thống công cụ quản lý cũng như cơ chế quản lý của Nhà nước vẫn cịn có những
hạn chế, thiếu sót.
Hệ thống chính sách cơng cụ kinh tế của nước ta cịn tồn tại nhiều hạn chế. Chính sách
quản lý nền kinh tế còn thiếu đồng bộ, hay thay đổi. Hệ thống chính sách, cơ chế quản lý
của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự. Mơi trường kinh doanh vẫn cịn
một số bất cập về khuôn khổ pháp lý nên chưa thu hút được đầu tư trong nước cũng như
nước ngồi. Thủ tục hành chính cịn rườm rà, chưa có chính sách phát triển các vùng kinh
tế trọng điểm, các ngành kinh tế mũi nhọn cho phù hợp, chưa đưa ra được chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội lâu dài.
Cơ chế quản lý kinh tế trong nước cũng cịn tồn tại khơng ít hạn chế thể hiện ở vai trị
quản lý vĩ mơ cịn kém, lỏng lẻo. Các công cụ quản lý vĩ mô như chính sách tài khố,
chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại được thừa nhận
nhưng chưa được ứng dạng vào việc đổi mới hoàn thiện mục tiêu và công cụ quản lý nền
kinh tế. Chưa phát huy yếu tố tích cực của nền kinh tế thị trường nhưng đã nảy sinh nhiều
tiêu cực, hệ thống thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Hệ thống tài chính
tiền tệ của nước ta vẫn là khâu yếu nhất của nền kinh tế, nó cịn mang đậm tính chất của
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp nên cịn gây cản trở q trình chuyển đổi sang cơ chế
thị trường.

Cũng do quản lý vĩ mơ cịn kém nên xã hội cịn nhiều tiêu cực như tham nhũng, bn
lậu, lãng phí của cơng chưa được ngăn chặn thậm chí cịn tiếp tục gia tăng. Tiêu cực nhất
là trên lĩnh vực đẩu tư, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, thuế...còn nghiêm trọng và kéo
dài. Chất lượng phục vụ y tế giáo dục ở nhiều nơi cịn thấp, người nghèo khơng đủ tiền
chữa bệnh, trẻ em không được đi học. Ở những vùng kinh tế phát triển thì tệ nạn xã hội
phát triển. Trật tự an tồn xã hội chưa được bảo đảm tốt. Chính trị đôi khi chưa ổn định
nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc ít người chẳng hạn như bạo loạn ở Tây Nguyên, đảo
chính ở Thái Binh mấy năm trước đây.
4. Nguyên nhân gây ra thực trạng của vấn đề
Lý do mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như sau:
• Một là, do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử,
sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sán chủ nghĩa mà
giai đoạn đẩu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa,
chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của lồi người, nó khơng vượt qua những mâu
thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất;
14


mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa xã hội mà con
người đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản; đó là xã hội vì
sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta
quá độ thăng lên chủ nghĩa xã hội nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo
quy luật tự nhiên của lịch sử.
• Hai là, lịch sử đã chứng minh: Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến năm 1930
các phong trào cứu nước của nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến; tiền tư sản, tư sản
đều thất bại. Năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo dân tộc ta đi lên
thắng lợi này đến thắng lợi khác và đi đến thắng lợi hồn tồn. Sự khảo nghiệm đó của
lịch sử dân tộc ta đã khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì chỉ có thể là

con đường cách mạng vơ sản.
• Ba là, do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra đời Đảng ta
đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo đã thành cơng thì chúng ta đã cỏi bỏ được hai vịng xích, đã thốt khỏi cảnh một
cỗ hai tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng,
quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần
được giữ vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện,
nâng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Dưới ngọn cờ ấy, Đảng đã đoàn kết
được cả dân tộc, phát huy cao độ truyền thống bất khuất của dân tộc. Lãnh đạo nhân dân
ta dòng rã suốt gần nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập thống nhất Tổ quốc.
Có hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau khi
Cách mạng dân tộc dân chủ thành cơng. Nhưng điều đó khơng ngăn cản việc tiến lên chủ
nghĩa xã hội; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thế bằng con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Việc đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa rất lớn lao trong những
năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính điều đó được Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong Hội nghị Cán bộ Văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội”.
Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới đem
lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho tồn thê nhân dân lao động. Vì những lẽ đó,
Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
• Bốn là, các thế lực phản động tay sai cho đế quốc, thực dân ở nước ta vừa non kém về
tổ chức, khơng có chỗ đứng trong nhân dân. Do đó nhân dân ta quyết không đi theo con
đường phản dân hại nước của chúng.
=>> Như vậy, điều kiện lịch sử và những tiền đề nói trên khẳng định quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng. Tuy nhiên
15



muốn có chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực; chúng ta còn phải trải qua nhiều gian nan,
thử thách. Hiện nay, chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới đang lâm vào khủng khoảng,
nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn bình tĩnh, cân nhắc và khẳng định con đường chủ nghĩa
xã hội đã chọn là duy nhất đúng đắn.
III. Đề xuất giải pháp
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, những giải pháp để thực hiên con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là:
• Xây dựng Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Lấy liên
minh Cơng - Nơng - Trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
• Phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, gắn liền
với phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thái phân
phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
• Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, làm cho thế
giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vững vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần, xã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong
nước, tiếp thu những tri thức văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ

nghĩa xã hội.
• Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống
nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu nước mạnh.
• Thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước
nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho cơng cuộc xây dựng đất nước.
• Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ không thể tách rời
nhau đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải ln cảnh giác củng cố quốc
phịng giữ vững an ninh chính trị, an tồn xã hội, bảo vệ vững chắc mọi thành quả cách
mạng.
16


• Xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức ngang
tầm với nhiệm vụ chính trị, làm trịn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới.
• Những mục tiêu phương hướng cơ bản trên vừa đảm bảo tính ngun tắc, đảm bảo
khơng chệch hướng xã hội chủ nghĩa vừa quán triệt tinh thần đổi mới, cải tạo nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
IV. Liên hệ với trách nhiệm của sinh viên hiện nay
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà tự hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hơm nay?”
Câu hát đó như một lần nữa nhắc nhở mỗi người trong chúng ta về trách nhiệm của bản
thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Lịch sử qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, biết bao kẻ thù lớn mạnh xâm
lược đất nước ta nhưng đều chịu chung một kết cục thất bại. Một dân tộc “nhỏ bé” có thể
đánh đuổi hai “cường quốc” là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Làm được điều đó, có biết bao
người con của dân tộc đã ngã xuống, bao người phải hi sinh xương máu để có một đất
nước Việt Nam tươi đẹp như ngày nay.
Là lực lượng tri thức trẻ, năng động, sáng tạo, là trụ cột của nước nhà, sinh viên có vai
trị to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Thế nhưng hiện nay, nhiều người khơng nhận
thức được điều đó. Và thực tế chúng dễ dàng nhận thấy, vì thiếu chín chắn, bồng bột trong

suy nghĩ và hành động, đặc biệt trong tiếp thu, học hỏi cái mới nên dễ dàng tiếp nhận
thiếu chọn lọc văn hóa khơng phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Nguy hiểm hơn, là một số sinh viên mới ra trường, chưa có việc làm dễ bị lơi kéo, lợi
dụng tham gia các tổ chức phản động, tuyên truyền chống phá Nhà nước. Một số do yếu
kém về nhận thức chính trị hoặc lập trường tư tưởng khơng vững vàng nên dễ bị các thế
lực thù địch lợi dụng kích động, mua chuộc, dụ dỗ tham gia biểu tình, gây rối trật tự cơng
cộng. Bề ngồi các cuộc biểu tình có hình thức ủng hộ những vấn đề chính trị của Đất
nước như vấn đề biển Đông, vấn đề Dân tộc, Tôn giáo,... nhưng thực chất các thế lực thù
địch lợi dụng để kích động gây rối trật tự, chống phá chính quyền. Hiện nay, một số đối
tượng cịn lợi dụng mạng xã hội, kêu gọi tham gia vào các hội, nhóm như “Hội những
người yêu nước, yêu dân tộc Việt Nam chứ không yêu Đảng Cộng sản”… Thực chất
những hội nhóm này là nơi tập hợp các thành viên có tư tưởng cổ súy cho cái gọi là giá trị
phương Tây, được sự ủng hộ về vật chất của các tổ chức phản động lưu vong để viết bài,
phát tán các tài liệu xuyên tạc, bóp méo sự thật hòng chống phá Đảng Cộng sản và Nhà
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước
ta ln đánh giá rất cao vai trị của sinh viên trong cơng cuộc góp phần xây dựng, phát
huy truyền thống anh hùng của dân tộc, đồng thời vận động thế hệ thanh niên sinh viên
tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
17


Ngày nay khi đất nước đã hịa bình lặp lại, chúng ta được sống trong môi trường tốt
hơn, mọi thứ đầy đủ và sung túc. Càng như vậy chúng ta càng phải thấm nhuần, biết ơn
những người đã hi sinh đi trước để bảo vệ Tổ quốc mang lại cuộc sống bình yên. Để cảm
ơn những vị cha, anh, chị đã hi sinh thì chúng ta phải sống ý nghĩa và phải ra sức bảo vệ
Tổ quốc.
Mỗi chúng ta để làm tốt điều này thì phải coi đây là một nghĩa vụ thiêng liêng cao quý
của mỗi công dân. Từ đó chúng ta sẽ ý thức được Trách nhiệm của sinh viên hiện nay là:

– Chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, học
tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là yêu nước.
– Tích cực rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.
– Quan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời thực
hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời vận
động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
– Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các
tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống thực dụng, xa rời các giá trị
văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.
– Tham gia đăng kí tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên
đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
– Tích cực tham gia góp phần xây dựng q hương bằng những việc làm thiết thực,
phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ mơi trường, phịng chống tệ nạn xã hội, xố đói
giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang tính xã hội như
hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên…
– Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
– Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, cảnh giác trước âm mưu chia
rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ, việc làm gây
tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, sinh viên cũng là lực lượng xã hội quan trọng, một
trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước. Sinh viên một bộ phận
tinh túy, quan trọng trong thanh niên Việt Nam, là lực lượng kế tục, phát huy nguồn trí tuệ
nước nhà, là nguồn lực chủ yếu trong thời đại kinh tế tri thức, khoa học cơng nghệ, đóng
vai trị then chốt trong phát triển đất nước, là lực lượng to lớn trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa,
hồn thiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế mạnh
mẽ, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn
hóa của cha ơng, kết hợp học hỏi những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú

trọng. Chính vì vậy, cần thiết phải phát huy vai trò của sinh viên trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
18


