Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ĐỀ TÀI GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY. LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.14 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MƠN HỌC: CHỦ
KHOA HỌC

NGHĨA XÃ HỘI

TIỂU LUẬN:
GIAI CẤP CƠNG NHÂN VÀ THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN.


BẢNG PHÂN
VỤ

GVHD: TS. Thái Ngọc Tăng
NHÓM SVTH: NHÓM 11
MSSV
NHẬN XÉT VÀ
1.
GIÁO VIÊN
2.
3.
ST
HỌ VÀ TÊN NGƯỜI
NHIỆM VỤ CỤ
HỒN
T


THỰC HIỆN4.
THỂ
THÀNH
100%
5.
1
2

100%

3

100%

4

100%

5

100%

CƠNG NHIỆM
ĐIỂM SỐ CỦA

TÊN

ĐIỂM
SỐ


NHẬN XÉT
….
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………
…………..

Ký tên

Thái Ngọc Tăng


MỤC LỤC

KHẢO …..................................................................................-20-


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong thời kì mà Chủ Nghĩa Xã Hội đang phát triển lớn mạnh, giai cấp công

nhân luôn là lực lượng đi đầu trong việc phát triển xã hội về các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội… Giai cấp cơng nhân là lực lượng sản xuất tiên tiến nhất gánh vác
trách nhiệm xóa bỏ chế độ tư bản, giải phóng nhân dân lao động và toàn bộ loài người
khỏi sự áp bức, bóc lột nghèo nàn, lạc hậu.
Giai cấp cơng nhân đã có sứ mệnh lịch sử to lớn khi đã thay đổi hình thái kinh
tế này sang hình thái kinh tế khác, chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác, đồng
thời làm thay đổi tình hình kinh tế-chính trị-xã hội trên phạm vi tồn thế giới. Như
vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của Chủ Nghĩa
Xã Hội Khoa Học. Chính vì những lí do đó, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài:
“Giai cấp công nhân và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời
đại hiện nay. Liên hệ thực tiễn.”
2.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu và hiểu về những khái niệm liên quan đến giai cấp công nhân,
nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay, từ đó
đề xuất ra những giải pháp để thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử đó trong cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước, liên hệ để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống.
3.

Phương pháp nghiên cứu

Vận dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của triết học Mác - Lênin vào việc phân tích sử mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam trong tiến trình cách mạng Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới và
hội nhập quốc tế hiện nay.
Đồng thời, chúng em còn vận dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể và những
phương pháp có tính liên ngành, tổng hợp: Logic và lịch sử, khảo sát, phân tích-tổng
hợp, so sánh, quy nạp-diễn dịch.

4.

Kết cấu của tiểu luận

Tiểu luận được trình bày gồm có 2 nội dung chính:
Chương 1: Giai cấp cơng nhân và thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân trong thời
đại ngày nay.
Chương 2: Liên hệ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với thực tiễn với một
số quốc gia trên thế giới và Việt Nam.

4


B.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ THỰC HIỆN SỨ MỆNH
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY.
1.1. Những nội dung cơ bản của giai cấp công nhân hiện nay
*Khái niệm về giai cấp công nhân:
Giai cấp cơng nhân hiện nay là những tập đồn người sản xuất và dịch vụ bằng
phương thức công nghiệp tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế
giới hiện nay.
*Những nội dung cơ bản của giai cấp công nhân hiện nay:
So với giai cấp công nhân truyền thống ở thế kỷ XIX thì giai cấp cơng nhân
hiện nay vừa có những điểm tương đồng vừa có những điểm khác biệt, có những biến
đổi mới trong điều kiện lịch sử mới. Cần phải làm rõ những điểm tương đồng và khác
biệt đó theo quan điểm lịch sử - cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin để một mặt khẳng
định những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mặt khác, cần có những bổ sung, phát

triển nhận thức mới về việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện
nay:
Thứ nhất, về điểm tương đồng:
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã
hội hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất cơng nghiệp hiện đại mang tính xã
hội hóa ngày càng cao. Ở các nước phát triển, có một tỷ lệ thuận giữa sự phát triển của
giai cấp công nhân với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động bằng phương thức
công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có trình độ phát triển cao
về kinh tế, đó là những nước cơng nghiệp phát triển (như các nước thuộc nhóm G7).
Cũng giống như thế kỷ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân
vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng bóc lột
này vẫn tồn tại. Thực tế đó cho thấy, xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại, vẫn là nguyên nhân cơ bản,
sâu xa của đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại ngày nay.
Phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu
trong các cuộc đấu tranh vì hỏa binh, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến
bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
Từ những điểm tương đồng đó của cơng nhân hiện đại so với cơng nhân thế kỷ
XIX, có thể khẳng định: Lý luận về sử mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong chủ
5


nghĩa Mác - Lênin vẫn mang giả trị khoa học và cách mạng, vẫn cỏ ý nghĩa thực tiễn
to lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay của giai cấp công nhân, phong trào
công nhân và quần chủng lao động, chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển của thế giới ngày nay.
Thứ hai, những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân hiện đại :
Gắn liền với cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh
tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa

