Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích một số vấn đề về lý luận và thực tiễn thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.4 KB, 17 trang )

Đề tài: Phân tích một số vấn đề về lý luận và thực tiễn thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân ở Việt Nam

A. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
I. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Khái niệm giai cấp công nhân
 Xuất phát từ quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về giai
cấp công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai
đoạn hiện nay, có thể nhận định: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội
ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nên công
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với
nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiép hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và
cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai
cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản
xuất phải là thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng
dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm
chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích
chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của họ”.
 Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là
giai cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
• Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhận là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày
càng có trình độ xã hội hoá cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công
1
nhận hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong
công trường thủ công.
• Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất


tư bản chủ nghĩa.
Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa , người công nhân
không có tư liệu sản xuất, họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm
sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý phân tích đặc trưng này, vì chính nó là
đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động
làm thuê cho giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, giai cấp
công nhận hiện đại đã có một số sự thay đổi nhất định so với trước đây. Xét về
phương thức lao động, nếu lao động của người công nhận trong thế kỷ XIX chủ
yếu là lao động cơ khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận công
nhân của những ngành ứng dụng công nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy công
nhân có trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân ở các
nước tư bản phát triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận công nhân đã
có một số tư liệu sản xuất nhỏ để cùng với gia đình làm thêm trong các công đoạn
phụ cho các xí nghiệp chính; một bộ phận nhỏ công nhân đã có cổ phần trong các
xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế số cổ phần và tư liệu sản xuất
của giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư liệu
sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay các nhà tư bản lớn.
Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao
động cho các nhà tư bản.
 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
• Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: “Giai cấp
vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết
2
thành sở hữu nhà nước”. Bước thứ hai: “Giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với
tư cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó cũng xoá bỏ mọi sự phân biệt
giai cấp và mọi đối kháng giai cấp”; nó lãnh đạo nhân dân lao động thông
qua chính đảng của nó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa. Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không

thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai
nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình.
• Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định
phải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành
cuộc đấu tranh cách mạng xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi
mặt kinh tế, chính trị và văn hoá, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết
sức lâu dài và khó khăn.
• Thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là 1 quá trình
lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi quốc
gia.
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
• Theo qua điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, lực llượng sản xuất là yếu tố
động nhất, luôn luôn vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuẩ ở bất
cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, với nền sản xuất đại công nghiệp ngày
càng phát triển, thì “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công
nhân, là người lao động”.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân hoàn toàn không có hoặc có rất
ít tư liệu sản xuất là người lao động làm thuê “vì thế họ phải chịu hết sự may rủi
3
của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ khác nhau”. Như vậy,
trong chế độ tư bản chủ nghĩa giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp
với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dùng chính quyền đó

để tổ chức xây dựng xã hội mới tiến tới một xã hội không còn tình trạng áp bức
bóc lột.
• Giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa
số quần chúng nhân dân lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này
có thể đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội.
b. Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân.
Do địa vị kinh tế - xã hội quy định đã tạo cho giai cấp công nhân có những đặc
điểm chính trị - xã hội mà những giai cấp khác không thể có được, đó là những đặc
điểm cơ bản sau đây:
• Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh
thần cách mạng triệt để nhất.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại. Đó là giai cấp được trang bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và luôn luôn
đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo múc tiêu xoá bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây
dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng
lớp khác vào phong trào cách mạng. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
giai cấp công nhân không gắn với tư hữu, do vậy họ cũng kiên định trong công
4
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống áp bức, bóc lột, xoá bỏ
chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
• Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao đọng trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản
xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này
phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động, cùng với cuộc sống đô thị tập trung đã
tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân. Tính tổ chức và kỷ
luật cao của giai cấp này đượ tăng cường khi nó phát triển thành một lực lượng
chính trị lớn mạnh, có tổ chức, được sự giác ngộ bởi một lý luận khoá học, cách
mạng và tổ chức ra được chính đảng của nó – Đảng Cộng sản. Giai cấp công nhân