C. Kết luận
Như vậy, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự
lựa chọn duy nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của Cách
mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay. Phải tập trung sự tập trung của toàn Đảng, toàn
dân vào nhiệm vụ ổn định kinh tế xã hội, mà điểm then chốt là ổn định sản xuất, ổn định
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lý, thực
hiên công bằng xã hội. Trên cơ sở đó, tiếp tục tạo ra những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa theo xu hướng ngày càng hiện đại.
Chúng ta tin tưởng rằng Đảng sẽ vạch ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phát triển
khoa học kỹ thuật mà nhân tố trung tâm là chiến lược con người, một cách đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn nước ta, tuân thủ nghiêm ngặt quy luật khách quan của sự vận động và
phát triển xã hội, tiến hành cuộc chiến tranh lâu dài, bền bỉ nhất định hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
đem lại phồn vinh cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
►► Những nhiệm vụ cơ bản trong thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
 Về kinh tế:
a) Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có
tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó
phát triển lực lượng sản xuất nói chung, cơng nghiệp hố, hiện đại hố nói riêng trở thành
nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kì q độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác là phát triển nguồn lực con người - lực

lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao
động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lí có hiệu quả các thành tựu khoa học,
cơng nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con
người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của cơng nghiệp hố, hiện đại hố, là “ quốc sách hàng đầu” trong chiến lược
phát triển đất nước.
b) Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa:
Khi xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đảm
bảo các yêu cầu sau đây:
• Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển
lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết
quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.

19


• Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí
và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng
bộ cả ba mặt đó.
• Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu cịn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành
nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan
xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời
phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
c) Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế:
Trong điều kiện tồn cầu hố kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất
yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta khơng thể khép kín mà phải tích cực mở

rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Tồn cầu hố kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách
thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta những cơ hội,
thuận lợi cho q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường “ rút ngắn”.
Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngồi, nhập được các loại cơng nghệ hiện đại và
những kinh nghiệm quản lí tiên tiến ... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong
nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nước
khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh
tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng
hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên,
phải xử lí đúng mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an
ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại.
 Về văn hóa:
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật;
khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp
kém, đấu tranh chống những biểu hiện phi văn hóa, phản văn hóa. Bảo đảm quyền được
thơng tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
20


Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đồn thể, nhà trường, gia

đình, từng tập thể lao động và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người
Việt Nam giàu lịng u nước; có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức
khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa; có tinh thần quốc tế chân chính.
 Về giáo dục và đào tạo:
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển
giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu
tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới toàn diện, mạnh mẽ giáo dục và
đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo định hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập
suốt đời.
 Về khoa học và công nghệ:
Khoa học và cơng nghệ giữ vai trị then chốt trong việc nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý đất nước, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và cơng
nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế
tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng
nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Hình thành
đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo và đẩy mạnh ứng dụng khoa học và
cơng nghệ.
 Về chính sách xã hội:
Chính sách xã hội đúng đắn, cơng bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy
mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo
đảm cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hịa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại,
học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến
với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.

 Về quốc phòng, an ninh:
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hồ bình, ổn định
chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
21


thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và
Cơng an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, kết hợp
chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự
chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp
tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân,
được nhân dân tin yêu. Xây dựng nền cơng nghiệp quốc phịng, an ninh, bảo đảm cho các
lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
 Về đối ngoại:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân
các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

Á (ASEAN) xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định, hợp tác và phát
triển phồn vinh.

22


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành bài tiểu luận này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa bộ mơn Chủ nghĩa xã hội khoa học vào chương
trình giảng dạy.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Thầy Lê Ngọc
Thông đã dạy dỗ, truyền đạt, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết những kiến thức quý báu
cho em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Chủ nghĩa
xã hội khoa học của thầy, em đã có cơ hội tích lũy cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh
thần học tập hiệu quả, nghiêm túc; từ đó mà có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong
cuộc sống. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để em có thể vững
bước sau này.
Bộ mơn Chủ nghĩa xã hội khoa học là một môn học thú vị và vô cùng bổ ích. Có lẽ
kiến thức là vơ hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người ln tồn tại những
hạn chế nhất định. Do đó, trong q trình hồn thành bài tiểu luận, chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu xót. Bản thân em rất mong nhận được những góp ý đến từ thầy để bài
tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của thầy trong quá trình
thực hiện bài tiểu luận này.
Em xin kính chúc thầy sức khỏe, hạnh phúc và thành cơng trên con đường giảng dạy
của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày 09 tháng 03 năm 2021
Sinh viên thực hiện


23


×