Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Một số câu hỏi ôn tập và đáp án môn đường lối cách mạng của ĐCSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.59 KB, 41 trang )

MADE BY ISA.NZ
ĐỀ CƯƠNG:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hãy chứng minh rằng, tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẫn của xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tồn tại ngay chính trong lòng xã hội Việt Nam?
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào giai đoạn đen tối dưới sự áp bức,
bóc lột dã man của thực dân Pháp. Năm 1858, thực dân Pháp nổ sung tấn công xâm lược Việt
Nam. Sauk hi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp
từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam:
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân,
xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, hình thành nên các giai cấp mới, đặc biệt
là giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội lúc này đều
mang thân phận người dân mất nước, và ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp
bức, bóc lột. Bởi lẽ đó, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẩn vừa cơ bản, vừa chủ
yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẩn giữa toàn thể nhân dân
Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
1
Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Chính trị
Kinh tế
Kinh tế
Văn hóa – xã
hội
Văn hóa – xã
hội
Chuyên chế triệt để Bóc lột nặng nề Nô dịch, ngu đần
MADE BY ISA.NZ
cũ mới
Tính chất xã hội Việt Nam lúc này bị thay đổi và trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai yêu cầu:


- Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập và tự do. Đây là nhiệm vụ hàng
đầu của dân tộc.
- Xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất
cho nông dân.
Tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẩn của xã hội Việt Nam giai đoạn này tồn tại
ngay chính trong long xã hội Việt Nam.
Xét về phương diện tiền đề thực tiễn:
- Xu thế vùng lên của dân tộc chống thực dân Pháp.
- Những phong trào yêu nước nổ ra.
- Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước theo con đường Cách mạng Vô sản và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
(ý 3 tham khảo trong “Hỏi – đáp môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt
Nam, câu 4, trang16)
Chính những mâu thuẩn nảy sinh trong xã hội đã thổi bùng lên xu thế giải phóng dân
tộc, chống lại sự áp bức của thực dân Pháp. Phải kể tới chính là là phong trào yêu nước theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản. Tiêu biểu như phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc
khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang 1884) Nhưng kết cục chung của các phong trào, khởi nghĩa
này đều là thất bại, chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều
kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Song song còn có phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Về phương pháp có sự phân hóa thành hai xu hướng:
biện pháp bạo động (đại diện là Phan Bội Châu) và biện pháp cải cách (nổi bật là Phan Châu
Trinh). Cũng trong thời gian này, các tổ chức đảng phái ra đời như: Tân Việt cách mạng
Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi nhưng do
hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập trung được
2
MADE BY ISA.NZ
rộng rãi lực lượng của dân tộc (nhất là hai lực lượng xã hội cơ bản: công nhân và nông dân)
nên cuối cùng đã không thành công. Mặc dù vậy, chính những thất bại này đã thức tỉnh lòng
yêu nước của cả dân tộc đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm quý giá.

Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường giải phóng dân tộc. Đặc biệt tháng 7 – 1920, Nguyễn
Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn dề dân tộc và vấn đề thuộc
địa cả Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Đến tháng 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. Từ đây, Người trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho
việc thành lập Đảng. Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam thong qua
những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân cùng một số tác
phẩm (tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp – 1925). Tháng 6 – 1925, thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên. 1927, xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh, chỉ rõ tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam
Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống
đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản nhưng cả ba tổ chức này đều hoạt động
phân tán, chia rẽ, ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Trước tình
hình đó, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại
Hương Cảng, Trung Quyết và thống nhất: hợp nhất ba tổ chức thành một đảng duy nhất –
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc khủng hoảng lãnh đạo được chấm dứt, Cách mạng Việt Nam
trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới và đồng thời đây cũng là cơ sở cho những sự
nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam.
Về tiền đề lí luận, Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào Việt Nam những lí luận Cách mạng
phong trào giải phóng dân tộc góp phần vào sự phát triển của Cách mạng vô sản. Sự ra đời
của bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã định hướng đúng đắn cho đường lối lãnh
đạo của Đảng.
Phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, trong nước những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tác động trực tiếp đến sự ra đời của ĐCSVN?
Tình hình thế giới:
3
MADE BY ISA.NZ
Từ cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc

quyền (đế quốc chủ nghĩa). Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân
dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị
tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng
cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ,
chủ nghĩa Mác ra đời và được phát triển thành chủ nghĩa Mác-Lenin, một hệ thống lý luận
khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản. Trong đó chỉ rõ tính tất yếu của việc lập ra đảng cộng sản nhằm định
hướng, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm giành lại chính quyền, xây
dựng xã hội mới. Đồng thời, Đảng cũng là đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao
động. Chủ nghĩa Mác-Lenin đã lay chuyển, lôi cuốn quần chúng nhân dân và cả những phần
tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào phong trào cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng
lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác-Lenin là nền tảng tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi, cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước, và là một trong những động lực
thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định, Cách mạng Tháng
Mười Nga như tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay. Cách
mạng Nga cũng chỉ rõ vị trí nền tảng quan trọng của nhân dân (công nông). Tháng 3 – 1919,
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan
trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4
MADE BY ISA.NZ
Hoàn cảnh trong nước:
Vào giữa thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đến cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ
bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành kế hoạch bóc lột
sức người, sức của ở Việt Nam.