cơng nhân là hai mặt của cùng một q trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối với công
nhân và giai cấp công nhân. Trên thực tế đã có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ cơng
nhân theo xu hướng này. Đó là “cơng nhân tri thức”, “cơng nhân trí thức”, “cơng nhân
áo trắng”, lao động trình độ cao. Nền sản xuất và dịch vụ hiện đại địi hỏi người lao
động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp.
Báo cáo phát triển nhân lực của Ngân hàng Thế giới từ đầu thế kỷ XXI (2002)
đã nêu rõ: “Tri thức là một động lực cơ bản cho việc gia tăng năng suất lao động và
cạnh tranh tồn cầu. Nó là yếu tố quyết định trong quá trình phát minh, sáng kiến và
tạo ra của cải xã hội”.
Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo
lại, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ trong nền sản xuất. Hao phí lao
động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ khơng cịn thuần túy là hao phi sức lực
cơ bắp. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và văn hóa tinh thần của
cơng nhân ngày càng tăng, phong phú đa dạng hơn và đòi hỏi chất lượng hưởng thụ
tinh thần cao hơn.
Với tri thức và khả năng làm chủ công nghệ, với năng lực sáng tạo trong nền
sản xuất hiện đại, người cơng nhân hiện đại đang có thêm điều kiện vật chất để tự giải
phỏng. Công nhân hiện đại với trình độ tri thức và làm chủ cơng nghệ cao, với sự phát
triển của năng lực trí tuệ trong kinh tế tri thức, trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn vốn
xã hội quan trọng nhất trong các nguồn vốn của xã hội hiện đại,
Tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp mang nhiều biểu hiện mới sản
xuất cơng nghiệp trong thế giới tồn cầu hỏa đang mở rộng thành “chuỗi giá trị tồn
cầu”. Q trình sản xuất một sản phẩm liên kết nhiều công đoạn của nhiều vùng, miền,
quốc gia, khu vực. Khác với truyền thống, trong nền sản xuất hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và công nghệ cao, đã xuất hiện những hình thức liên kết mới,
những mơ hình về kiểu lao động mới như “xuất khẩu lao động tại chỗ”, “làm việc tại
nhậ”, “nhóm chuyên gia quốc tế”, “quốc tế hóa các tiêu chuẩn sản xuất cơng nghiệp"
(như ISO 9001, 9002). Tính chất xã hội hóa của lao động hiện đại ngày càng được mở
rộng và nâng cao. Lực lượng sản xuất hiện đại đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia – dân
tộc và mang tính chất quốc tế, trở thành lực lượng sản xuất của thế giới toàn cầu.

6


Trong bối cảnh mới của tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cách mạng công
nghiệp thế hệ mới (4.0), công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn
về cơ cấu trong nền sản xuất hiện đại.
Với các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh
đạo và Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền. Đó là những biến đổi mới của giai
cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân thế kỷ XIX.
1.2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Thế Giới hiện nay
1.2.1. Nội dung về kinh tế - xã hội
Thông qua vai trị của giai cấp cơng nhân trong q trình sản xuất với cơng
nghệ hiện đại, năng suất, chất lượng cao, đảm bảo cho phát triển bền vững, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển xã hội ngày càng thể hiện rõ, bởi
sự phát triển sản xuất của chủ nghĩa tư bản trong thế giới ngày nay với sự tham gia
trực tiếp của giai cấp công nhân và các lực lượng lao động – dịch vụ trình độ cao lại
chính là nhân tố kinh tế - xã hội thúc đẩy sự chín muồi các tiền đề của chủ nghĩa xã
hội trong lòng chủ nghĩa tư bản. Đó lại là điều kiện để phát huy vai trị chủ thể của giai
cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa
xã hội.
Mặt khác, mâu thuẫn lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
cũng ngày càng sâu sắc ở từng quốc gia và trên phạm vi tồn cầu. Tồn cầu hóa hiện
nay vẫn mang đậm tính chất tư bản chủ nghĩa với những bất cơng và bất bình đẳng xã
hội lại thúc đẩy cuộc đấu tranh chống chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên phạm vi thế
giới, phấn đấu cho việc xác lập một trật tự xã hội mới cơng bằng và bình đẳng, đó là
từng bước thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong kinh tế - xã hội.
1.2.2. Nội dung về chính trị- xã hội
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, mục tiêu đấu tranh trực tiếp của giai cấp công
nhân và lao động là chống bất cơng và bất bình đẳng xã hội. Mục tiêu lâu dài là giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được nêu rõ trong Cương

lĩnh chính trị của các Đảng Cộng sản trong các nước tư bản chủ nghĩa. Đối với các
nước xã hội chủ nghĩa, nơi các Đảng Cộng sản đã trở thành Đảng cầm quyền, nội dung
chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là lãnh đạo thành công sự
nghiệp đổi mới, giải quyết thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, đặc biệt là xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh, thực hiện thành
công sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển nhanh và bền
vững.
1.2.3. Nội dung về văn hóa, tư tưởng
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong điều kiện thế giới ngày
nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng trước hết là cuộc đấu tranh ý thức hệ. Đó là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh này đang diễn ra
phức tạp và quyết liệt, nhất là trong nền kinh tế thị trường phát triển với những tác
7


động mặt trái của nó. Mặt khác, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, phong
trào cách mạng thế giới đang phải vượt qua những thoái trào tạm thời thì niềm tin vào
lý tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đứng trước những thử thách càng làm cho cuộc đấu
tranh tư tưởng lý luận giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội trở nên phức tạp và
gay gắt hơn.
Song các giá trị đặc trưng cho bản chất khoa học và cách mạng của giai cấp
công nhân, của chủ nghĩa xã hội vẫn mang ý nghĩa chỉ đạo, định hướng trong cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động chống chủ nghĩa tư bản và lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa của sự phát triển xã hội.
Các giá trị như lao động, sáng tạo, cơng bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do vẫn là
những giá trị được nhân loại thừa nhận và phấn đấu thực hiện. Trên thực tế, các giá trị
mà nhân loại hướng tới đều tương đồng với các giá trị lý tưởng, mục tiêu của giai cấp
công nhân.
Không chỉ ở các nước xã hội chủ nghĩa mà ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa cuộc
đấu tranh của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động vì những giá trị cao cả đó đã

đạt được nhiều tiến bộ xã hội quan trọng.
Đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản, giáo dục nhận thức
và củng cố niềm tin khoa học đối với lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, giáo dục và thực hiện chủ nghĩa quốc tế chân
chính của giai cấp cơng nhân trên cơ sở phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc chính là nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay về văn hóa tư
tưởng.
1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt Nam
1.3.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về số lượng và chất
lượng, là giai cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu nghề nghiệp, có mặt
trong mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước
là tiêu biểu, đóng vai trị nịng cốt, chủ đạo.
Công nhân tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến, và công nhân trẻ
được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong
thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội, là lực lượng chủ đạo trong cơ cấu giai cấp cơng
nhân, trong lao động và phong trào cơng đồn.
Trong mơi trường kinh tế - xã hội đổi mới, trong đà phát triển mạnh mẽ của
cách mạng công nghiệp lần thứ 4, giai cấp công nhân Việt Nam đứng trước thời cơ
phát triển và những thách thức nguy cơ trong phát triển.

