Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức từ thực tiễn bộ giao thông vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.57 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

….….……/….….……

.…/….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN TRÍ NHẬT

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN:
PHÁP LUẬT VỀ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC –
TỪ THỰC TIỄN BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội – NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

….….……/….….……

.…/….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


NGUYỄN TRÍ NHẬT

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN:
PHÁP LUẬT VỀ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC –
TỪ THỰC TIỄN BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ NGUYỄN KHÁNH LY

Hà Nội – NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam kết đây là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các sớ liệu,
kết quả nêu trong Ḷn văn là trung thực, có nguồn gớc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Hà Nội, tháng 5 năm 2022
Tác giả

Nguyễn Trí Nhật


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CCVC : Công chức, viên chức
GTVT : Giao thông vận tải

QPPL : Quy phạm pháp luật


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Thống kê xử lý kỷ luật CCVC giai đoạn 2016 – 2020……. 56


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC,
VIÊN CHỨC ............................................................................................................. 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về kỷ luật công chức, viên chức ................................. 9
1.2. Pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức ................................................... 15
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức ... 41
Chương 2: THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC, VIÊN
CHỨC TẠI BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI ............................................................ 48
2.1. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật về kỷ luật công chức,
viên chức tại Bộ Giao thông vận tải .................................................................... 48
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức tại Bộ Giao
thông vận tải ........................................................................................................ 58
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức tại
Bộ Giao thông vận tải.......................................................................................... 62
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KỶ
LUẬT CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC – TỪ THỰC TIỄN BỘ GIAO THƠNG VẬN
TẢI .......................................................................................................................... 78
3.1. Quan điểm hồn thiện pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức .............. 78
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức ................ 82

3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức tại Bộ
Giao thông vận tải ............................................................................................... 92
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 100


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ CCVC là những người phục vụ trong bộ máy nhà nước. Họ là
một nhóm lao động chiếm sớ lượng khơng lớn nhưng có một ý nghĩa đặc biệt
trong xã hội, bởi hoạt động của họ minh chứng là đội ngũ vận hành bộ máy
Nhà nước, phản ánh bản chất và hình ảnh của nhà nước đó trong cộng đồng dân
cư và đời sớng xã hội. Trong lịch sử hình thành và phát triển, nhà nước nào
cũng quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ CCVC để bảo đảm thực hiện mục
tiêu chính trị đã được xác định.
Chính vì lý do trên, hoạt động cơng vụ địi hỏi tồn diện về phẩm chất,
năng lực chuyên môn của đội ngũ CCVC. Trong công vụ, người CCVC chỉ
được hành xử theo quy định của pháp ḷt, khơng được hành xử tùy tiện theo ý
chí chủ quan của mình. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong quản lý CCVC.
Tính chất của một vi phạm kỷ luật của CCVC gây hệ lụy nghiêm trọng hơn
nhiều so với một vi phạm kỷ luật của người lao động trong các tổ chức ngoài
nhà nước.
CCVC sẽ phải chịu sự rằng buộc của pháp lý nghiêm ngặt và chặt chẽ
trong công vụ. Các quy định của nhà nước về kỷ luật đối với CCVC là một chế
định không thể thiếu trong hệ thớng pháp ḷt nhằm kiểm sốt hành vi và cả
thái độ của những người lao động phục vụ trong bộ máy của mình. Việc thiết
lập một hàng rào pháp lý về kỷ luật hình thành một trong những công cụ pháp
lý quan trọng của Nhà nước nhằm phịng, chớng và xử lý nghiêm những vi

phạm kỷ ḷt trong q trình thực thi cơng vụ của CCVC, góp phần quản lý
hiệu quả nguồn nhân lực trong bộ máy nhà nước.
Tính đến nay, Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành một hệ thống các
văn bản QPPL để quản lý cán bộ, CCVC như: Luật Cán bộ, công chức năm
2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức


2

và Luật Viên chức năm 2019 và các văn bản QPPL luật điều chỉnh về tuyển
dụng, sử dụng, điều động, biệt phái, bổ nhiệm, từ chức, luân chuyển, nâng
ngạch, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, thôi việc và phân cấp quản lý cán bộ,
CCVC… Các văn bản QPPL này đã tạo nên hệ thống thể chế quản lý, là cơ sở
pháp lý cho việc xây dựng, phát triển và quản lý đội ngũ CCVC trong thời gian
qua. Tuy vậy, hệ thớng các văn bản QPPL vẫn cịn một sớ nội dung chưa thớng
nhất, đồng bộ, trong đó có các quy định về kỷ luật CCVC, các quy định này
vẫn tồn tại các khoảng trớng, thiếu chặt chẽ; điều này hình thành nên những
vướng mắc, khó khăn nhất định cho người thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC
trong thực tiễn quản lý của các cơ quan nhà nước nói chung và của Bộ GTVT
nói riêng. Việc thực hiện tớt pháp luật về sử dụng, quản lý CCVC nói chung,
pháp luật về kỷ ḷt CCVC nói riêng khơng chỉ góp phần thực hiện đầy đủ quy
định của pháp luật, mà còn bảo đảm kỷ cương hành chính, sự minh bạch trong
hoạt động cơng vụ của đội ngũ CCVC.
Với thực trạng đó và những địi hỏi của tình hình mới, để ḷn giải những
vấn đề lý luận và thực tiễn về kỷ luật CCVC, tác giả đã lựa chọn tên “Pháp
luật về kỷ luật công chức, viên chức – từ thực tiễn Bộ Giao thông vận tải”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, các luận án, luận văn, bài báo tạp chí

đề cập đến kỷ ḷt CCVC, có thể kể đến như:
- Đề tài “Vai trò của trách nhiệm kỷ luật hành chính trong quản lý cán
bộ, cơng chức” của tác giả Nguyễn Hữu Phúc đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 8 năm 2009. Tác giả đã tập trung phân tích vai trị của trách nhiệm
kỷ ḷt hành chính trong quản lý cán bộ, cơng chức ở các khía cạnh: nâng cao
năng lực, bảo đảm hiệu lực hiệu quả nền hành chính nhà nước; vai trị bảo vệ


3

pháp chế trong tổ chức quản lý, hoạt động của cơ quan nhà nước; vai trò xác
định hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp, tạo cơ sở, chuẩn mực cho cách
ứng xử của cán bộ, công chức; vai trò giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa; vai
trò trừng phạt đối với cán bộ, công chức.
- Luận án Tiến sĩ “Chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính trong pháp
luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Phúc năm 2010. Luận án đã phân tích
thực trạng pháp luật về trách nhiệm kỷ luật hành chính cũng như thực trạng
thực hiện chế định pháp luật trách nhiệm kỷ luật hành chính; từ đó đưa ra những
quan điểm, phương hướng hồn thiện chế định và những giải pháp khoa học,
khả thi nhằm hoàn thiện chế định trên trong điều kiện ở nước ta.
Một sớ cơng trình nghiên cứu khác mà tác giả dùng để tham khảo các cơ
sở lý luận và thực tiễn về pháp luật kỷ luật CCVC như:
- Luận án Tiến sĩ “Hồn thiện chế định pháp luật về cơng vụ, công chức
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lương Thanh Cường năm 2008.
- Đinh Văn Mậu, “Về kỷ luật nhà nước và trách nhiệm của cơng chức”,
Tạp chí Tổ chức nhà nước số 4, năm 2010.
- Bùi Thị Đào, “Một số vấn đề về kỷ luật cán bộ, cơng chức”, Tạp chí
Ḷt học sớ 6, năm 2010.
- Bài “Về kỷ luật nhà nước và trách nhiệm của công chức” tác giả Đinh
Văn Mậu, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 4, năm 2010.

- Nguyễn Thị Hải Yến (2017), Pháp luật về chế độ cơng vụ theo vị trí
việc làm trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
- Bài “Quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” tác giả PGS. TS. Trần Đình Thắng, Tạp chí Tổ
chức nhà nước, năm 2018.


4

- Bài “Một số vấn đề về chế độ kỷ luật đối với cán bộ, cơng chức” tác giả
Hồng Thị An Khánh, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, tháng
4/2019.
- Bài “Giữ gìn kỷ luật của Đảng theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí
Minh” tác giả GS.TS. Mạch Quang Thắng, Tạp chí Lý luận chính trị, năm 2019.
- Bài “Trách nhiệm kỷ luật đối với cơng chức vi phạm pháp luật về phịng,
chống tham nhũng” tác giả TS. Cao Vũ Minh và ThS. Phạm Duy Quang, Tạp
chí Tổ chức nhà nước, năm 2020.
- Bài “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác lãnh đạo, điều hành,
tổ chức thực hiện pháp luật và thực thi cơng vụ” của TS Trần Nghị, Tổng Biên
tập Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, năm 2021.
Các công trình trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến pháp luật về kỷ
luật CCVC, trách nhiệm của CCVC trong hệ thống pháp luật và thực tế tại một
số địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu nào
đánh giá một cách đầy đủ trực tiếp về pháp luật kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT.
Đặc biệt với những đặc điểm mới của các chính sách, quy định của Nhà nước
về kỷ luật CCVC trong giai đoạn hiện nay.
Với mong ḿn đóng góp một phần nhỏ vào việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về kỷ luật CCVC, thông qua đề tài này tác giả khơng chỉ ḿn tìm