Về kinh tế, nền kinh tế nước ta ngày càng lạc hậu, què quặt, hoàn toàn lệ thuộc vào nền
kinh tế Pháp. Về xã hội, sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt
them các mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam, vừa làm nảy sinh mâu thuẫn mới.
Chưa kể đến, kết cấu giai cấp cũ bị phá vỡ, hình thành thêm các giai cấp mới. Tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặc biệt các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu
đấu tranh để tự giải phóng. Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết của
nhân dân ta, là nhu cầu bức thiết của dân tộc ta. Sự ra đời của Đảng là kết quả của một quá
trình lựa chọn con đường cứu nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
- Từ sự phân tích vị trí kinh tế - xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy
chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp đảm nhiệm được sứ mệnh lãnh đạo cách mạng
đến thắng lợi cuối cùng. Đó là một yêu cầu khách quan. Giai cấp công nhân là giai
cấp trung tâm của thời đại mới, đại diện cho quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp,
bởi vì “trong tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”.
- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở thành
một phong trào tự giác, nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin,
vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thành công thì phải được tổ chức thành
một chính đảng cách mạng tiên phong. Chỉ lúc đó giai cấp công nhân mới có khả
năng tập hợp được các lực lượng dân tộc và dân chủ.
- Sự thành lập Đảng Cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ
tự phát đến tự giác khi nó được trang bị lý luận cách mạng chủ nghĩa Mác-Lenin.
5
Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Chính trị
Kinh tế
Kinh tế
Văn hóa – xã

hội
Văn hóa – xã
hội
Chuyên chế triệt để Bóc lột nặng nề Nô dịch, ngu đần
MADE BY ISA.NZ
- Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, nhiều chiến sỹ yêu nước đã đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Ái
Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin và con đường giải
phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc thực hiện công việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang tính chất phổ biến vừa mang
tính chất đặc thù. Tính phổ biến là tuân thủ quy luật chung về sự ra đời của các đảng
cộng sản và công nhân quốc tế - đó là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với
phong trào công nhân. Tính đặc thù đó là có them yếu tố cấu thành là phong trào yêu
nước. Bởi lẽ chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam là một động lực lớn. Thực tiễn
ở Việt Nam lúc này có hai phong trào cùng tồn tại và thúc đẩy nhau, đó là phong trào
công nhân. Cả hai phong trào này đều có kẻ thù chung là đế quốc Pháp xâm lược và
bọn tay sai bán nước, cùng mục tiêu đấu tranh cho độc lập tự do và hạnh phúc của
nhân dân. Mặt khác, phong trào yêu nước Việt Nam đấu tranh theo ngọn cờ tư tưởng
phong kiến và dân chủ tư sản đều thất bại, vì thế họ khát khao một lý luận cách mạng
soi sáng con đường đấu tranh của mình. Nguyễn Ái Quốc là người phát hiện ra đòi
hỏi đó và đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào phong trào yêu nước làm
chuyển hóa lập trường các chiến sỹ yêu nước gắn chặt con đường cứu nước giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp theo quỹ đạo cách mạng vô sản, gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển biến đó đã tạo tiền đề vững chắc cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào yêu nước phát triển. Các phong trào từ năm 1925 đến năm 1929
chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng chính

trị độc lập. Tình hình khách quan đó, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của tổ chức đảng
cách mạng tiên phong.
- Sự phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hình thành các tổ chức cộng
sản, là sự kiện chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của sự phát
triển phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối những năm
20 của thế kỷ XX.
- Ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào
cách mạng. Việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất là một tất
yêu khách quan.
Từ 6/1 đến 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành. Hội nghị đã thống nhất
các tổ chức cộng sản thành một Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phân tích những bước ngoặt quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc (1911-1920)? Tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn
Ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản?
6
MADE BY ISA.NZ
Có thể đánh giá rằng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911 –
1920), có ba bước ngoặt quan trọng nhất. Một là, Người đã nhận ra hạn chế trong đường lối
cứu nước của những thế hệ trước. Các phong trào theo khuynh hướng phong kiến mặc dù
diễn ra sôi nổi song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để
lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam. Còn các
phong trào yêu nước và các tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản đều thất bại do
hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập trung được
rộng rãi lực lượng của dân tộc (nhất là hai lực lượng xã hội cơ bản: công nhân và nông dân).
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần những hạn chế của những cuộc cách mạng tư sản
không tới nơi, không triệt để. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền
con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng
Pháp (1789) nhưng cũng nhận thức do những mặt tiêu cực của các cuộc cách mạng tư sản:

một mặt tạo nêu cao sự tự do, bình đẳng nhưng lại ra sức bóc lột, áp bức nhân dân các nước
thuộc địa. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại
độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung hay nhân dân Việt Nam nói
riêng.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát lựa chọn con đường giải phóng nước là con đường
cách mạng vô sản. Qua phân tích, Người nhận thấy “Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật”. Vào tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin đăng trên báo Nhân
đạo. Người tìm thấy trong Luận cương của Lenin lời giải đáp về con đường giải phóng cho
nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế
giới Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu nước trở
thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Những bước ngoặt trong quá trình ra đi tìm được cứu nước của Nguyễn Ái Quốc cũng
là những mốc đánh dấu quá trình nhận thức ra con đường giải phóng dân tộc – con đường
cách mạng vô sản.
Phân tích hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc được
hình thành trong những năm 1920 – 1930? Trên cơ sở đó, chỉ rõ những đóng góp của Nguyễn
Ái Quốc cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin?
7
MADE BY ISA.NZ
Quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện rõ nét
qua các tác phẩm của Người trong giai đoạn này.
Nguyễn Ái Quốc bắt đầu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam thông qua
những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và xuất bản
một số tác phẩm, tiêu biểu như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Tác phẩm này đã vạch
rõ âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc che giấu tội ác dưới cái vỏ bọc “khai hóa văn

