Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Luận văn: Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và những giải pháp phát triển pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.29 KB, 44 trang )

Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2012 được coi là một trong những năm kinh tế Thế Giới gặp nhiều
khó khăn. Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu tiếp tục sa lầy mà lối thoát thì
chưa thực sự rõ ràng, các nền kinh tế lớn trên Thế Giới cũng đều không mấy khả
quan. Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng không tránh khỏi những ảnh
hưởng của khủng hoảng trên, kinh tế khó khăn, lạm phát và thất nghiệp tăng
cao…Đồng thời hệ thống Ngân hàng trong nước cũng gặp rất nhiều khó khăn
trong thời gian này. Tình trạng nợ xấu vẫn chưa có biện pháp giải quyết, đồng
thời những khó khăn trong việc huy động vốn và sự mất cân đối kỳ hạn vốn
khiến nhiều Ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn của nhiều DN.
Mà năm 2013 theo dự đoán tiếp tục sẽ là năm khó khăn đối với cả nền kinh tế và
hệ thống Ngân hàng. Do đó ngoài nguồn vốn vay từ các NHTM, các DN cần tìm
cho mình những ngồn vốn thích hợp khác. Một trong những nguồn vốn mà DN
có thể xem xét đến là huy động vốn qua kênh thị trường TPDN.
Thị trường trái phiếu nói chung và TPDN nói riêng là một trong những
kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Thực tế đã chứng minh, nhiều
nước trên Thế giới đã rất thành công trong phát triển thị trường trái phiếu mà
trọng tâm là thị trường TPDN. Ở Việt Nam, mặc dù trong những năm gần đây thì
thị trường trái phiếu cũng đã có nững nét khởi sắc nhưng so sánh tương quan với
các nước cùng trình độ phát triển trong khu vực và trên Thế giới thì thị trường
TPDN Việt Nam vẫn chưa phát triển đúng tầm. Do đó em đã lựa chọn nghiên
cứu đề tài:
“Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam và những giải pháp phát
triển”.
Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản của thị trường TPDN và
thực trạng phát triển trong thời gian qua. Đồng thời trên cơ sở lý thuyết và thực
tiễn đã nêu, em xin đưa ra một số giải pháp hy vọng có thể giúp thị trường TPDN
Việt Nam phát triển đúng tầm của mình.
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
 Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thị trường trái phiếu doanh nghiệp


 Chương 2: Thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
 Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt
Nam
1
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về trái phiếu
1.1.1. Khái niệm
Trái phiếu (Bond) là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải
trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái
phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có
thể là DN, một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước, chính quyền địa
phương… Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc DN hoặc chính
phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu hoặc không được ghi. Trái phiếu
được đặc trưng bởi:
• Mệnh giá trái phiếu: là giá trị danh nghĩa được thể hiện trên trái phiếu mà tổ chức
phát hành cam kết sẽ hoàn trả cho người sở hữu trái phiếu vào ngày đáo hạn.
• Lãi suất trái phiếu: mỗi trái phiếu đều có một mức lãi suất mà tổ chức phát hành
cam kết sẽ thanh toán cho chủ sở hữu trái phiếu một số tiền lãi vào một ngày xác
định hoặc có thể theo định kỳ. Trái phiếu phát hành với mức lãi suất danh nghĩa
được xác định bởi điều kiện thị trường tại thời điểm chào bán trái phiếu. Lãi suất
thường được công bố theo tỉ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá của trái phiếu. Số
tiền lãi trái phiếu được tính bằng mệnh giá trái phiếu nhân với lãi suất trái phiếu.
• Giá trái phiếu: đây là số tiền thực tế NĐT bỏ ra để được quyền sở hữu trái phiếu.
Trái phiếu có thể được mua bằng mệnh giá, cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá. Dù
vậy tiền lãi trả cho trái chủ luôn được xác định trên mệnh giá của trái phiếu; đồng
thời, trái chủ sẽ được hoàn trả vốn gốc ban đầu bằng với mệnh giá trái phiếu vào
ngày đáo hạn.

• Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người
phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung
hạn có thời gian từ 1 năm đến 5 năm, trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở
lên…
• Kỳ trả lãi: là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu.
Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái
phiếu có thể theo định kỳ hoặc trả cả lãi và gốc một lần khi đến hạn.
1.1.2. Đặc điểm và phân loại
1.1.2.1. Đặc điểm
Một trái phiếu thường có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có công ty, mà còn có Chính phủ Trung
ương và Chính phủ địa phương.
2
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
- Người mua trái phiếu chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ
của chủ thể phát hành trái phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là người chủ
sở hữu công ty.
- Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào
kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
- Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi công ty bị giải thể hoặc phá sản thì
trước hết công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các trái chủ trước, sau đó
mới chia cho các cổ đông.
1.1.2.2. Phân loại
a) Căn cứ vào chủ thể phát hành có:
- TPCP: Chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và
các tổ chức kinh tế, xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Chính
phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy,
TPCP được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất.
- TPDN: là những trái phiếu do DNNN, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn và các định chế tài chính khác như Ngân hàng, công ty tài chính…

phát hành để tăng vốn hoạt động. TPDN có nhiều loại và rất đa dạng.
b) Căn cứ vào lãi suất của trái phiếu có:
- Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo
một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
- Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): là loại trái phiếu mà lợi tức
được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự
biến đổi theo một lãi suất tham chiếu.
- Trái phiếu có lãi suất bằng không: là loại trái phiếu mà người mua không nhận
được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và
được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
c) Căn cứ vào thời hạn trái phiếu có:
- Trái phiếu ngắn hạn: có thời hạn dưới 1 năm (Ví dụ như: tín phiếu kho bạc).
- Trái phiếu trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Trái phiếu dài hạn: có thời hạn từ trên 5 năm trở lên.
- Trái phiếu vĩnh viễn (Perpetual bond hay Perpetual hay gọi ngắn gọn chỉ là
Perp) là trái phiếu không có ngày đáo hạn. Loại trái phiếu này không phổ biến
ở Mỹ, nhưng cũng phổ biến ở một số nước như Anh Quốc (công trái hợp nhất
- Consols), ở Pháp (Công trái thực lợi - Rentes).
d) Căn cứ vào mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành có:
3
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
- Trái phiếu bảo đảm: là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có
giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng
thanh toán, thì trái chủ có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền
người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số loại chủ
yếu như: trái phiếu có tài sản cầm cố và trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán
ký quỹ.
- Trái phiếu không bảo đảm: là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm
vật bảo đảm mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành.
e) Căn cứ vào hình thức trái phiếu có:

- Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ
sách của người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ
sách của người phát hành.
f) Căn cứ vào tính chất trái phiếu có:
- Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ
được quyền chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ
thể về thời gian và tỷ lệ khi mua trái phiếu.
- Trái phiếu kèm quyền mua cổ phiếu: là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho
phép trái chủ được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty.
- Trái phiếu có thể mua lại: là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được
quyền mua lại một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
g) Căn cứ theo phạm vi lưu thông có:
- Trái phiếu quốc nội.
- Trái phiếu quốc tế.
Có thể còn có nhiều cách phân loại trái phiếu khác nữa nhưng bên trên là một
số cách phân loại trái phiếu tiêu biểu mà chúng ta có thể hay bắt gặp.
1.2. Trái phiếu doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Trái phiếu doanh nghiệp (Corporate bond) là một chứng khoán nợ do DN
phát hành nhằm huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường, quy định nghĩa vụ
của người phát hành (DN) phải trả cho người nắm giữ trái phiếu (NĐT hay trái
chủ) một khoản tiền xác định trong một thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản
vay ban đầu khi nó đáo hạn.
4
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
1.2.2. Đặc điểm và phân loại trái phiếu doanh nghiệp
1.2.2.1. Đặc điểm
Ngoài những đặc điểm và đặc trưng giống như một trái phiếu nói chung,
TPDN có những đặc điểm sau:

- Trái chủ không được tham dự vào các quyết định của DN.
- Khi DN bị giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước
cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho
khoản vay.
- TPDN rất đa dạng và phong phú về chủng loại đáp ứng nhu cầu và thị
hiếu của các NĐT, là nguồn vốn vay chủ yếu cho các DN ở các nước phát triển.
- Tiền lãi chưa trả là nợ của DN, do đó có thể gây ra áp lực cho DN đến chỗ
phá sản. Nhưng đồng thời tiền lãi trái phiếu được tính vào chi phí hợp lý của DN,
giúp tiết kiệm được một phần thuế thu nhập doanh nghiệp.
Từ những đặc điểm trên ta có thể thấy được những ưu điểm của phương
thức huy động vốn bằng TPDN:
Thứ nhất, phát hành TPDN sẽ giúp cho các DN huy động được một lượng
vốn lớn với chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với vốn cổ phần, đồng thời giới hạn
trách nhiệm của DN đối với các khoản nợ khi phát hành trái phiếu cũng ít bị
ràng buộc hơn so với khi phát hành cổ phiếu. Chẳng hạn, tại Việt Nam, trong
trường hợp tài trợ bằng vốn cổ phần, DN thường cam kết với các cổ đông
mức cổ tức vào khoảng 12 – 15%/năm, thậm chí có thể đến mức 20%/năm. Để
đạt được mức cổ tức như vậy thì lợi nhuận sau thuế của DN phải đạt mức tối
thiểu từ 20 – 25% trên vốn chủ sở hữu, trong khi nếu huy động vốn thông qua
kênh phát hành trái phiếu thì mức lãi suất phải trả cho các trái chủ chỉ vào
khoảng 9 – 10%/năm. Điều đó xuất phát từ nguyên nhân là mức độ rủi ro khi
đầu tư trái phiếu thường thấp hơn so với cổ phiếu. Dù kết quả hoạt động của
DN như thế nào thì lợi tức trả cho các trái chủ vẫn được đảm bảo theo đúng
định kỳ, trong khi cổ tức thanh toán cho các cổ đông thì lại phụ thuộc vào mức
lợi nhuận sau thuế đạt được của DN. Trong trường hợp DN lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản, quyền ưu tiên thanh toán các khoản
nợ từ việc thanh lý tài sản còn lại của công ty luôn luôn thuộc về các trái chủ,
còn các cổ đông với tư cách là chủ sở hữu DN thì họ có khả năng bị mất một
phần hoặc toàn bộ nguồn vốn đầu tư nếu giá trị tài sản DN không còn sau khi đã
thanh toán hết cho các chủ nợ. Mặt khác, việc huy động nguồn vốn thông qua

phát hành trái phiếu có thể giúp DN giảm được chi phí sử dụng vốn do lãi suất
trả cho các trái chủ được tính vào chi phí của DN nên số thuế thu nhập mà DN
5
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
phải nộp sẽ được giảm đi, trong khi phần cổ tức thanh toán cho các cổ đông là
phần thu nhập còn lại sau khi DN đã nộp thuế. Hay nói cách khác, chi phí sử
dụng vốn từ trái phiếu là chi phí không phải chịu thuế còn chi phí vốn cổ phần
là chi phí phải chịu thuế. Bên cạnh đó, TPDN là công cụ huy động vốn có thời
hạn nên trách nhiệm của DN đối với các trái chủ sẽ được chấm dứt khi trái
phiếu đáo hạn, còn cổ phiếu thể hiện đặc tính sở hữu DN một cách lâu dài nên
DN phải có trách nhiệm đối với các cổ đông trong suốt thời gian DN tồn tại.
Thứ hai, việc tài trợ bằng TPDN có thể tránh được tình trạng pha loãng
quyền sở hữu của các cổ đông – là nguyên nhân làm giảm thị giá cổ phiếu, có
thể tạo thêm gánh nặng cho các cổ đông hiện hành. Khi phát hành cổ phiếu, sự
xuất hiện của các cổ đông mới có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông
hiện hữu, lợi ích của họ ít nhiều cũng bị chia sẻ. Hơn nữa, việc xuất hiện của
các cổ đông mới đồng nghĩa với khả năng kiểm soát DN bị ảnh hưởng do
quyền biểu quyết của các cổ đông tăng lên, trong khi nếu huy động vốn thông
qua kênh TPDN thì sẽ hạn chế được tình trạng này, quyền kiểm soát DN sẽ
không bị ảnh hưởng.
Thứ ba, phát hành TPDN tài trợ thường có lợi hơn so với vốn vay Ngân
hàng. Việc huy động vốn thông qua TPDN sẽ đảm bảo cho DN được sử dụng
nguồn vốn ổn định và dài hạn hơn so với đi vay Ngân hàng. Nếu các khoản
vay Ngân hàng thường là các khoản vay ngắn hạn và bị không chế bởi hạn mức
tín dụng thì TPDN lại rất đa dạng về thời hạn và không bị hạn chế về quy mô,
tùy vào sự lựa chọn của các DN. Trong một số trường hợp, thông qua kênh phát
hành trái phiếu, DN có thể huy động được khối lượng vốn lớn một cách dễ dàng
nếu có phương án sử dụng vốn hợp lý và khả thi, đảm bảo được khả năng thanh
toán lợi tức và hoàn trả vốn gốc đúng hạn cho các trái chủ. Như vậy, có thể thấy
rằng phát hành trái phiếu là hiệu quả hơn trong trường hợp tài trợ cho vốn dài