hiểu thực trạng pháp ḷt về kỷ ḷt CCVC tại Bộ GTVT mà cịn ḿn góp
phần đưa ra một số quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của
pháp luật về kỷ luật CCVC; tăng cường quản lý, giáo dục, phòng ngừa vi phạm,
nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật và chất lượng đội ngũ CCVC, góp
phần xây dựng bộ máy Nhà nước và hệ thớng chính trị ngày càng trong sạch,
vững mạnh trong thời gian tới.


5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất những giải pháp hoàn thiện
pháp luật về kỷ luật CCVC ở Việt Nam hiện nay, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
trong việc thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT. Để đạt được
mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về kỷ ḷt CCVC thơng
qua việc xác định các khái niệm có liên quan như: khái niệm CCVC; khái niệm
kỷ luật CCVC; khái niệm pháp luật về kỷ luật CCVC; xác định đặc điểm, nội
dung, vai trị và các ́u tớ ảnh hưởng đến việc pháp luật về kỷ luật CCVC.
Thứ hai, phân tích thực trạng thực thi pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ
GTVT, đưa ra những đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế và một số
nguyên nhân những hạn chế của việc thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC tại
Bộ GTVT, từ đó đưa ra những bất cập của pháp luật về kỷ luật CCVC.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kỷ luật
CCVC ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật về kỷ
luật CCVC và việc thực hiện các quy định của pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ
GTVT.
- Phạm vi nghiên cứu:

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về kỷ luật
CCVC từ khi có Luật cán bộ công chức năm 2008 và thực tiễn áp dụng thực hiện
các quy định về kỷ luật CCVC trong vịng 05 năm của Bộ Giao thơng vận tải từ
năm 2016 đến năm 2020.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam
và nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về kỷ luật CCVC và
thực tiễn thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT.


6

Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
về kỷ luật CCVC theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm
2010, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức 2019 và
các Nghị định hướng dẫn thi hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp luận của luận văn là những luận điểm
trong học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý hành chính
Nhà nước; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chế độ công vụ,
nhiệm vụ, công chức và pháp luật về kỷ luật CCVC; xây dựng nền công vụ kỷ
cương, công khai, minh bạch trong giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển đất
nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình viết Luận văn, tác giả đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp thống kê: Luận văn sử dụng phương pháp thớng kê q
trình thực hiện và thực trạng pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT. Trong
q trình thớng kê, sử dụng sớ liệu về đội ngũ CCVC, số liệu về kết quả thực
hiện kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT trên các tài liệu để có sớ liệu tổng hợp, từ đó
minh chứng cho các lập luận trong phần thực trạng và kiến nghị, đề xuất các
giải pháp nâng cao việc thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT.

Phương pháp hệ thống: Phương pháp hệ thống được tác giả sử dụng
nhằm hệ thớng, đánh giá khái qt tình hình nghiên cứu và các quy định về
pháp luật của kỷ luật CCVC.
Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh, đới
chiếu nhằm tìm ra sự tương đồng, khác biệt trong quy định pháp luật về kỷ luật
CCVC giữa các quy định pháp luật của Đảng và Nhà nước, các quy định pháp
luật chuyên ngành. Từ đó, đưa ra những nhận định, rút ra bài học, kinh nghiệm
hoàn thiện pháp luật về kỷ luật CCVC.


7

Phương pháp tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp để tóm
tắt nội dung sau một phần luận giải, phân tích nhằm đưa ra những ý kiến đánh
giá khái quát, tổng kết thực tiễn. Ngoài ra, phương pháp tổng hợp được sử dụng
trong phần tóm lược nội dung của từng mục, các kết luận của từng chương
trong luận văn.
Phương pháp phân tích: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích để
nghiên cứu, phân tích, lý giải về tính cấp thiết cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng
của vấn đề nghiên cứu đặt ra trong bới cảnh hồn thiện pháp luật về kỷ luật
CCVC tại Bộ GTVT. Từ đó, tác giả đi vào phân tích, làm rõ mục đích và nhiệm
vụ nhằm định hướng nội dung nghiên cứu theo từng chương. Phương pháp phân
tích cũng được tới đa hóa công dụng của phương pháp này, để lý giải làm sáng
tỏ các giải pháp được luận văn đề xuất, kiến nghị áp dụng nhằm nâng cao tính
khả thi, thuyết phục và có giá trị thực tiễn của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận:
Xây dựng khái niệm pháp luật về kỷ luật CCVC, hoàn thiện pháp luật về
kỷ luật CCVC ở Việt Nam; chỉ ra được các nội dung, đặc điểm, vai trò của pháp
luật về kỷ luật CCVC ở Việt Nam; xác định các tiêu chí và các ́u tớ ảnh