không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng lợi trong cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
• Thứ ba, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai cấp
tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc lột giai
cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hoá. Tư bản của nước này có thể đầu
tư sang nước khác là một xúa hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do
một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở
mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân ở các
nước. Có như vậy, phong trào công nhân mới có thể giành được thắng lợi.
3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
a. Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân.
5
 Tính tất yếu:
Trong thực tế lịch sử, phong trào giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ
ran gay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, theo quy luật có áp bức có
đấu tranh. Mặc dù phong trào công nhân có thể phát triển về số lượng, quy mô
cuộc đấu tranh có thể được mở rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một
lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt đến
trình độ tự giác bằng cách tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng thì lúc đó phong
trào đấu tranh của giai cấp này mới thực sự là phong trào mang tính chất chính trị.
Sự thâm nhập của CN Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính
Đảng của giai cấp công nhân như 1 kết quả tất yếu.
 Quá trình hình thành và phát triển chính Đảng của công nhân.
V.I.Lê Nin chỉ ra rằng: “Đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa
XHKH. Nhưng trong mỗi nước,sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử, lại được
thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời

gian”.
Khi Đảng Cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân
nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện
pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao
động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giai phóng giai cấp mình, giải phóng
toàn xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
Đảng Cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phải
luôn luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn làm cho Đảng
vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng
nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
b) Mối quan hệ giữa Đảng Cộng Sản và giai cấp công nhân
- Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu
cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động.
6
- Đảng có sự tiên phong trong lý luận và hành động cách mạng. Đảng viên là
những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm đường lối của
Đảng, do vậy “họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”. Cán bộ,
đảng viên phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lôi cuốn
quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.
- Đảng Cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế Đảng có thể thực hiện
giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng.
Có tập hợp được quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia
các phong trào cách mạng thì những chủ trương, đường lối của Đảng mới
được thực hiện và khi đó Đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân mới thực hiện được.
- Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân
tộc. Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đấu của Đảng là muốn nói tới vai trò
đưa ra những quyết định của Đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử

quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào
cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây ra tổn thất cho cách mạng.
B. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam.
1. Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện giai cấp công nhân vươn lên thành giai cấp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai
cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này, trước cả sự ra đời của giai
cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế
7
quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển
công nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý
và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên
đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta do những điều kiện sau đây:
Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu
tranh bất khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng
với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai
cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách
mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí
sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân
Pháp liên tục nổ ra từ khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân lên đất nước ta: phong
trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hoàng Hoa Thám,
các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học, v.v. đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất
khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả
các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình
trạng bế tắc về đường lối.
Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc Cách mạng

Tháng Mười Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh hưởng đến phong trào dân tộc dân chủ
ở nước khác, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong trào cách mạng ở nước ta.
Chính vào lúc đó, nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc trên hành trình tìm đường cứu
nước đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin bí quyết
8
thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó, Người đã đề ra con đường duy
nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam - con đường cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và chuyển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ
giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp
nhận con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách
mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy
nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông dân lao
động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo
nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai
cấp công nhân xây dựng nên khối liên minh công nông vững chắc và khối đoàn kết
dân tộc rộng rãi bảo đảm cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá
trình cách mạng ở nước ta.
2. Vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chưa
được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một cách tự phát nhiều
cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân ủng hộ. Cuộc bãi công
của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922 mà Nguyễn ái Quốc coi đó mới chỉ là
"do bản năng tự vệ" của những người công nhân "không được giáo dục và tổ chức"
nhưng đã là "dấu hiệu của thời đại". Năm 1927 có gần chục cuộc bãi công với
hàng trăm người tham gia. Năm 1928-1929 có nhiều cuộc bãi công khác với hàng
9

nghìn người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi
măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi (Vinh), AVIA (Hà Nội), Phú
Riềng (Bình Phước). Những cuộc đấu tranh như thế không chỉ giới hạn trong công
nhân mà còn tác động sâu sắc đến các tầng lớp khác, đặc biệt là đến giai cấp nông
dân, các tầng lớp nhân dân lao động, thanh niên, sinh viên làm cho bọn thống trị
thực dân hoảng sợ.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào đầu năm 1930 của
thế kỷ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong
trào cách mạng nước ta có một bước phát triển nhảy vọt về chất.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói đến toàn
bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người. Để có thể
lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ chức tiêu biểu cho sự tự giác
và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng đó là Đảng Cộng sản. Xét về thành phần
xuất thân thì nước ta có nhiều đảng viên không phải là công nhân. Nhưng, bất cứ
đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý
tưởng, ở lý luận Mác-Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách
mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này được
Đảng ta khẳng định rất rõ: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của dân tộc". Đảng của giai cấp công nhân nước ta đã lãnh đạo toàn dân hoàn
thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành
10
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là
nhiệm vụ lịch sử khó khăn, phức tạp nhất.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, đội ngũ
công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc

hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước
ngoài, tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ
trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta, là
hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Dựa vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dựa vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn
dân, quân và dân ta đã làm nên sự thành công của Cách Mạng tháng 8 năm 1945,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau khi Pháp trở lại, chúng ta đã đánh bại kế hoạch Navarre bằng chiến dịch Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu.
08/05/1954 Hội nghị Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở
Đông Dương. Ngày 10/10/1954, quân Pháp chính thức rút khỏi Hà Nội, thời kỳ
hòa bình ở Miền Bắc bắt đầu.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã phải đối mặt với biết bao chiến
lược của địch như: chiến tranh đặc biệt , chiến tranh cục bộ, và đặc biệt là chiến
11
dịch tìm diệt nhưng Bác Hồ và Đảng ta đã xác định đúng đắn đường lối cách mạng
trong giai đoạn mới: Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền
nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, thống nhất Tổ quốc.
Ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 đi vào lịch sử. Từ đây đất nước ta hoàn toàn
độc lập và thống nhất.
 Những việc làm của Đảng nhằm xây dựng khối liên minh
• ĐCS VN đã chủ trương "lãnh đạo dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng
đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến"
• Đảng đã lập ra tổ chức công hội để giáo dục và vận động công nhân; lập

ra nông hội, hội vǎn hoá cứu quốc và các đoàn thể thanh niên, phụ nữ,
v.v., để giáo dục và tổ chức nông dân, trí thức và các tầng lớp lao động
khác
• Kết hợp đúng đắn hai khẩu hiệu chiến lược "độc lập dân tộc" và "người
cày có ruộng"
• Đảng luôn luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp những trí thức cách
mạng vào hàng ngũ của mình và các đoàn thể cách mạng khác, làm cho
họ trở thành một "động lực" cách mạng quan trọng.
• Sau Cách mạng Tháng Tám, Chính phủ đã thực hiện:
- Ra sắc lệnh giảm tô
- Thực hiện cải cách ruộng đất
12
- Chia 177.000 ha ruộng đất cho nông dân
- Ban hành các điều luật để công - nông và tầng lớp trí thức nói riêng được
hưởng quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do tổ chức, tự do hội họp,
tự do đi lại trong nước và tự do xuất dương…
Đây không chỉ là những động viên cổ vũ giai cấp nông dân mà cả giai cấp công
nhân và tầng lớp trí thức.
3. Giai cấp công nhân trong những năm đổi mới.
a. Chủ trương chính sách của Đảng trong thời kì đổi mới
Trong đại hội lần thứ VI, Đảng đề ra những biện pháp cụ thể:
• Đối với giai cấp công nhân
- Nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt để
xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng
- Chǎm lo đời sống vật chất và vǎn hoá
- Cần có “chế độ tiền lương và phúc lợi xã hội hợp lý, bảo đảm đời sống vật
chất và vǎn hoá của công nhân, viên chức và gia đình”
• Đối với trí thức
- Bảo đảm quyền tự do sáng tạo.
- Đánh giá đúng nǎng lực và tạo điều kiện cho nǎng lực được sử dụng đúng và

phát triển
13
- Phê phán những quan điểm hẹp hòi, không thấy hết vị trí của trí thức đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
• Đối với nông dân:
- Giải quyết tốt quan hệ giữa nghĩa vụ đóng góp cho đất nước và quyền lợi
của nông dân
- Thực hiện khoán 10
b. Những thành tựu đã đạt được của giai cấp công nhân Việt Nam
• Hằng năm GCCN đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm
hơn 60% ngân sách nhà nước
• Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:
- Là giai cấp lãnh đạo cách mạng
- Là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
• Là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân
• Trong thời kì đổi mới, GCCN đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh
đạo cách mạng
c.Những hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam
14
• Giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
• Thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề
• LĐ trình độ cao chủ yếu tập trung trong khu vực nhà nước, ở TP lớn
• Tác phong làm việc còn yếu, khả năng thích môi trường cạnh tranh kém
• Việc làm, đời sống của CN còn quá nhiều khó khăn
• Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp
4. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân VN thời kỳ đẩy

mạnh CN hoá - hiện đại hoá đất nước
a.Mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân
- Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh
- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công
nhân
- Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp
- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật
- Tăng tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo. Tăng số lượng và chất lượng cơ sở
Đảng trong các loại hình doanh nghiệp
15
- Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các
loại hình doanh nghiệp
b. Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công
nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai
cấp công nhân
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần
dân tộc cho giai cấp công nhân

16
17

×