8


Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh
hiện nay, cùng với việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại,
phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng lãnh đạo,
cầm quyền thực sự trong sạch vững mạnh. Đó là điểm then chốt để thực hiện thành

công sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở Việt Nam.
1.3.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
- Về kinh tế:
Giai cấp công nhân Việt Nam với số lượng đơng đảo cơng nhân có cơ cấu
ngành nghề đa dạng, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp ở mọi
thành phần kinh tế, với chất lượng ngày một nâng cao về kỹ thuật và công nghệ sẽ là
nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại,
định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy khoa học - công nghệ làm động lực quan trọng, quyết
định tăng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, thực hiện hài hịa lợi ích cá nhân - tập
thể và xã hội.
Giai cấp cơng nhân phát huy vai trị và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và
môi trường.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế gắn liền
với việc phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân, của cơng nghiệp, thực hiện khối liên
minh cơng - nơng - trí thức để tạo ra những động lực phát triển nông nghiệp - nông
thôn và nông dân ở nước ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hóa, chủ động hội
nhập quốc tế,
- Về chính trị - xã hội:
Cùng với nhiệm vụ giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì nhiệm vụ
“Giữ vững bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của
cán bộ đảng viên” và “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ” là những nội dung chính yếu, nổi bật, thể hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp
công nhân về phương diện chính trị - xã hội
- Về văn hóa tư tưởng:
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức

cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp, văn minh, hiện đại, xây dựng
hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, hồn thiện nhân cách - Đó là nội dung trực
tiếp về văn hóa tư tưởng thể hiện sứ mệnh lịch sử cửa giai cấp công nhân, trước hết là
trọng trách lãnh đạo của Đảng.
9


CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
ĐỐI VỚI THỰC TIỄN MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM
2.1. Thực tiễn đối với Liên Xô
Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi, đánh dấu
bước đột phá vĩ đại mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và sự ra đời Nhà nước của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đầu tiên trên thế giới đã trở thành biểu tượng của
niềm tin và sự cổ vũ mãnh liệt đối với hàng ngàn triệu người thuộc các dân tộc bị áp
bức nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, thực dân vùng lên đấu tranh tự giải phóng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách
mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, làm thức tỉnh hàng chục triệu người bị
áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử lồi người chưa từng có cuộc cách mạng
nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa thế”.
Giai cấp công nhân đã đem lại quyền làm chủ cho nhân dân lao động
100 năm đã trôi qua, Cách mạng Tháng Mười vẫn là một trong những sự kiện
lớn nhất trong lịch sử cận đại, một cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
đem lại quyền làm chủ cho nhân dân lao động và hịa bình cho các dân tộc trên thế
giới.
2.1.1

V.I.Lênin từng nhận định, Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu “một sự nghiệp
mới mẻ”, “Sự nghiệp sáng tạo ra một chế độ nhà nước xưa nay chưa từng có”; “chúng

ta (những người cách mạng) tự hào là đã có hân hạnh được bắt đầu việc xây dựng Nhà
nước Xơ Viết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống
trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi
đều đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành
lập chun chính vơ sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những
cuộc chiến tranh đế quốc”. Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, thủ tiêu mọi hình thức bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc, mở đường thắng lợi
cho cuộc đấu tranh cách mạng gắn giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc, giải
phóng con người.
Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng trong hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân, là bằng chứng về sự thắng lợi của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cách mạng Tháng Mười đã minh chứng vai
trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong việc liên
minh, tự giải phóng mình khỏi áp bức, bóc lột.
Giai cấp cơng nhân là lực lượng sản xuất tiến bộ, gắn với sự phát triển của sản
xuất công nghiệp. Điểm chung nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là
lực lượng đông đảo trong xã hội, đều bị bóc lột nặng nề, đều có mục đích và nguyện
10


vọng chống áp bức bóc lột, nếu có được tổ chức, tập hợp lại thì sẽ tạo ra được sức
mạnh chưa từng có để chống lại giai cấp bóc lột, đưa địa vị của mình trở thành người
làm chủ xã hội.
Cách mạng Tháng Mười thành công đã đập tan bộ máy Nhà nước cũ, tiêu diệt
triệt để bộ máy Nhà nước của giai cấp bóc lột và thay vào đó một Nhà nước kiểu mới,
chính quyền của các Xơ Viết, coi như là một trong những hình thức chun chính vô
sản. Cách mạng Tháng Mười đã thủ tiêu quyền tư hữu tư liệu sản xuất chủ yếu. Ruộng
đất, công xưởng, nhà máy, đường sắt, ngân hàng, phương tiện giao thông trên biển, tất
cả những thứ đó thuộc quyền sở hữu của nhân dân. Nông dân được chia ruộng mà
không phải trả tiền và khơng phải đóng địa tơ cho địa chủ, hoặc những món tiền khác

có quan hệ với việc mua ruộng đất.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã biến nước Nga Sa Hoàng lạc hậu thành một
siêu cường đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa, một thời kỳ dài trong lịch sử là chỗ
dựa cho hàng trăm dân tộc đứng lên chống lại ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc,
giành độc lập dân tộc, bảo vệ hịa bình thế giới. Có thể nói, nếu khơng có Cách mạng
Tháng Mười, nhân loại không thể sống trong kỷ nguyên độc lập, tự do. Ngay trong
lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, những quyền dân sinh, dân chủ, quyền con người …
mà nhân dân lao động có được cũng nhờ ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười
đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của
giai cấp cơng nhân và của cả lồi người”.
Người cũng chỉ rõ những bài học “hết sức quý báu” đó là: Cần có sự lãnh đạo
sáng suốt của một chính đảng cách mạng chân chính của giai cấp cơng nhân, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân; phải thực hiện cho được liên minh cơng nơng vì đó là sự bảo
đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. V.I.Lênin cũng đưa ra một cách
khá hoàn chỉnh hệ thống các nguyên tắc về bản chất giai cấp công nhân của Đảng
Cộng sản; nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; sự thống nhất ý chí
và hành động của đội ngũ đảng viên; giữ gìn và bảo vệ kỷ luật Đảng; sự gắn bó máu
thịt giữa đảng với quần chúng... Những nội dung cơ bản nêu trên được V.I.Lê-nin trực
tiếp áp dụng, bổ sung và phát triển trong quá trình xây dựng, rèn luyện Đảng Công
nhân dân chủ - xã hội Nga và trong điều kiện Đảng ấy trở thành Đảng cầm quyền sau
Cách mạng Tháng Mười.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã cho thấy vai trị của một chính đảng
được trang bị bởi một học thuyết khoa học và cách mạng. Đảng Cộng sản có khả năng
lãnh đạo liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Nga, như giữa giai cấp công
nhân Nga với bần nông; tập hợp thành một làn sóng cách mạng duy nhất tất cả các
phong trào cách mạng có những bản sắc khác nhau như phong trào dân chủ để đấu
11