minh”, từ đó khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm
Đường cách mệnh (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đường cách mệnh chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người, do đó phải đoàn kết
toàn dân. Nhưng cái cốt của nó là công – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công nông là người
chủ cách mệnh, công nông là gốc cách mệnh.
Đặc biệt, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện rõ nét nhất trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng. Nội dung chính của Cương lĩnh bao gồm:
- Phương hướng và mục tiêu của cách mạng Việt Nam: chủ trương làm “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công
nông.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng
đất của bọn đế quôc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho
dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
- Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp,
các lực lượng tiến bộ, các cá nhân yêu nước, trước hết là công nông. Đảng phải thu
phục cho được công nông và làm cho giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách mạng,
đồng thời phải tranh thủ liên lạc với các tầng lớp: tiểu tư sản, trí thức, trung nông để
kéo họ về phía vô sản giai cấp. Lợi dụng bộ phận phú nông, trung tiểu địa chủ và tư
bản Việt Nam chưa rõ bộ mặt phản cách mạng. Bộ phận nào rõ mặt phản cách mạng
phải đánh đổ. Trong khi thực hiện sự liên minh tạm thời với các giai cấp, tầng lớp
khác không được thỏa hiệp giai cấp.

8
MADE BY ISA.NZ
- Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô
sản thế giới.
- Về Đảng: Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Những nội dung trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn
đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng
Việt Nam. Tinh thần cơ bản của nó là đoàn kết toàn dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành
độc lập, hướng tới xã hội cộng sản. Thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,
Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự hiểu biết sau sắc tình hình thế giới, hoàn cảnh trong nước,
bản chất các mâu thuẫn và đặc biệt là con đường giải phóng dân tộc.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng (1920-1930)?
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn, Cách mạng vô sản, tiền đề
đầu tiên dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua phân tích, Người nhận thấy
“Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi,
nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Vào tháng 7 – 1920,
Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong Luận cương của Lenin lời
giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối
quan hệ với phong trào cách mạng thế giới Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12 –
1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”.
Chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng; tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Về tư tưởng, chính trị: Người tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân
các nước thuộc địa. Người đã viết rất nhiều bài báo, các tác phẩm. Nội dung chủ yếu là lên án

chủ nghĩa thực dân, vạch trần bản chất xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của
chúng. Người tố cáo đanh thép trước thế giới và nhân dân Pháp đối với các thuộc địa và thức
tỉnh lòng yêu nước, ý chí phản kháng của các dân tộc thuộc địa. Tiêu biểu: Bản án chế độ
thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927) Thông qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã truyền
bá vào Việt Nam chủ nghĩa Mác-Lenin, hướng cho các phong trào giải phóng dân tộc theo
cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về chuẩn bị tổ chức, Nam
9
MADE BY ISA.NZ
1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng ở các nước thuộc địa Pháp lập ra Hội
Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa thực dân. 1924,
Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, Trung Quốc, Người đã cùng những nhà lãnh đạo cách
mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inddooneexxia thành lập Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bắc Á Đông. Tháng 6 – 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên để huấn luyện cán bộ trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào phong
trào công nhân, phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, đồng thời trực tiếp biên soạn những văn kiện quan trọng liên quan tới
đại hội: nổi bật là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Những nội dung trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến
lược đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam. Tinh thần cơ bản của nó là đoàn
kết toàn dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành độc lập, hướng tới xã hội cộng sản.
Làm rõ nét độc đáo, tính sáng tạo của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930)?
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc biên soạn và được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 chính là Luận cương chính trị
đầu tiên của Đảng. Nội dung chính bao gồm:
- Phương hướng và mục tiêu của cách mạng Việt Nam: chủ trương làm “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt

Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công
nông.
Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu ruộng
đất của bọn đế quôc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho
dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
- Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp,
các lực lượng tiến bộ, các cá nhân yêu nước, trước hết là công nông. Đảng phải thu
phục cho được công nông và làm cho giai cấp công nhân đủ sức lãnh đạo cách mạng,
đồng thời phải tranh thủ liên lạc với các tầng lớp: tiểu tư sản, trí thức, trung nông để
kéo họ về phía vô sản giai cấp. Lợi dụng bộ phận phú nông, trung tiểu địa chủ và tư
bản Việt Nam chưa rõ bộ mặt phản cách mạng. Bộ phận nào rõ mặt phản cách mạng
10
MADE BY ISA.NZ
phải đánh đổ. Trong khi thực hiện sự liên minh tạm thời với các giai cấp, tầng lớp
khác không được thỏa hiệp giai cấp.
- Về đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô
sản thế giới.
- Về Đảng: Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Những nội dung trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn
đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển cách mạng
Việt Nam. Tinh thần cơ bản của nó là đoàn kết toàn dân, chống đế quốc Pháp thống trị, giành
độc lập, hướng tới xã hội cộng sản.
Phân tích quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
- Từ sự phân tích vị trí kinh tế - xã hội của các giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy
chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp đảm nhiệm được sứ mệnh lãnh đạo cách mạng