hạn với quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu về vốn của DN cho các mục tiêu khác
nhau, còn vốn vay Ngân hàng chỉ thật sự phù hợp cho những khoản vay ngắn hạn
và có quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, việc tài trợ qua kênh phát hành TPDN cũng có
chi phí thấp hơn so với vay vốn Ngân hàng, đặc biệt đối với những DN lớn và
có danh tiếng trên thị trường. Danh tiếng, uy tín thương hiệu, kinh nghiệm hoạt
động lâu năm sẽ là những đảm bảo giá trị cho DN trong việc tiếp cận thị trường
TPDN với chi phí thấp hơn so với chi phí vốn vay Ngân hàng.
Thứ tư, phát hành TPDN đòi hỏi thời gian ít hơn so với đi vay Ngân
hàng hoặc phát hành cổ phiếu. Nếu thời gian cần thiết để phát hành trái phiếu từ
khâu chuẩn bị đến khi hoàn tất giao dịch chỉ mất bình quân khoảng 8 tuần thì
6
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
việc đi vay Ngân hàng hay phát hành cổ phiếu sẽ phải mất nhiều thời gian hơn
từ khâu chuẩn bị cho đến khi xét duyệt hồ sơ. Hơn nữa, để vay được vốn từ
Ngân hàng, các DN phải có báo cáo kế hoạch sử dụng vốn và phương án sản
xuất kinh doanh khả thi cụ thể để Ngân hàng thẩm định đồng thời phải có tài sản
thế chấp cho những khoản vay đó. Ngoài ra DN còn phải tuân thủ những quy
định do Ngân hàng đề ra trong việc sử dụng vốn vay. Như vậy khả năng chủ
động trong việc vay và sử dụng vốn của DN sẽ bị giảm sút vì phải phụ thuộc
vào sự đánh giá của Ngân hàng cũng như những quy định do các tổ chức tín
dụng đề ra.
1.2.2.2. Phân loại
Căn cứ vào thời hạn TPDN: khác với trái phiếu nói chung TPDN chỉ có 2
loại thời hạn chính là TPDN trung hạn ( thời hạn từ 1 đến 5 năm) và TPDN dài
hạn (thời hạn trên 5 năm).
Các cách phân loại còn lại của TPDN cũng giống như cách phân loại trái
phiếu nói chung ở trên. Ngoài ra trên thị trường TPDN còn có các loại TPDN
khác như: trái phiếu thu nhập (là loại trái phiếu mà việc thanh toán lợi tức tuỳ
thuộc vào mức lợi nhuận mà DN đạt được hàng năm và không cao hơn lãi suất
ghi trên trái phiếu), trái phiếu chiết khấu (là loại trái phiếu mà lãi không được

thanh toán định kỳ và giá bán của nó được xác định dựa vào lãi suất thị trường ở
thời điểm phát hành, thường thấp hơn mệnh giá và trái chủ được nhận lại vốn gốc
bằng với mệnh giá tại thời điểm đáo hạn)…
1.3. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
1.3.1. Khái niệm
Thị trường TPDN là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán trao đổi
TPDN, nhằm thoả mãn nhu cầu của các đối tượng tham gia trên thị trường, đồng
thời nó là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn
trực tiếp từ NĐT sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường
tài chính là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
1.3.2. Đặc điểm và phân loại thị trường trái phiếu doanh nghiệp
1.3.2.1. Đặc điểm
Chủ thể tham gia thị trường TPDN cũng giống như những chủ thể trên
hầu hết các thị trường tài chính, cũng có người đi vay và người cho vay hoặc cả
hai tham gia trên thị trường. Trong đó, các tổ chức cá nhân tham gia thị trường
TPDN được chia thành ba nhóm chính: nhà phát hành (Issuers), NĐT (Investors)
và chủ thể trung gian (Bond brokers).
- Nhà phát hành (Issuers): là các DN thực hiện huy động vốn bằng cách
7
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
phát hành TPDN trên thị trường. Trên thị trường TPDN, các chủ thể phát hành
bao gồm các DNNN, công ty cổ phần, công ty TNHH, các định chế tài chính như
Ngân hàng, công ty tài chính, …
- NĐT (Investors): là những người thực sự mua và bán TPDN trên thị
trường nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trên lợi tức trái phiếu và chênh lệch
giá, có thể chia thành 2 loại:
+ NĐT cá nhân (Indivisuals): những người có vốn tạm thời tham gia mua
bán trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận, tuy nhiên các NĐT cá nhân
luôn phải lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức
độ chấp nhận rủi ro của mình.