tranh cho hịa bình, phong trào dân chủ của nơng dân để giành lại ruộng đất từ tay bọn
chúa đất, phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức và phong trào xã hội
chủ nghĩa của giai cấp vơ sản để thiết lập chun chính vơ sản.
Đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lê-nin và Đảng Bolshevik
Nga đã lãnh đạo tài tình giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga lật đổ chế độ tư
bản, bọn áp bức bóc lột, giành chính quyền, đưa nước Nga chậm phát triển thành Liên
bang Xô Viết hùng cường, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong một thời kỳ dài
phát triển mạnh mẽ về kinh tế, quốc phòng, an ninh và giáo dục,... là trụ cột và lực lượng chủ yếu đập tan chủ nghĩa phát xít Đức trong đại chiến thế giới thứ hai, cứu nhân
loại khỏi họa phát xít; ngăn chặn có hiệu quả âm mưu gây chiến của chủ nghĩa đế
quốc, giữ vững hịa bình và ổn định tình hình chính trị thế giới trong gần nửa thế kỷ,
sau chiến tranh thế giới thứ hai.
2.1.2. Giai cấp công nhân và Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi đi cùng năm
tháng
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi có sức lơi cuốn, cổ vũ, giúp đỡ các dân tộc bị
áp bức, chậm phát triển đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc và định hướng phát
triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội. Từ sau Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, chủ
nghĩa xã hội được biết đến không chỉ là một học thuyết mà còn là một chế độ xã hội
mới tốt đẹp. Nó trở thành tấm gương để các dân tộc bị áp bức noi theo.
Nước Nga Xô Viết và sau này là Liên Xô chỉ 20 năm sau Cách mạng Tháng
Mười, đã từ một nước tư bản phát triển trung bình trở thành cường quốc đứng hàng
đầu thế giới; xác lập một kiểu tổ chức xã hội mang lại cho quần chúng lao động nhiều
quyền lợi. Sức sống, triển vọng và xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực
chính là sự khẳng định, tơn vinh những chân giá trị của Cách mạng Tháng Mười.
Trong nhiều thập niên, Liên Xô từng là chỗ dựa vững chắc cho các phong trào cách
mạng trên thế giới đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống họa phát xít, vì hịa bình,
dân chủ, chủ nghĩa xã hội và tiến bộ xã hội.
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi còn chỉ ra những khả năng mới về sự phát
triển không ngừng của cách mạng ở các nước thuộc địa, các dân tộc chậm phát triển tự

quyết định con đường đi lên gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Theo chỉ dẫn
của V.I. Lê-nin, Quốc tế Cộng sản “phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một
nguyên tắc là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu
có thể tiến tới chế độ Xô Viết, qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

12


Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười làm cơ sở, tiền đề để giai cấp công
nhân, nhân dân lao động các nước trên thế giới đấu tranh để tự giải phóng mình ra khỏi
áp bức, bóc lột. Đánh giá ảnh hưởng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Cách
mạng Tháng Mười đã chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc, phá tan cơ sở của nó
và giáng cho nó một địn chí mạng. Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh
thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách mạng Tháng Mười đã mở ra
trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
Đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, các dân tộc bị áp bức trên thế giới
đã vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
để xây dựng đất nước. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (năm 1945), thắng lợi
thuộc về các lực lượng dân chủ, cách mạng thế giới bước vào một thời kỳ phát triển
mới. Phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn kết chặt chẽ với phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản trong cuộc đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội và tiến bộ xã hội, làm nên sức mạnh to
lớn của ba dòng thác cách mạng trên thế giới trong nhiều thập niên qua.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực từ thắng lợi ở một nước đã phát triển thành hệ thống
thế giới. Chủ nghĩa xã hội là xu thế phát triển tất yếu của thời đại, nhưng với hình thức
và bước đi rất khác nhau như chỉ dẫn của V.I. Lê-nin: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến
chủ nghĩa xã hội. Đó là điều khơng tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới
chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ,…”. Lý luận

về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và “sự phát triển rút ngắn” của học thuyết Mác
đã được Đảng Bolshevik và V.I. Lê-nin sáng tạo, thể nghiệm thành cơng qua Chính
sách kinh tế mới (NEP) trong những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX. Qua đó, cung
cấp những bài học kinh nghiệm quý báu cho các nước chậm phát triển quá độ gián tiếp
lên chủ nghĩa xã hội với những bước “quá độ dần dần”; biết “lợi dụng chủ nghĩa tư
bản” để xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v.
Hiện nay, trước sự phát triển nhanh chóng của kinh tế tri thức, xu hướng tồn
cầu hóa, giai cấp tư sản tận dụng sự phát triển đó để nâng cao năng suất lao động, phân
hóa giai cấp cơng nhân thành các tầng lớp “công nhân cổ xanh”, “công nhân cổ trắng”,
… có mức sống chênh lệch nhau ngày càng lớn. Bộ phận cơng nhân có thu nhập cao
dễ thỏa hiệp với giới chủ, giảm nhiệt tình đấu tranh cách mạng và giai cấp tư sản vẫn
tồn tại trên cơ sở chiếm đoạt giá trị thặng dư. Điều đó, chứng thực quan điểm của C.
13