đến thắng lợi cuối cùng. Đó là một yêu cầu khách quan. Giai cấp công nhân là giai
cấp trung tâm của thời đại mới, đại diện cho quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp,
bởi vì “trong tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng”.
- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là quá trình lịch sử tự nhiên. Muốn trở thành
một phong trào tự giác, nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin,
vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng thành công thì phải được tổ chức thành
một chính đảng cách mạng tiên phong. Chỉ lúc đó giai cấp công nhân mới có khả
năng tập hợp được các lực lượng dân tộc và dân chủ.
- Sự thành lập Đảng Cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ
tự phát đến tự giác khi nó được trang bị lý luận cách mạng chủ nghĩa Mác-Lenin.
- Ở Việt Nam, trong quá trình phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, nhiều chiến sỹ yêu nước đã đi tìm đường cứu nước, nhưng chỉ có Nguyễn Ái
Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lenin và con đường giải
phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc thực hiện công việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang tính chất phổ biến vừa mang
tính chất đặc thù. Tính phổ biến là tuân thủ quy luật chung về sự ra đời của các đảng
cộng sản và công nhân quốc tế - đó là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với
phong trào công nhân. Tính đặc thù đó là có them yếu tố cấu thành là phong trào yêu
nước. Bởi lẽ chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam là một động lực lớn. Thực tiễn
ở Việt Nam lúc này có hai phong trào cùng tồn tại và thúc đẩy nhau, đó là phong trào
công nhân. Cả hai phong trào này đều có kẻ thù chung là đế quốc Pháp xâm lược và
11
MADE BY ISA.NZ
bọn tay sai bán nước, cùng mục tiêu đấu tranh cho độc lập tự do và hạnh phúc của
nhân dân. Mặt khác, phong trào yêu nước Việt Nam đấu tranh theo ngọn cờ tư tưởng
phong kiến và dân chủ tư sản đều thất bại, vì thế họ khát khao một lý luận cách mạng

soi sáng con đường đấu tranh của mình. Nguyễn Ái Quốc là người phát hiện ra đòi
hỏi đó và đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào phong trào yêu nước làm
chuyển hóa lập trường các chiến sỹ yêu nước gắn chặt con đường cứu nước giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp theo quỹ đạo cách mạng vô sản, gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự chuyển biến đó đã tạo tiền đề vững chắc cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào yêu nước phát triển. Các phong trào từ năm 1925 đến năm 1929
chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và đang trở thành một lực lượng chính
trị độc lập. Tình hình khách quan đó, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của tổ chức đảng
cách mạng tiên phong.
- Sự phân hóa của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hình thành các tổ chức cộng
sản, là sự kiện chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của sự phát
triển phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam vào cuối những năm
20 của thế kỷ XX.
- Ba tổ chức cộng sản ra đời (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào
cách mạng. Việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất là một tất
yêu khách quan.
Từ 6/1 đến 7/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành. Hội nghị đã thống nhất
các tổ chức cộng sản thành một Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phân tích quá trình Đảng CSVN nhận thức về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ trong thời kỳ cách mạng 1930 – 1939? Nhận thức đó có ảnh hưởng như thế nào đến quan
điểm Đảng về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng những năm 1930 – 1939?
Giai đoạn 1930 – 1935:
Sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc
và dân chủ trong giai đoạn 1930 – 1935 được thể hiện rõ nét nhất trong Luận cương chính trị.
Tháng 10 – 1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất tại Hương Cảng,
Trung Quốc đã họp và thông qua bản “Luận Cương chính trị” do đồng chí Trần Phú khởi

thảo với những nội dung chính sau:
- Xác định mâu thuẫn: ở Đông Dương, mâu thuẫn giữa một bên là thợ thuyền, dân cày,
các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến và tư bản đế quốc.
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu cách mạng Đông
Dương là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế,
“tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách
12
MADE BY ISA.NZ
mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
- Nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng
ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít. Trong hai nhiệm vụ
này, Luận cương xác định: “vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền”.
- Về lực lượng cách mạng: giai cấp vô sản và giai cấp nông dân là hai động lực chính,
trong đó, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng.
- Về phương pháp cách mạng: Luận cương chỉ rõ phải sử dụng bạo lực cách mạng, khởi
nghĩa vũ trang để giành chính quyền.
- Về đoàn kết quốc tế: Luận cương nhấn mạnh, phải liên lạc mật thiết với vô sản thế
giới, nhất là vô sản Pháp.
- Về Đảng: sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi của cách
mạng. Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng, có đường lối chính trị
đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, trưởng thành từ trong
thực tiễn đấu tranh.
Giai đoạn 1936 – 1939:
Trên thế giới, mấp mé nguy cơ chiến tranh của chủ nghĩa phát xít. Cuộc khủng hoảng
kinh tế trong những năm 1929 – 1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho
mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần
chúng dâng cao. Các nước tư bản công nghiệp âm mưu chiến tranh để chia lại thị trường thế