hưởng đến việc thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm kho
tàng lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, nhất là lý luận về hoàn thiện pháp
luật về kỷ luật CCVC ở Việt Nam.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật về kỷ luật CCVC;
đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về kỷ luật CCVC tại Bộ
GTVT trong thời gian qua. Từ đó đề xuất những giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về kỷ luật CCVC nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về
kỷ luật CCVC tại Bộ GTVT.


8

- Về mặt thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng, ḷn văn phân
tích được các kết quả, hạn chế của thực hiện pháp luật về kỷ luật CCVC ở Bộ
GTVT; đề xuất các giải pháp khả thi nhằm góp phần vào việc nghiên cứu, xây
dựng, hoàn thiện các điều kiện, phương pháp, cách thức, quy trình kỷ ḷt
CCVC ở Bộ GTVT trong bới cảnh đẩy mạnh hồn thiện pháp ḷt và cải cách
cơng vụ, công chức tại Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở để các cơ quan,
đơn vị tại Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, vận dụng vào thực tế trong công
tác cán bộ. Luận văn cũng có thể là tài liệu nghiên cứu pháp luật về kỷ luật
CCVC cho các học viên tại Học viện Hành chính Q́c gia.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức.
Chương 2. Thực thi pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức tại Bộ
Giao thông vận tải.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kỷ luật công
chức, viên chức - từ thực tiễn Bộ Giao thông vận tải.


9

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC,
VIÊN CHỨC
1.1. Một số vấn đề lý luận về kỷ luật công chức, viên chức
1.1.1. Khái niệm công chức
Cơng chức là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ
thuộc rất nhiều vào quan niệm về hoạt động cơng vụ, vào chế độ chính trị và
nền văn hóa của mỗi q́c gia và phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể
của từng nước.
Khái niệm cơng chức được ḷt hóa lần đầu tiên tại Sắc lệnh số 76/SL
ban hành Quy chế công chức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký vào ngày 20/5/1950, theo đó: “Cơng chức Việt Nam là
những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền
nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ”. Tại Điều 1 Sắc lệnh khẳng
định “Những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ chức
vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong nước hay nước ngồi đều
là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định”.
Sau đó, một thời gian khá dài (từ những năm đầu thập niên 60 tới những
năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước) khái niệm công chức đã không được
sử dụng thay vào đó là các khái niệm như: “cán bộ, cơng nhân, viên chức nhà
nước”, “công nhân viên chức”, họ là tất cả những người trong biên chế làm việc
trong cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp của Nhà nước, của Đảng của các
tổ chức chính trị - xã hội và các đơn vị kinh tế của Nhà nước. Giai đoạn này
khơng có sự rạch rịi giữa các khái niệm “cán bộ”, “công chức”, “viên chức”.

Đây là một trong những thiếu sót cơ bản của pháp ḷt hành chính lúc bấy giờ.
Đến năm 1991, Nghị định số 169/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban
hành ngày 25/5/1991 về công chức nhà nước đã quy định khái niệm công chức


10

mang bản chất như Sắc lệnh 76/SL năm 1950, theo Nghị định này thì: “Cơng
chức Nhà nước Việt Nam là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm
giữ một công vụ thường xuyên trong một cơ sở Nhà nước ở trung ương hay địa
phương, ở trong nước hay nước ngoài, đã được xếp vào một ngạch, hưởng
lương do ngân sách nhà nước cấp”. Nghị định này đã tác bạch khái niệm “công
chức”, không lẫn lộn với khái niệm “cán bộ” hay “viên chức” như thời kỳ trước
nữa.
Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ công chức ra đời, đánh dấu một bước tiến
đáng kể trong sự nghiệp hoàn thiện pháp luật về công chức. Tuy nhiên, Pháp
lệnh này không đưa ra định nghĩa “công chức”, ngay cả trong Pháp lệnh cán
bộ, công chức được sửa đổi năm 2003 cũng không đưa ra định nghĩa này, mà
thay vào đó, cả hai Pháp lệnh này lại dùng phương pháp liệt kê các đối tượng
là công chức. Việc dùng phương pháp liệt kê đã không bao hàm hết được các
đối tượng là công chức, mặt khác, phương pháp liệt kê làm cho văn bản không
khoa học, thể hiện sự “bất lực” của người làm luật khi không thể đưa ra một
khái niệm bao qt thế nào là cơng chức.
Năm 2008, Q́c hội khóa XII ban hành Luật Cán bộ, công chức đã hoàn
thiện khái niệm cơng chức. Theo đó, khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức
năm 2008 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phỉa là sĩ quan, quan
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Cơng

an nhân dân mà không phải là hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức


11

trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được
bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật”.
Luật Cán bộ, công chức 2008 quy định bao gồm cả những người làm
việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý trong đơn vị sự nghiệp công lập; quy định
này trên thực tế đã phát sinh một số vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc
biệt là sự khơng thớng nhất trong việc thực hiện chế độ, chính sách và áp dụng
cơ chế quản lý đối với đối tượng làm viêc trong cùng một đơn vị. Để tiếp tục
thực hiện chủ trương “phân định rõ quản lý nhà nước với đơn vị sự nghiệp công
lập” theo Nghị quyết sớ 19-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII thì cần
thiết phải sửa đổi đối tượng là công chức. Theo đó, tại khoản 1 Điều 1 Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Ḷt Viên chức 2019
có quy định “Cơng chức là cơng dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”.
1.1.2. Khái niệm viên chức
Trong nhiều xã hội, bộ phận lao động thực hiện những công việc về chăm

sóc sức khỏe, giáo dục, y tế… thường nhận được sự quan tâm, tôn trọng đặc
biệt của cộng cồng. Cùng với sự phát triển của xã hội, lực lượng lao động này
ngày càng chiếm số lượng lớn, chất lượng ngày càng được nâng cao và mang
tính chất chuyên nghiệp, nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của nhân dân và đáp
ứng các quy luật của nền kinh tế. Để gọi tên lực lượng lao động này, ở nhiều


12

nước có những tḥt ngữ khác nhau, như “cơng chức”, “cơng chức bình
thường”, “cơng chức sự nghiệp” hay “viên chức”, song họ đều được xác định
là những người hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công, đơn vị sự nghiệp công
lập.
Vào đầu thập kỷ 60 đến đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX, ở nước ta thường sử
dụng thuật ngữ “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước” để chỉ tất cả mọi người
làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp mà không sử dụng thuật ngữ “công
chức, viên chức”.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Viên chức là người làm việc trong một cơ
quan của nhà nước hay trong một sở tư”[46]. Theo Từ điển Luật học: “Viên
chức là người làm việc trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức phi chính phủ, tổ
chức tư nhân được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch hoặc được giao giữ
một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các
nguồn thu từ đơn vị sự nghiệp theo quy định của pháp luật” [47].
Từ khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành khi đó pháp luật đã quy định
khái niệm cán bộ, viên chức nhà nước được tuyển dụng trong các cơ quan nhà
nước. Năm 1982, Chính phủ ban hành Bảng danh mục viên chức sớ 1, trong đó
liệt kê các chức danh viên chức nhà nước. Đến Hiến pháp năm 2013 được ban
hành, pháp luật quy định và phân biệt rõ khái niệm cán bộ, CCVC. Như vậy,

Hiến pháp bắt đầu có sự phân biệt rõ ràng giữa các đối tượng: cán bộ, công
chức và viên chức. Việc phân biệt các đối tượng này dựa trên cơ sở khoa học
về tính chất, vai trị, nhiệm vụ, chức trách và từng đới tượng trong cơ quan, tổ
chức nhà nước, đồng thời là sự phát huy những điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam kể từ khi có Pháp lệnh Cán bộ, cơng chức năm 1998.


13

Cho đến khi Luật Viên chức năm 2010 có hiệu lực (ngày 01/01/2012) đã
quy định cụ thể thế nào là viên chức; theo đó viên chức được quy định như sau:
“Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc
tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Theo
định nghĩa nêu trên, viên chức là công dân Việt Nam tức là người có q́c tịch
Việt Nam; làm việc trong các đơn vị sự nghiệp cơng lập; có trình độ chun
mơn, năng lực phù hợp với vị trí việc làm.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật
Viên chức năm 2019 được kỳ họp thứ 8 Q́c hội khóa XIV thơng qua khơng
chỉ quy định lại định nghĩa công chức, mà quy định này cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến đối tượng viên chức; một trong sớ đó là quy định về 02 loại hợp đồng
làm việc:
- Đối với hợp đồng không xác định thời hạn hay còn là “chế độ biên chế
suốt đời” của viên chức sẽ khơng cịn được áp dụng với các đới tượng mới được
tuyển dụng từ ngày 01/7/2020. Như vậy, căn cứ khoản 2 Điều 2 (sửa đổi, bổ
sung Điều 25 Luật Viên chức năm 2010), việc thực hiện hợp đồng loại khơng
xác định thời hạn chỉ cịn được áp dụng với 03 trường hợp: Viên chức được
tuyển dụng trước ngày 01/7/2020; cán bộ, công chức chuyển thành viên chức;
người thực hiện tuyển dụng làm viên chức làm việc tại vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