Mác rằng, xác thịt của tư bản có thể thay đổi nhưng bản chất bóc lột giá trị thặng dư
của nhà tư bản thì khơng hề thay đổi. Chừng nào xã hội cịn áp bức, bóc lột, bất cơng,
chừng đó nhân loại còn phải tiếp tục đấu tranh cho một xã hội tự do, dân chủ, khơng
cịn áp bức, bóc lột, bất công.
Cách mạng là sáng tạo. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin xa lạ với những lý thuyết xơ
cứng, giáo điều, thoát ly cuộc sống. Theo chỉ dẫn của V.I. Lê-nin: “Chúng ta không hề
coi lý luận của Mác như là một cái gì đó xong xi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho mơn khoa học mà những người xã
hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu đối với cuộc sống”. Để lý luận cách mạng được vận dụng thắng lợi vào cuộc
sống trong thời đại hiện nay, nhất thiết phát huy tinh thần nỗ lực, sáng tạo cách mạng
của khối quần chúng đông đảo, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Sức sống của Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi đi cùng năm tháng, cổ vũ
cho tinh thần đấu tranh không mệt mỏi để xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa.

2.2. Liên hệ thực tiễn tại Trung Quốc
2.2.1 Đội ngũ cơng nhân gia tăng cùng với sự phân hóa cơ cấu sâu sắc
Trước đây, công nhân chủ yếu làm việc trong các xí nghiệp quốc hữu và tập thể,
nay ngồi hai loại hình trên, họ cịn làm việc trong các xí nghiệp hương trấn, xí nghiệp
"ba loại vốn",... Năm 2000, tổng số cơng nhân tồn quốc là 260,9 triệu người, chiếm
20,6% tổng dân số Trung Quốc, trong đó cơng nhân thành thị là 112,59 triệu người,
chiếm 43,15%; công nhân xí nghiệp hương trấn là 128,2 triệu người, chiếm 49,14%,
cơng nhân trong các xí nghiệp tư doanh thành thị và nông thôn là 20,11 triệu người,
chiếm 7,71%. Qua những số liệu trên có thể thấy, cơ cấu giai cấp cơng nhân Trung
Quốc đã có sự thay đổi nhanh chóng từ khi nước này bắt đầu cải cách mở cửa. Một số
học giả Trung Quốc đã phân loại đội ngũ công nhân thành cơng nhân xí nghiệp quốc
hữu, cơng nhân xí nghiệp phi quốc hữu và công nhân đợi việc làm (thất nghiệp). Một
số ý kiến khác lại cho rằng, giai cấp công nhân trước đây nay được phân cấp thành các
tầng lớp như: tầng lớp các nhà doanh nghiệp (quản lý), tầng lớp công nhân "cổ trắng",
tầng lớp công nhân phổ thông và tầng lớp công nhân viên thu nhập thấp. Trong đó, số
lượng cơng nhân viên ngành kinh tế thứ ba (dịch vụ) tăng nhanh nhất, số công nhân
"cổ trắng" ngày càng đơng.
Sự phân hóa trong cơ cấu giai cấp cơng nhân ở Trung Quốc có nhiều ngun
nhân, trước hết là nhân tố chính sách. Từ năm 1978, Trung Quốc bắt đầu xóa bỏ cương
lĩnh đấu tranh giai cấp, tập trung phát triển kinh tế, giải phóng sức sản xuất. Bên cạnh
đó là chế độ sở hữu thay đổi, cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh và nâng cấp, phương
14


thức phân phối đa dạng hóa, cơ chế thị trường hóa và tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa được đẩy mạnh.
2.2.2

Sự xuất hiện của giai tầng công nhân nông thôn


Giai cấp công nhân nông thôn được coi là giai tầng đặc biệt của xã hội Trung
Quốc trong thời kỳ chuyển đổi mơ hình kinh tế - xã hội. Sự ra đời của giai tầng xã hội
mới này bắt nguồn từ sự chuyển đổi mau chóng mơ hình kinh tế - xã hội và sự mất
cân đối trong cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, thành thị - nông thôn Trung Quốc
những năm qua.
Đặc trưng cơ bản của công nhân nông thôn thể hiện ở chỗ: Một là, tuy công
việc của công nhân nông thôn chủ yếu là làm việc trong các ngành công nghiệp hoặc
nghề phi nông nghiệp nhưng theo hộ tịch họ vẫn là nông dân. Hai là, tuy là nhóm xã
hội giữ vai trị hạt nhân trong cơ cấu cư dân nông thôn, nhưng công nhân nơng thơn
lại chỉ có địa vị "bên lề" trong cơ cấu cư dân thành thị. Ba là, họ vừa cư trú ở nông
thôn, vừa cư trú ở thành thị, vừa giữ tập qn truyền thống của nơng thơn, vừa thích
nghi với đời sống đô thị hiện đại, vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu thụ và là
cầu nối giữa văn minh truyền thống và hiện đại. Theo các nhà nghiên cứu Trung
Quốc, giai tầng công nhân nông thôn sẽ còn tồn tại trong một thời gian nhất định.
2.2.3 Xu hướng “Làm thuê hóa”
Hiện nay, có khoảng 100 triệu công nhân làm việc trong các tổ chức kinh tế phi
công hữu như doanh nghiệp tư nhân, kinh tế cá thể, doanh nghiệp "ba loại vốn".
Trong xí nghiệp hương trấn, có xí nghiệp tên gọi là tập thể, nhưng thực tế là xí nghiệp
tư nhân, cơng nhân trong các xí nghiệp này thực chất là người làm thuê.
Đối với việc cải cách doanh nghiệp quốc hữu, một số ít doanh nghiệp thực hiện
bán cổ phần. Một bộ phận doanh nghiệp quốc hữu vừa và nhỏ được bán cho chủ
doanh nghiệp tư nhân, trở thành doanh nghiệp tư nhân; một số thực hiện người kinh
doanh nắm phần lớn cổ phần. Thông qua các phương thức thu mua cổ phần đa dạng,
một loạt nhà doanh nghiệp quốc hữu chỉ "qua một đêm" đã sở hữu cổ phần trị giá
hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng chục triệu nhân dân tệ (NDT), hình thành nên
một nhóm "triệu phú mới" trong xã hội. Thơng qua cải cách thể chế doanh nghiệp
quốc hữu vừa và nhỏ, công nhân viên chức cũng thay đổi địa vị ban đầu, trở thành
người lao động làm thuê hoặc trên thực tế có tính chất làm th.
2.2.4 Ý thức chính trị của một số bộ phận công nhân giảm sút
Báo cáo nghiên cứu giai tầng xã hội Trung Quốc đương đại cho thấy, tỉ lệ đảng