giới và mưu đồ tiêu diệt Liên Xô nhằm hy vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang
phát triển mạnh mẽ. Trong lúc đó cuộc khủng kinh tế tác động sâu sắc không những tới đời
sống các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động mà còn đến cả những nhà tư sản, địa chủ
hàng vừa và nhỏ. Bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp
nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu của
nhân dân ta. Tất cả dẫn tới lòng căm thù sục sôi của toàn thể nhân dân ta.
Ở giai đoạn này, Đảng ta có những nhận thức mới được thể hiện rõ nét nhất ở Hội nghị
Trung Ương II (7-1936). Nội dung của Hội nghị gồm:
- Kẻ thù cả cách mạng: kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần
tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
- Nhiệm vụ trước mắt: đòi những quyền dân chủ đơn sơ. Chống phat-xit, chống chiến
tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo
và hòa bình.
- Biện pháp đấu tranh: chuyển từ hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các
hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp
nhằm buộc chính quyền Pháp phải thừa nhận và mở rộng sự quan hệ với quần chúng.
13
MADE BY ISA.NZ
- Tổ chức: Quyết định thành lập Mặt trân nhân dân phản đế mà sau được đổi tên thành
Mặt trận dân chủ Đông Dương để phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng
trong tình hình mới.
Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực hiện các
quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông
Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố 10 – 1936, Đảng đã nêu
một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách
mạng điền địa. Tùy hoàn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp
cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt
buộc, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa.
Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp

cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là, cuộc phản đế phát triển tới
trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời, vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống
đế quốc, cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh
đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn
mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng
của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.
Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc của Đảng (1939-1941)? Tại sao
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước của Đảng Cộng sản Việt Nam
tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) lại trở thành một trong những động lực thúc đẩy công
cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi?
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó thì phat-xit Đức hoành
hành, chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô
làm trụ cột với các lực lượng phat-xit do Đức cầm đầu. Chiến tranh thế giới II cũng ảnh
hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành chính sách
thời chiến rất trắng trợn, ra sức đàn áp ở Việt Nam. Nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng
áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phat-xit Pháp – Nhật
trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần
thứ sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ
sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình
cụ ở trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
như sau:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta
đòi hỏi phải giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phat-xit Pháp
– Nhật. Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung
ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay
14
MADE BY ISA.NZ
bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “Chia

lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách
mạng nhằm vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi,
đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương
thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu
chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ,
lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng
cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán
bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động
quần chúng.
Có thể thấy, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã khởi xướng cho đường lối giải phóng
dân tộc. Đường lối được bổ sung và phát triển qua Hội nghị lần thứ bảy, sau đó, được hoàn
thiện nhờ Hội nghị lần thứ tám. Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng
suốt, nhạy bén của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông
Dương, có khả năng phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự
nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định
đường lối chính trị, trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa
hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là
sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải
phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng
của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự hoàn thiện
đường lối ở Hội nghị lần thứ tám, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong
trào dân tộc, trực tiếp quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Lòng yêu nước, căm
thù giặc ngoại xâm của nhân dân nâng cao, chủ trương lấy sức ta tự giải phóng cho ta. Có thể
nói, Hội nghị Tám là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc giải phóng

dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi.
Hãy chứng minh rằng, đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930-1945) là sáng tạo, phù hợp và đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam?
Giai đoạn 1 (1930-1935):
Từ ngày 14 đến 31 – 10 – 1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất
tại Hương Cảng, Trung Quốc do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị thông qua nhiều quyết
định quan trọng như phê duyệt Luận cương chính trị của Đảng. Tuy Luận cương đã phát triển
và làm rõ thêm nhiều vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam song còn tồn tại nhiều hạn
15
MADE BY ISA.NZ
chế: xác định chủ trương không đúng trong hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ (trước hết tiến
hành cuộc chiến tranh giai cấp, chống địa chủ phong kiến, chia đất, tranh thủ nông dân, sau
đó mới tiến lên lãnh đạo toàn dân tộc chống đế quốc, giành độc lập), đánh giá thấp mặt tích
cực, cường điệu mặt tiêu cực của các giai cấp tầng trung gian (tư sản, tiểu tư sản).
Giai đoạn 2 (1936-1939):
Trong những năm 1936-1939, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi. Trước
nguy cơ đe doạn của chủ nghĩa phat-xit, Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách
mạng Đông Dương đã hồi phục. Qua văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” của
Đảng (11-1936) và các Hội nghị Trung ương tiếp sau, Đảng chủ trương chuyển hướng về
nhiệm vụ chính trị, hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh cho thích hợp với tình hình
mới.Nhiệm vụ phản đế và điền địa vẫ không thay đổi, nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp.
Trước mắt phải tập trung chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, cơm áo, hòa bình,
dự bị những điều kiện cho cuộc giải phóng dân tộc phát triển. Chuyển tất cả các hình thức tổ
chức “đỏ” mang màu chính trị sang các tổ chức “tương tế”, “ái hữu” mang mầu sắc kinh tế;
tận dụng tất cả các hình thức công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp để tập hợp
quần chúng và đấu tranh. Bên cạnh đó vẫ duy trì tổ chức và hoạt động bí mật.
Đảng bước đầu điều chỉnh nhận thức về giải quyết quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến
lược dân tộc, dân chủ, cho rằng việc giải quyết hai nhiệm vụ này thế nào là tùy điều kiện cụ
thể.
Giai đoạn 3 (1939-1945):

Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam. Dân ta rơi vào
hoàn cảnh một cổ hai tròng của Nhật – Pháp, mâu thuẫn dân tộc sâu sắc hơn bao giờ hết.
Những biến động này là cơ sở khách quan để Đảng Cộng sản Đông Dương từng bước điều
chỉnh chiến lược. Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành họp Hội nghị lần thứ sáu (11-
1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Qua đó khởi xướng,
bổ sung, phát triển và hoàn thiện Đường lối giải phóng dân tộc, nền tảng, động lực cho thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám cũng như sự nghiệp cứu Quốc ở Đông Dương.
Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng,
đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương, có khả năng phát
huy cao độ tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi
Nhật, giành độc lập tự do.
Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định
đường lối chính trị, trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa
hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là
sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải
phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng
của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Từ trên cơ sở thực tế hoàn cảnh đất nước cùng quá trình nhận thức đúng đắn của Đảng,
Đường lối giải phóng dân tộc là yêu cầu khách quan của thực tiễn. Đường lối đã được hoàn
thiện và vận dụng sáng tạo, phù hợp, đúng đắn trong từng giai đoạn lịch sử và trở thành yếu
tố cơ bản dẫn tới thắng lợi lớn sau này.
16
MADE BY ISA.NZ
Phân tích quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1939-1941)? Ý nghĩa của đường lối đối với cách mạng Việt Nam trong những
năm 1939-1945?
Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó thì phat-xit Đức hoành
hành, chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô
làm trụ cột với các lực lượng phat-xit do Đức cầm đầu. Chiến tranh thế giới II cũng ảnh

hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành chính sách
thời chiến rất trắng trợn, ra sức đàn áp ở Việt Nam. Nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng
áp bức, bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phat-xit Pháp – Nhật
trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần
thứ sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941). Trên cơ
sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình
cụ ở trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
như sau:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta
đòi hỏi phải giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phat-xit Pháp
– Nhật. Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung
ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay
bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “Chia
lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách
mạng nhằm vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi,
đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương
thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu
chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ,
lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng
cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán
bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động
quần chúng.
Có thể thấy, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã khởi xướng cho đường lối giải phóng
dân tộc. Đường lối được bổ sung và phát triển qua Hội nghị lần thứ bảy, sau đó, được hoàn
thiện nhờ Hội nghị lần thứ tám. Sự điều chỉnh chiến lược phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng

suốt, nhạy bén của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông
Dương, có khả năng phát huy cao độ tiềm năng, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự
nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do.
17
MADE BY ISA.NZ
Đường lối đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định
đường lối chính trị, trong đó mối quan hệ phức tạp nhưng cơ bản nhất lúc này là quan hệ giữa
hai nhiệm vụ dân tộc, dân chủ đã được nhận thức và giải quyết hoàn toàn thỏa đáng. Đây là
sự khẳng định, kế thừa, phát triển lên một bước mới tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải
phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác lập và trở thành ngọn cờ tư tưởng
của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Sự điều chỉnh chiến lược cách mạng đúng đắn của Đảng, đặc biệt là sự hoàn thiện
đường lối ở Hội nghị lần thứ tám, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong
trào dân tộc, trực tiếp quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Lòng yêu nước, căm
thù giặc ngoại xâm của nhân dân nâng cao, chủ trương lấy sức ta tự giải phóng cho ta. Có thể
nói, Hội nghị Tám là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc giải phóng
dân tộc trên bán đảo Đông Dương đi tới thắng lợi.
Hãy chứng minh rằng quá trình bổ sung, điều chỉnh đường lối đấu tranh giành chính quyền
trong những năm 1941-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng?
Để bổ sung, điều chỉnh cho đường lối đấu tranh giành chính quyền, Đảng đã chuẩn bị
kĩ càng trên các mặt:
Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa
phương trong cả nước, đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng
vùng lên đấu tranh giành chính quyền.
Vào cuối 1944, đầu 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
Hồng quân Liễn Xô thắng lớn, quét sạch phat-xit Đức ra khỏi lãnh thổ và tiến như vũ bão về
Becslin. Phat-xit Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn Nhật – Pháp ngày càng gay
gắt. Đêm 9 – 3 – 1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”.

Chỉ thị nhận định: Nhật đảo chính Pháp đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu
sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi.
18
MADE BY ISA.NZ
Chỉ thị xác định: phap-xit Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù trước mắt duy nhất của nhân dân
Đông Dương.
Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho
cuộc Tổng khởi nghĩa.
Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng
căn cứ địa.
Dự kiến những điều kiện thuận lợi như Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật,
quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng
Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị
mất nước và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Từ giữa 3 – 1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và
phong phú về nội dung và hình thức. Khởi nghĩa từng phần được đẩy mạnh, giành chính
quyền bộ phận như ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ngãi
Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ và
nhận định: nhiệm vụ quân sự là nhiệm vụ quan trọng nhất và cần kíp trong lúc này. Chúng ta
phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị cho
cuộc tổng khởi nghĩa kịp thời cơ.
4 – 6 – 1945, thành lập khu giải phóng, chính quyền nhân dân đã hình thành ở một số
nơi và tồn tại song song với chính quyền tay sai của Nhật.
Giữa lúc đó nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do
Nhật, Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Xuất phát từ tình thế nguy cấp đó,
Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, đáp ứng đúng nguyện vọng
cấp bách của quần chúng. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng triệu người dân tiến lên trận
tuyến cách mạng. Việt Nam giải phóng quân được thành lập.
Trên thế giới, Liên Xô chiến thắng, phat-xit đi gần đến thất bại hoàn toàn. Trước diễn
biến nhanh của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày

13 đến ngày 15 – 8 – 1945. Nhận định: cơ hội rất tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới
và quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền từ tay phat-xit Nhật và
tay sai, trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
Hội nghị chỉ rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là “Phản đối xâm lược”, “Hoàn toàn độc
lập”, “Chính quyền nhân dân”. Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống
nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không để thành phố hay nông
thôn, quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch Về đối nội, lấy
10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối
ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn
giữa Pháp – Anh và Mỹ - Tưởng
Một số mốc phát triển của Cách mạng Tháng Tám:
13 – 8 – 1945, ra lệnh Tổng khởi nghĩa.
19
MADE BY ISA.NZ
16 – 8, Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam được thành lập.
19 – 8, quân Nhật ở Hà Nội bị tê liệt, chính quyền về tay nhân dân.
23 – 8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế.
53 – 8, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn.
Từ ngày 14 đến ngày 28 – 8, Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước, chính quyền về
tay nhân dân.
Ngày 2 – 9, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào, với toàn thể thế giới: Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Đảng đã có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết
thống nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, biết tạo nên sức mạnh tổng hợp
để áp đảo kẻ thù và quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố then chốt, quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tam 1945.
Hãy chứng minh rằng chủ trương Kháng chiến, kiến quốc của Đảng những năm 1945-1946 là
tư tưởng chiến lược mới, giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược,
sách lược của cách mạng Việt Nam?

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời,
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta dứng trước bối cảnh vừa có những
thuận lwoij cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
Thuận lợi cơ bản là trên thế giới, hệ thống XHCN do Liên Xô đứng dầu được hình
thành, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng
thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước,
chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Lực
lượng vũ trang được tăng cường. Toàn dân tin tưởng Việt Minh cũng như Chính phủ.
Khó khăn nghiêm trọng là hậu quả của chế độ cũ để lại như giặc đói, giặc dốt rất nặng
nề, ngân quỹ quốc gia trống rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước còn non yếu, nền độc lập
của nước ta chưa được thế giới công nhận. Quân đội các nước đế quốc ồ ạt kéo vào chiếm
đóng Việt Nam.
Ngày 25 – 11 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến
quốc”, vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Về chỉ đạo chiến lược, xác định mục tiêu vẫn là dân tộc giải phóng với khẩu hiệu “Dân
tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, nhưng là giữ vững độc lập.
Đảng chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược”, phải lập Mặt trận
dân tộc thống nhất chống Pháp, mở rộng Mặt trận Việt Minh
20
MADE BY ISA.NZ
Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách: “củng cố chính quyền, chống thực
dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”. Đồng thời cũng chủ
trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện “Hoa-Việt thân thiện” và “Độc lập về
chính trị, nhân nhượng về kinh tế”.
Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc diễn ra gay go, quyết liệt
trên tất cả các lĩnh vực và giành được những kết quả hết sức to lớn.
Về chính trị - xã hội: đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới – chế độ
dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết.
Về kinh tế, văn hóa: đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ
thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Cuối 1945,

nạn đói cơ bản được đẩy lùi. Mở lại các trường lớp, tổ chức khai giảng năm học mới, bước
đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ
được thực hiện sôi nổi. cuối 1946, có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: ngay từ khi thực dân Pháp nổ sung đánh chiếm Sài
Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân
dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào “Nam tiến”. Ở miền Bắc, chủ
trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, thực hiện sách lược nhân nhượng với quân
Tưởng và tay sai để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi
Pháp – Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua bán quyền lợi cho
nhau, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân
Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở
Phoongtennoblo (Pháp), Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời
gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng là đúng
đắn, phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu khách quan của cuộc kháng chiến?
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối phó với
âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp và được thể hiện tập trung trong ba văn kiện
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946)
và Kháng chiến nhất định thắng lợi (1947).
Nội dung đường lối:
Mục đích: “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
Tính chất: đây là cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa,
mang tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Đó là cuộc kháng chiến có tình dân tộc giải
phóng và dân chủ mới.
Chính sách: Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với
Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện
toàn dân kháng chiến phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
21
MADE BY ISA.NZ
Chương trình và nhiệm vụ: đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí

Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến. Giành độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất đất nước, củng cố chế
độ Tăng gia sản xuất, thực hành kinh tế tự túc
Phương châm tiến hành: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Triển vọng: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh
nghiệm của tổ tiên, đúng với nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lenin,
vừa phù hợp với thực tế đất nước bấy giờ.
Đường lối đã giải quyết thành công hai yêu cầu cơ bản, cấp bách: Có dám quyết tâm
kháng chiến không? Làm thế nào để kháng chiến thắng lợi trong điều kiện tương quan so
sánh lực lượng ta – địch rất chênh lệch.
Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng
chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ
vang.
Đầu 1951, nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương giành được những thắng lợi quan
trọng. Song lợi dụng thời cơ đó, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông
Dương.
Đáp ứng yêu cầu bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng, tháng 2 – 1951, Đại hội đại
biểu toàn quốc họp lần thứ hai đã phát triển đường lối, được thể hiện trong Chánh cương của
Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ bản là:
Tính chất xã hội: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Và mâu
thuẫn lớn nhất là giữa tính dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn này đang
được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc chống thực dân Pháp và bọn can
thiệp.
Đối tượng cách mạng: đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ (đối tượng chính), phong
kiến phản động (đối tượng phụ).
Nhiệm vụ: đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho
dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân

dân, gây cơ sở cho CNXH.
Động lực cách mạng: công nông, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và
tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ yêu nước và tiến bộ.
Đặc điểm cách mạng: giải quyết những nhiệm vụ cơ bản do nhân dân lao động làm
động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo.
Triển vọng: đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội. đó là con đường đấu tranh lâu dài,
đại thể trải qua ba giai đoạn.
22
MADE BY ISA.NZ
Đảng Lao động Việt Nam, đại diện của giai cấp công nhân, trực tiếp lãnh đạo cách
mạng. Mục đích là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên Xã hội chủ nghĩa.
Chính sách: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm
mống cho chủ nghĩa xã hội và đảy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
Quan hệ quốc tế: đứng về phe hòa bình và dân chủ, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải công nhận
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu
chiến tranh của đế quốc Mỹ; giải phóng miền Bắc, tạo cơ sở cho miền Bắc tiến lên CNXH,
hậu thuẫn cho miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc và uy tín trên trường quốc tế.
Đối với quốc tế, thắng lợi này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; tăng thêm lực lượng cho CNXH và cách mạng thế giới; góp phần đập tan ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương; mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ
trên thế giới.
Hãy chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước
giai đoạn 1954-1975?
Giai đoạn 1954 – 1964:
Sau Hiệp định Giownevo, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới vừa đứng
trước nhiều khó khăn phức tạp. Thuận lợi là hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải

phóng dân tộc tiếp tục phát triển mạnh; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa
chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh; có ý chí độc lập thống nhất Tổ
quốc của nhân dân từ Nam chí Bắc. Song còn tồn tại khó khăn là, thế giới bước vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện bất
đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa; đất nước ta bị chia cắt, kinh tế miền Bắc nghèo nàn,
miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Tháng 9 – 1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính
sách mới của Đảng. Đặc điểm lúc này là từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm
chia thành hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung.
Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) nhận định phải ra sức củng cố miền
Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (12-1957) xác định củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc
tiền dần lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục dấu tranh thống nhất nước nhà bằng con đường hòa
bình. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1-1959) xác định nhiệm vụ cũng như con đường cho
cách mạng Việt Nam ở miền Nam.
23
MADE BY ISA.NZ
Quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước được hoàn
chỉnh tại Đại hội lần thứ III (9-1960). Đại hội xác định:
Nhiệm vụ chung: tăng cường đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước.
Mục tiêu chiến lược: giải quyết yêu cầu cụ thể ở mỗi miền nhằm giải quyết mâu thuẫn
chung của cả nước giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng tay sai; hòa bình, thống nhất Tổ
quốc.
Cách mạng hai miền có mối quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Vai trò nhiệm vụ cách mạng của mỗi miền với cách mạng cả nước: miền Bắc là tiềm
lực, hậu phương cho miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau. Miền Nam giữ
vai trò chiến trường trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện hòa bình thống

nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Giai đoạn 1965 – 1975:
Đế quốc Mỹ tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở
miền Bắc. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc đã đạt và vượt các mục tiêu kinh tế, văn
hóa. Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn 1961 – 1962, cuộc đấu tranh của quân dân ta có
bước phát triển mới, cơ bản kết thúc “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Tuy nhiên có một số khó
khăn, bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng gay gắt gây bất lợi cho cách mạng
Việt Nam, “Chiến tranh cục bộ” gây cho tương quan lực lượng ngày càng lớn.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần 11 (3 – 1965) và lần thứ 12 (12 – 1965)
đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả
nước.
Trung ương Đảng nhận định “Chiến tranh cục bộ” là cuộc chiến tranh xâm lược thực
dân mới, chứa nhiều mâu thuẫn về chiến lược. Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược”, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục và đẩy mạnh chống chiến tranh cục bộ ở
miền Nam, phát động chiến tranh nhân dân chống Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh, càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung
lực lượng hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ giành thắng lợi quyết định
trong thời gian tương đối ngắn ở miền Nam.
24
MADE BY ISA.NZ
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: “Tiếp tục kiên trì phương
châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”,
đánh địch trên cả ba vùng chiến lược.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục
xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng, chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng

địch liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả nước.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn,
miền Bắc là hậu phương lớn. Khẩu hiệu chung “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Đường lối kháng chiến chống Mỹ đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn
cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh
quốc tế.
Bằng thực tiễn lịch sử, hãy chứng minh rằng, quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
hai nhiệm vụ chiến lược trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tạo ra sức
mạnh to lớn cho cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi?
Sau Hiệp định Giownevo, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới vừa đứng
trước nhiều khó khăn phức tạp. Thuận lợi là hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải
phóng dân tộc tiếp tục phát triển mạnh; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa
chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh; có ý chí độc lập thống nhất Tổ
quốc của nhân dân từ Nam chí Bắc. Song còn tồn tại khó khăn là, thế giới bước vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện bất
đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa; đất nước ta bị chia cắt, kinh tế miền Bắc nghèo nàn,
miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Tháng 9 – 1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính
sách mới của Đảng. Đặc điểm lúc này là từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm
chia thành hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung.
Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955) nhận định phải ra sức củng cố miền
Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (12-1957) xác định củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc
tiền dần lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục dấu tranh thống nhất nước nhà bằng con đường hòa
bình. Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1-1959) xác định nhiệm vụ cũng như con đường cho
cách mạng Việt Nam ở miền Nam.
Quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước được hoàn
chỉnh tại Đại hội lần thứ III (9-1960). Đại hội xác định:
25

×