- Đồng thời, đối với những viên chức mới trúng tuyển từ ngày 01/7/2020
thì đều phải ký hợp đồng làm việc xác định thời hạn với khoảng thời gian từ đủ
12 tháng đến 60 tháng. Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung quy định này hoàn toàn
phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về công
tác cán bộ. Tại Nghị quyết này, Bộ Chính trị nhấn mạnh sẽ tiến tới xóa bỏ hồn
tồn chế độ biên chế suốt đời với viên chức.


14

1.1.3. Khái niệm kỷ luật công chức, viên chức
Trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ tả khuynh của Lênin đã khẳng định: “Những
người Bơnsêvích sẽ khơng giữ vững được chính quyền, tơi khơng nói được tới
hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu Đảng
ta khơng có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thực sự.”
Về kỷ ḷt, Hồ Chí Minh cũng có quan điểm: “Sức mạnh vô địch của
Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ,
đảng viên”. Bác luôn khẳng định: kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là
nghiêm túc và tự giác” [26], ai ai cũng phải phục tùng kỷ ḷt và chịu các hình
thức kỷ ḷt nếu có khuyết điểm, sai lầm.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ
gìn kỷ luật Đảng, xử lý cán bộ đang tiếp tục đưởng Đảng ta kế thừa và thực
hiện một cách nghiêm túc. Trải qua nhiều giai đoạn cách mạng, qua nhiều kỳ
Đại hội, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định quan điểm về kỷ luật đảng, đó là: “Xử
lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công
chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng”, đồng
thời nhấn mạnh: “Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý cơng
minh, chính xác, kịp thời”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, kỷ luật được định nghĩa “là hình phạt đối với
người phạm luật”[30]. Lại có quan điểm cho rằng: “Kỷ luật dưới góc độ chung

nhất là tổng thể các quy định nhằm đảm bảo trật tự, nề nếp hoạt động nội bộ
của một cơ quan, tổ chức của Nhà nước và xã hội nói chung cũng như sự tuân
thủ nghiêm chỉnh các quy định đó” [30]; với định nghĩa này, kỷ ḷt được nhìn
dưới góc độ kỷ cương, văn hóa cơng vụ. Vì vậy, dưới góc độ pháp lý, kỷ luật
là những hậu quả bất lợi áp dụng đối với chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm
kỷ luật, vi phạm quy tắc hay nghĩa vụ trong hoạt động công vụ hoặc vi phạm
pháp luật theo quy định của pháp luật bị xử lý kỷ luật. Ở một định nghĩa khác,


15

kỷ luật là tổng thể nói chung những điều quy định cần phải tn theo để giữ gìn
trật tự; ví dụ như: kỷ luật nhà trường, kỷ luật lao động, …
Ngồi ra, kỷ ḷt cịn được coi là các hình thức phạt đối với người vi
phạm kỷ luật, tức là các hình thức kỷ ḷt mà CCVC phải chịu, ví dụ như: hình
thức kỷ luật cảnh cáo, khiển trách, buộc thôi việc… Hay kỷ luật là việc xử lý,
xử phạt theo tính chất và nội dung vi phạm các chế độ quy định, vi phạm pháp
luật của CCVC. Xử lý vi phạm kỷ luật đối với người làm việc trong cơ quan
nhà nước đề cập đến khía cạnh của kỷ luật hành chính, các vi phạm quy tắc,
quy chế hoạt động của cơ quan.
Từ những lập luận trên, có thể hiểu dưới góc độ chung nhất, kỷ luật
CCVC là tổng thể các quy định, yêu cầu về tính trách nhiệm đặt ra đối với
CCVC của bộ máy nhà nước trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ trên mỗi một
vị trí cơng tác của mình nhằm bảo vệ trật tự, nề nếp hoạt động nội bộ của mọi
cơ quan, tổ chức của Nhà nước và của xã hội, cũng như sự tuân thủ nghiêm
chỉnh của quy định đó.
1.2. Pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức

1.2.1. Khái niệm pháp luật về kỷ luật công chức, viên chức
CCVC trong cơ quan nhà nước là một nhóm chủ thể xã hội đặc thù, có

vị trí rất quan trọng, cùng với q trình xây dựng và phát triển đội ngũ CCVC,
các quy định pháp luật về kỷ luật CCVC cũng được ban hành với số lượng
tương đối. Pháp luật về kỷ luật CCVC là một bộ phận cấu thành của pháp luật
về cán bộ, CCVC. Ở cấp độ dưới luật, các quy phạm pháp luật về kỷ luật CCVC
được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp ở Nghị định của Chính phủ; Thông tư
của các Bộ trưởng; Quyết định ban hành Quy chế làm việc, đánh giá CCVC
của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
cấp.


16

Nhằm điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong quá trình và thực hiện hoạt
động cơng vụ của CCVC theo mục tiêu nhà nước đặt ra, nhà nước ta ban hành
rất nhiều các quy phạm pháp luật. Do các quan hệ này có quan hệ chặt chẽ với
nhau nên các quy phạm pháp luật điều chỉnh về kỷ luật CCVC có mới quan hệ
nội tại, mất thiết, tách rời nhau tạo thành một hệ thống thống nhất. Pháp luật về
kỷ luật CCVC chính là kết quả của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ
nảy sinh trong quá trình hình thành và thực hiện hoạt động cơng vụ của đội ngũ
CCVC.
Vì vậy, có thể hiểu: Pháp luật về kỷ luật CCVC là hệ thống các quy
phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất thể hiện dưới hình thức văn
bản quy phạm pháp luật, do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội nảy sinh trong quá trình hình thành và thực hiện hoạt động công vụ,
nhiệm vụ của CCVC nhằm xây dựng đội ngũ CCVC có đủ phẩm chất, năng lực,
trình độ đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Từ khái niệm trên, có thể thấy rằng kỷ luật CCVC là một lĩnh vực quan
trọng mà một nhà nước khi đã chọn pháp luật là cơng cụ để quản lý xã hội thì
tất ́u phải ban hành pháp luật để điều chỉnh nó. Trong giai đoạn hiện nay, kỷ
luật CCVC không những cần điều chỉnh bằng pháp ḷt mà cịn cần phải điều

chỉnh có hiệu quả để góp phần xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong
hoạt động điều hành.
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về kỷ luật CCVC
Pháp luật về kỷ luật CCVC là một bộ phận của pháp luật về quản lý, sử
dụng CCVC. Pháp luật về kỷ luật CCVC có những đặc điêm riêng do đặc trưng
của đối tượng CCVC và yếu tố Nhà nước chi phới. Pháp ḷt về kỷ ḷt CCVC
xét về mặt hình thức hay nội dung có những đặc điểm sau:


17

- Một là, pháp luật về kỷ luật CCVC có tính quyền lực nhà nước và mang
tính cưỡng chế nhà nước.
Khác với các tổ chức dân sự, tồn tại và hoạt động vì mục đích tự thân,
các cơ quan trong bộ máy Nhà nước tồn tại với những mục tiêu đã được cam
kết với người dân, phục vụ người dân được xem là trách nhiệm hàng đầu. Chính
vì điều này, Nhà nước cần phải có một cách hành xử khác đối với đội ngũ lao
động làm việc trong bộ máy của mình, điều này thể hiện trong pháp luật về chế
độ kỷ ḷt đới với CCVC. Đây có thể coi là bộ quy tắc xử sự bắt buộc đối với
những người được lựa chọn, tuyển dụng, bổ nhiệm vào các vị trí việc làm trong
các cơ quan Nhà nước. Những quy tắc xử sự này được xây dựng phải tính theo
sự cam kết của Nhà nước với người dân.
- Hai là, pháp luật về kỷ luật CCVC là lĩnh vực pháp luật liên ngành,
được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do nhiều chủ thể ban
hành trong đó chủ yếu là các QPPL thuộc ngành luật hành chính.
Các quy phạm pháp luật về kỷ luật CCVC được quy định trong các văn
bản QPPL như Hiến pháp năm 2013; Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật
Viên chức năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật
Viên chức năm 2019,… các Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và

các Thông tư, Qút định,.... Bên cạnh đó kỷ ḷt CCVC cịn chịu sự điều chỉnh
của các ngành luật khác như Luật Lao động về chế độ làm việc, bảo hiểm xã
hội; Bộ Ḷt Tớ tụng hình sự; Bộ Ḷt Tớ tụng dân sự; Luật Xử lý vi phạm
hành chính về các đối tượng vi phạm là CCVC.
Đặc điểm này của pháp luật về kỷ luật CCVC đòi hỏi khi xây dựng, hoàn
thiện pháp luật về kỷ luật CCVC cần phải phân định rành mạch thẩm quyền,
phạm vi của từng chủ thể khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đồng
thời phải tránh mâu thuẫn, chồng chéo, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của
lĩnh vực pháp luật này.