viên trong doanh nghiệp tư nhân năm 1995 là 17,1%, năm 2000 tăng lên 19,8%. Điều
này phản ánh địa vị chính trị của doanh nghiệp tư nhân đã được nâng cao, nhưng công
nhân tại các doanh nghiệp này lại khơng có nhiều liên hệ với tổ chức đảng, họ rất ít
tham gia và cũng ít quan tâm đến hoạt động và học tập chính sách có liên quan của tổ
chức Đảng.
Các doanh nghiệp trước đây là tổ chức kinh tế, đồng thời phát huy tác dụng tổ
chức cơ sở xã hội. Vai trò của các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền, cơng đồn, các
15


đồn thể được phát huy tốt. Hiện nay, chỉ có thể nhấn mạnh doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế, sau khi chấm dứt hợp đồng hoặc mua thâm niên công tác (để đủ thời gian
hưởng lương hưu) thì cơng nhân viên chức khơng thể tìm được tổ chức nào nữa, khơng
cịn chỗ nào để dựa vào.
Tính đến đầu năm 2006, trong số 350 triệu cơng nhân tồn quốc, hội viên cơng
đồn chỉ có 130 triệu người. Trong rất nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp "ba
loại vốn" và nông dân làm cơng khơng thành lập tổ chức cơng đồn.
Như vậy, sau 30 năm cải cách mở cửa, đội ngũ giai cấp công nhân ở Trung
Quốc đã không ngừng gia tăng về số lượng, cơ cấu giai cấp công nhân đã có những
thay đổi sâu sắc. Tuy nhiên, để phát huy truyền thống tốt đẹp và xây dựng đội ngũ
công nhân vững mạnh trong điều kiện cải cách mở cửa, thì Trung Quốc cịn phải có
những biện pháp đồng bộ giải quyết nhiều vấn đề mới nảy sinh trong đó có một số vấn
đề như đã trình bày.
2.2.5

Giá thành lao động rẻ và thu nhập thấp

Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc ln duy trì ở mức cao trong suốt 30
năm qua nhưng khối lượng việc làm mới không tương xứng với nhu cầu ngày càng
cao của người lao động. Mỗi năm ở các thành thị Trung Quốc trung bình bổ sung thêm

khoảng 24 triệu lao động từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng số việc làm có thể đáp ứng
chỉ khoảng 12 triệu.
Báo cáo về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Trung Quốc năm 2005 đã nêu rõ,
trong ngành chế tạo từ năm 1995 đến năm 1999, giá thành một lao động ở Trung Quốc
là 729 USD/năm, bằng 1/40 so với giá thành một lao động ở Mỹ, bằng 1/43 so với
Nhật, 1/5 - Hàn Quốc, 1/4 -Thái Lan, thậm chí cịn thấp hơn ấn Độ. Theo nguồn tài
liệu khác, mức tiền lương của nhiều ngành ở Trung Quốc không bằng 1/10 tiền lương
thấp nhất và 1/20 tiền lương trung bình của các ngành cơng nghiệp thơng thường ở
Anh. Doanh nghiệp tư nhân phát triển, nhà đầu tư nước ngoài muốn đến thành lập
doanh nghiệp ở Trung Quốc, nguyên nhân quan trọng là giá thành lao động rẻ.
Theo thống kê, năm 1978, ở Trung Quốc khơng có doanh nghiệp tư nhân; đến
năm 2001, số doanh nghiệp tư nhân đã là 2.028.500, với số vốn đăng ký là 1.821,224 tỉ
Nhân Dân tệ, số công nhân làm thuê là 22,5303 triệu người. Điều kiện lao động và
điều kiện làm việc của cơng nhân tại các xí nghiệp này rất kém. Thời gian làm việc có
nơi kéo dài đến hơn 10 tiếng, tiền lương thấp, bị ức hiếp, và tai nạn lao động thường
xuyên xảy ra. Trong giai cấp công nhân cịn có một bộ phận ở trạng thái bần cùng
tuyệt đối, tức là đến mức sinh hoạt thấp nhất cũng khó có thể duy trì. Theo con số
thống kê chưa đầy đủ, cả nước có 20,53 triệu người hưởng bảo hiểm sinh hoạt thấp
nhất.

16


2.3. Liên hệ thực trạng phát triển của công nhân Việt Nam
2.3.1. Số lượng
Trong thời gian qua, số lượng công nhân Việt Nam có xu hướng tăng nhanh
theo quy mơ nền kinh tế. Khởi đầu công cuộc CNH, HĐH, đội ngũ cơng nhân nước ta
có khoảng 5 triệu người. Đến cuối năm 2005, số lượng công nhân trong các doanh
nghiệp và cơ sở kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế ở nước ta là 11,3 triệu người,
chiếm 13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao động xã hội. Trong đó, 1,84 triệu công

nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước, 2,95 triệu trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước, 1,21 triệu trong các doanh nghiệp FDI, 5,29 triệu trong các cơ sở kinh tế cá thể.
So với năm 1995, tổng số công nhân tăng 2,14 lần, trong đó doanh nghiệp nhà nước
tăng 1,03 lần, doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 6,86 lần, doanh nghiệp FDI tăng 12,3
lần, các cơ sở kinh tế cá thể tăng 1,63 lần. Hiện nay, cả nước có hơn 12,3 triệu công
nhân trực tiếp làm việc trong cá c doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế.
Công nhân thuộc các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm do sự sắp xếp
lại cơ cấu. Năm 1986, có 14 nghìn doanh nghiệp với 3 triệu công nhân; năm 1995
tương ứng là 7.090 và 1,77 triệu; năm 2005 là 3.935 và 1,84 triệu; năm 2009 là 3.369
và 1,74 triệu. Mặc dù đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước có xu hướng
giảm, nhưng đây là lực lượng nịng cốt của GCCN nước ta.
Cơng nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có
vốn FDI tăng mạnh do số lượng các doanh nghiệp này tăng nhanh. Năm 1991, khu vực
doanh nghiệp ngồi nhà nước mới có khoảng 1.230 doanh nghiệp, đến năm 1995 đã
tăng lên 17.143 doanh nghiệp với hơn 430 nghìn cơng nhân. Năm 2009, con số này lên
tới 238.932 với 5.266,5 nghìn cơng nhân, trong đó kinh tế tập thể 261,4 nghìn, kinh tế
tư nhân 571,6 nghìn; các loại khác 4.433,5 nghìn. Số lượng cơng nhân khu vực ngoài
nhà nước chủ yếu tăng ở các tỉnh, thành phố phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ
như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phịng, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng.
Trong khu vực có vốn FDI, đến cuối năm 2009, có 1.919,6 nghìn người đang làm
việc trong 6.546 doanh nghiệp. Tính đến hết năm 2011, cả nước có 283 khu cơng
nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) được thành lập tại 58 tỉnh, thành phố, thu hút
khoảng 1,6 triệu lao động.
Ngoài ra, lực lượng lao động ở nước ngoài cũng là bộ phận quan trọng tạo nên sự
lớn mạnh của GCCN Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội, tính đến tháng 6-2008, tổng số lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm
việc ở nước ngồi trên 500 nghìn người. Bộ phận này được tiếp xúc và làm việc trong
môi trường cơng nghiệp hiện đại, có điều kiện học tập, rèn luyện chuyên môn, tay
nghề, nâng cao tác phong công nghiệp.

Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%,
ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ
17


sở kinh tế cá thể, công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương
mại chiếm 66,7%, 33,33% làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp.
Hiện tượng thay đổi việc làm, nghề nghiệp của cơng nhân nước ta cũng có chiều
hướng gia tăng. Sự thay đổi nơi làm việc cũng diễn ra thường xuyên ở tất cả các thành
phần kinh tế. Đặc biệt, cơng nhân lao động khu vực kinh tế ngồi nhà nước có tỷ lệ
thay đổi nơi làm việc rất lớn.
GCCN Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước nhưng hằng năm
đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà
nước.
2.3.2. Chất lượng
Độ tuổi bình qn của cơng nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm cơn nhân từ 18 đến
30 tuổi chiếm 36,4%, đặc biệt trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngồi cơng nhân
dưới 25 tuổi chiếm 43,4%, từ 26-35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36-45 tuổi chiếm 14%. Hầu
hết công nhân được tiếp cận với kinh tế thị trường nên năng động, thích ứng nhanh với
cơng nghệ hiện đại.
Tuổi nghề của công nhân: dưới 1 năm chiếm 6,9%, từ 1-5 năm: 30,6%, từ 6-10
năm: 16,4%, từ 11-15 năm: 10,5%, 16-20 năm: 16,8%, 21- 25 năm: 13,3%, trên 25
năm: 5,5%.
Trình độ học vấn của cơng nhân trong tất cả các khu vực kinh tế có xu hướng được
nâng lên: năm 1985, tỷ lệ cơng nhân có học vấn trung học phổ thơng là 42,5% thì năm
2003 tăng lên 62,2%, năm 2005 tăng lên 69,3%. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH và so với trình độ công nhân ở các nước trong khu vực và thế giới
thì trình độ học vấn của cơng nhân nước ta cịn thấp. Mặt khác, lực lượng cơng nhân
có trình độ học vấn cao phân bố không đồng đều, thường tập trung ở một số thành phố

lớn và một số ngành kinh tế mũi nhọn.
Trình độ nghề nghiệp của cơng nhân tuy đã được nâng cao, nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Năm 1996, số công nhân chưa qua đào tạo nghề là
45,7%, năm 2005 là 25,1%. Trình độ chun mơn, tay nghề của cơng nhân các loại
hình doanh nghiệp năm 2005 như sau: lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm
16,1%, lao động có trình độ trung cấp chiếm14,6%, cơng nhân kỹ thuật chiếm 28,1%,
lao động không được đào tạo chiếm 41,2%. Năm 2010, số lao động có trình độ đại học
trở lên là 5,7 %, cao đẳng là 1,7 %, trung cấp là 3,5 %, dạy nghề 3,8 %. Tình trạng mất
cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật khá lớn. Nhiều doanh nghiệp có thiết bị cơng
nghệ cao nhưng lại thiếu cơng nhân lành nghề. Đặc biệt, chỉ có 75,85% công nhân
đang làm những công việc phù hợp với ngành nghề đào tạo. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ tới năng suất, chất lượng sản phẩm, gây lãng phí trong đào tạo nghề.

18


2.3.3. Những hạn chế
Hiện nay, công nhân nước ta năng động trong cơng việc, nhanh chóng tiếp thu
những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về giá
trị của bản thân thơng qua lao động. Vị thế giữa công nhân lao động trong doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước khơng cịn cách biệt nhiều. Tâm lý
lấy lợi ích làm động lực là nét mới đang dần trở thành phổ biến trong công nhân. Sự
quan tâm hàng đầu của công nhân là việc làm, thu nhập tương xứng với lao động.
Mong muốn có được sức khoẻ, đất nước ổn định và phát triển, an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội được bảo đảm, dân chủ, công bằng xã hội được thực hiện, doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh thuận lợi, có đủ việc làm. Mong muốn được học tập, nâng cao
trình độ học vấn, chun mơn, được bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
Thực tế cho thấy GCCN Việt Nam đang có những biến đổi căn bản về chất. Tuy
nhiên, so với những yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế thì GCCN Việt
Nam cịn khơng ít hạn chế, bất cập:

Thứ nhất, GCCN không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời
đại mà đang thực sự bất cập với chính u cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Trình độ
học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn thấp so với yêu cầu
phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật
giữa các bộ phận công nhân. Rõ nét nhất là tình trạng thiếu nghiêm trọng chuyên gia
kỹ thuật, nhà quản lý giỏi, cơng nhân có trình độ tay nghề cao.
Thứ hai, đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi
trường làm việc độc hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng... đã dẫn
đến các cuộc đình cơng. Các cuộc đình cơng tự phát ngày càng gia tăng với tính chất
gay gắt, phức tạp. Theo Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2011, cả nước xảy ra
981 cuộc đình cơng, tăng hơn 2,3 lần so với năm 2010, tập trung chủ yếu ở vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam. Nguyên nhân chủ yếu là do người sử dụng lao động không
thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật như không trả lương đúng bảng
lương đã đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải cơng nhân vơ cớ, khơng
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân, …
Thứ ba, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận cơng
nhân cịn yếu. Ý thức chính trị, nhận thức về luật pháp của cơng nhân cịn hạn chế. Tỷ
lệ đảng viên, đồn viên cơng đồn trong cơng nhân lao động cịn thấp.
Thứ tư, vai trị của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa
đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của GCCN. Công tác phát
triển đảng trong công nhân chậm. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng
các tổ chức đảng. Hoạt động của Đoàn Thanh niên, tổ chức cơng đồn cịn mang tính
hình thức. Nhiều tổ chức cơng đồn chưa thực sự đứng về phía người lao động, bởi
cán bộ cơng đồn do doanh nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự
lãnh đạo quản lý trực tiếp của chủ doanh nghiệp.
Nói một cách cụ thể hơn:
Đối với việc làm cho người lao động, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
đã có nhiều chủ trương, giải pháp đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho
người lao động. Tuy nhiên, do quy mô nền kinh tế nhỏ, trình độ phát triển, sức cạnh

19


tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu so với khu vực và thế giới nên tỷ lệ thất nghiệp
còn ở mức cao. Theo số liệu của Tổng Liên đồn lao động Việt Nam, năm 2009, cả
nước có 83% số cơng nhân có việc làm thường xun ổn định, cịn 12% việc làm
khơng ổn định và 2,7% thường xun thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 21% doanh
nghiệp ngồi nhà nước đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cơng nhân và trích
nộp kinh phí cơng đồn.
Thu nhập của người lao động. Mức lương của người lao động hiện nay về cơ
bản không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chứ chưa nói đến
việc tích lũy hay chăm lo cho con cái... Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng
lương tối thiểu, thậm chí có quy định về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao
động làm ở các loại hình doanh nghiệp (Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên,
mức tăng thường không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm 2010,
tiền lương của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với
năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh hoạt tăng 11,75%, nên việc tăng lương khơng có tác
dụng nhiều trong việc cải thiện đời sống công nhân, đặc biệt là công nhân ở các KCN,
KCX. Trong khi đó, phần lớn các chủ doanh nghiệp vẫn đang lấy mức lương tối thiểu
để trả lương cho người lao động, chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng
lương.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn bớt một phần lương của người lao động chi cho
các khoản phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi lại, thưởng...
Nhà ở của người lao động. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, hầu hết các tỉnh, thành
phố lớn, các KCN, KCX không xây nhà lưu trú cho công nhân. Số người lao động
trong các KCN khoảng 1,6 triệu người, trong đó, chỉ có 20% số người có chỗ ở ổn
định. Đa số người lao động ngoại tỉnh làm việc tại các KCN đều phải thuê nhà trọ, với
điều kiện vệ sinh, môi trường không bảo đảm.
Thực hiện Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24-4-2009 của Thủ tướng Chính phủ
về Cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp,

các tỉnh, thành phố đã đăng ký 110 dự án nhà ở cho người lao động tại các khu công
nghiệp giai đoạn 2010 - 2015. Tuy nhiên, theo Thanh tra Chính phủ, đến nay, các dự
án nhà ở cho công nhân tại các KCN đều chậm tiến độ so với yêu cầu, trong số 27 dự
án đã được khởi cơng xây dựng mới có 9 dự án hoàn thành.
Trong quy hoạch phát triển các KCN, KCX, phần lớn chưa tính tới nhu cầu về
chỗ ở, nhà trẻ, trường học cho gia đình người lao động. Một số nơi xây nhà ở cho
người lao động thì lại thiếu đồng bộ với việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội. Do vậy,
gây khó khăn khơng nhỏ đối với người lao động trong sinh hoạt, làm việc...
Đời sống văn hóa của cơng nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã
từng bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động. Tuy nhiên, ở hầu hết
các KCN, KCX chưa tạo ra những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa cho cơng
nhân. Theo kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương, có đến 71,8% cơng nhân
khơng có điều kiện để đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không
đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8%
không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa
tinh thần, 89% giải trí bằng tivi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng internet.
Ngun nhân của tình trạng trên là do cơng nhân khơng có thời gian, kinh phí và các
KCN cũng khơng có cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của họ.
20


Điều kiện làm việc. Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhân chưa được bảo
đảm. Nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường bị ô nhiễm nặng như nóng, bụi,
tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều đó đã tác động xấu đến sức khoẻ
người lao động, gây ra các bệnh nghề nghiệp.
-

C.

KẾT LUẬN


Qua nghiên cứu đề tài, nhóm chúng em đã hiểu được những nội dung cơ bản về
giai cấp công nhân cũng như nghiên cứu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong thời đại ngày nay. Giai cấp đã cho thấy được sứ mệnh lịch sử và vai trò to lớn
của mình khi đã góp sức vào tất cả mọi lĩnh vực để phát triển đất nước, đồng thời, đây
cũng là giai cấp đông đảo tiếp tục thực hiện xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp theo
Chủ Nghĩa Xã Hội, ở xã hội này, mọi người dân đều được bình đẳng, khơng có áp bức,
bóc lột hay nghèo nàn, lạc hậu.
Qua đó, chúng em đã đề xuất được các giải pháp để vận dụng những sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân vào thực tiễn cuộc sống, góp phần vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng thành công chế độ
mà đất nước ta đang ra sức phấn đấu.

21


PHỤ LỤC TỪ VIẾT TẮTTÀI LIỆU THAM KHẢO
GS.TS Hồng Chí Bảo(2019), Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học, Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo

22



×