18

- Ba là, pháp luật về kỷ luật CCVC được tạo nên trên nền tảng của những
chuẩn mực đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của đất nước.
Đối với đới tượng CCVC, chú trọng chăm lo, giữ gìn chuẩn mực đạo đức
gia đình và xã hội là rất cần thiết và quan trọng bởi nếu khơng thì rất có thể sẽ
có những chuyện đau lịng xảy ra, thậm chí là vi phạm pháp luật. Thực tế cho
thấy, quan niệm sống gấp, sống hưởng thụ, thiếu trách nhiệm và đạo đức đã
khiến hạnh phúc của khơng ít gia đình, kể cả gia đình cán bộ, đảng viên,
CCVC... bị lung lay, tan vỡ. Minh chứng là, trong nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng, đã có hơn 87.000 đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật mà trong đó rất
nhiều người là do vi phạm thuần phong mỹ tục, chuẩn mực đạo đức gia đình và
xã hội[11]. Càng đáng báo động hơn là một số cán bộ, đảng viên đã sống buông
thả, vi phạm luật pháp về hôn nhân và gia đình; chỉ từ đầu năm 2021 đến nay,
đã có hàng chục vụ việc quan hệ bất chính liên quan đến cán bộ, đảng viên bị
đưa ra ánh sáng.
Trên thực tế, Nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp khác nhau nhằm
thể chế hóa các chuẩn mực đạo đức thành các quy định pháp luật hướng tới
việc xây dựng đội ngũ CCVC có phẩm chất và năng lực, đáp ứng được yêu cầu

của xã hội trong các giai đoạn phát triển. Nhằm tiến tới xây dựng đội ngũ CCVC
ngày một chuẩn hóa, có phẩm chất đạo đức, kỷ luật vững vàng, Nhà nước đã
không ngừng nghiên cứu các quy phạm pháp luật về kỷ luật tạo hành lang pháp
lý và khung pháp lý chung cho mỗi CCVC rèn luyện, thực hiện.
1.2.3. Vai trị của pháp luật về kỷ luật cơng chức, viên chức
- Một là, pháp luật về kỷ luật CCVC thể chế hóa quan điểm, chủ trương
của Đảng về xây dựng đội ngũ CCVC đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Xuất phát từ quan điểm cán bộ là nhân tố quyết định thành công hay thất
bại của sự nghiệp cách mạng, “là cái gốc của mọi việc”[26], Đảng và Nhà nước


19

ta luôn luôn chăm lo, xây dựng đội ngũ CCVC gắn với yêu cầu, nhiệm vụ chính
trị trong từng giai đoạn cách mạng. Đại hội Đảng tồn q́c lần thứ XI xác định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng u cầu
của tình hình mới. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền
hạn của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính cơng khai, minh bạch, trách
nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức
cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực cơng tác; có chính sách
đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, cơng chức hồn thành nhiệm vụ và
có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người khơng hồn thành nhiệm vụ, vi phạm
kỷ luật, mất uy tín với Nhân dân[21].
Chính vì vậy Đảng ta hết sức quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ CCVC
có đủ đức, đủ tài để phụng sự Tổ quốc, phụng sự Nhân dân. Quan điểm về xây
dựng cán bộ, CCVC nhất quán và có những bước phát triển qua từng giai đoạn
cách mạng của đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Cơng tác
cán bộ có nhiều đổi mới, đội ngũ cán bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn u cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới. Cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được

tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng được siết chặt, pháp luật Nhà nước được đề cao”. Đây là một trong những
kết quả tích cực của việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về
công tác cán bộ trong thời gian qua, trong đó cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ,
tăng cường kỷ cương, kỷ luật được Đảng hết sức chú trọng.
- Hai là, pháp luật về kỷ luật CCVC là một phương tiện quan trọng trong
tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ
CCVC.
Quản lý nhà nước là lĩnh vực có quy mơ và phạm vi hoạt động rất rộng,
bao gồm nhiều mối quan hệ cần điều chỉnh, trong đó quan hệ nhân sự là một
trong những vấn đề quan trọng. Pháp luật về quản lý CCVC là tổng hợp các


×