+ NĐT tổ chức thường xuyên mua bán TPDN với số lượng lớn, có thể là các
NHTM, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty chứng
khoán, quỹ hưu trì và các quỹ bảo hiểm xã hội…Đầu tư thông qua các tổ
chức có ưu điểm nổi bật là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các
quyết định đầu tư được quyết định bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
- Các chủ thể trung gian: là một trung gian trên thị trường TPDN, có vai trò
là cầu nối giữa các NĐT với nhau hoặc giữa NĐT với nhà phát hành. Công ty
chứng khoán là tổ chức trung gian thông qua nghiệp vụ môi giới (NĐT với NĐT)
và nghiệp vụ phát hành (giữa NĐT với nhà phát hành).
- Ngoài ra, còn có các tổ chức liên quan đến thị trường: là những tổ chức
giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo sự
hoạt động bình thường, ổn định của thị trường, gồm có: cơ quan quản lý nhà
nước, Sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ
chức lưu ký và thanh toán bù trù chứng khoán, công ty dịch vụ máy tính chứng
khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán, công ty định mức tín nhiệm…
1.3.2.2. Phân loại thị trường TPDN
Có nhiều cách phân loại thị trường trái phiếu dựa trên những tiêu chuẩn
khác nhau, trong phạm
vi

giớ
i hạn tập trung nghiên cứu về thị trường TPDN thì
ta phân loại thành hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. Thị trường TPDN sơ cấp
và thứ cấp cũng không khác với thị trường trái phiếu nói chung hay thị trường tài
chính thông thường, do đó ta có thể kể đến một số đặc điểm của hai thị trường
trên như sau:
a) Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường
phát hành. Là nơi tập trung diễn ra quá trình mua bán lần đầu đối với các trái
phiếu mới phát hành. Vốn từ các NĐT sẽ được chuyển qua nhà phát hành thông

8
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
qua việc mua bán trái phiếu.
b) Thị trường thứ cấp
Là thị trường giao dịch các loại trái phiếu nhằm tạo tính thanh khoản
cho trái phiếu. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán trái phiếu trên thị trường
thứ cấp thuộc về các NĐT và nhà kinh doanh, do
đó

nếu
thị trường thứ cấp có
tính thanh khoản càng cao thì sự quan tâm của NĐT đối với thị trường trái
phiếu sẽ tăng lên. Đây chính là một trong những điều kiện phát triển thị trường
trái phiếu.
Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường thứ cấp trái phiếu
cũng như TPDN gồm 2 loại:
Thứ nhất, thị trường tập trung: đây là thị trường giao dịch trái phiếu theo
phương thức khớp lệnh hoặc thỏa thuận tại một địa điểm tập trung là Sở giao
dịch chứng khoán.
Thứ hai, thị trường phi tập trung (OTC): là loại thị trường không có địa
điểm cụ thể, trái phiếu chỉ được giao dịch trực tiếp thông qua các nhà môi giới
trái phiếu.
Trên thực tế, hầu hết các giao dịch trái phiếu trên Thế giới đều giao dịch
thông qua thị trường OTC. Đây là điểm khác biệt giữa thị trường thứ cấp cổ
phiếu và thị trường thứ cấp trái phiếu. Sự khác biệt này dẫn đến các kết quả sau:
- Phát sinh vấn đề thiếu minh bạch về giá cả, trong khi các tổ chức lớn có
được giá từ các nhà
giao

d


ch
trái phiếu, còn các NĐT khác thì không được.
- Có thể thanh toán bù trừ không áp dụng cho giao dịch trái phiếu. Trước
đây, giao dịch trái phiếu được tiến hành chủ yếu tại bàn của nhà môi giới và
nó đòi hỏi hoàn tất một số thủ tục đặt lệnh mua hay bán. Những năm gàn đây có
sự cải tiến về sử dụng giao dịch trái phiếu điện tử.
c) Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp:
Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của
thị trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ
cấp.
Ngược lại, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển
của thị trường sơ cấp, vì một khi trái phiếu được phát hành ra trên thị trường, nếu
không có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh
khoản cho trái phiếu thì khó có thể thuyết phục NĐT bỏ tiền ra mua trái phiếu.
Chính việc mua bán, giao dịch trên thị trường thứ cấp làm tăng tốc dòng
vốn đầu tư, các NĐT có thể chuyển từ trái phiếu sang tiền mặt.
9
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
1.3.3. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu doanh
nghiệp
1.3.3.1. Vai trò của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
a) Đối với nền kinh tế
Thị trường TPDN với tư cách là một kênh huy động vốn trung và dài
hạn, tài trợ cho hoạt động sản xuất và tái sản xuất mở rộng; có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. TPDN trở thành công cụ tự do
hóa nền kinh tế bởi nó có thể cho phép các chủ thể trong nền kinh tế huy động
một cách tự do và trực tiếp nguồn vốn nhàn rỗi từ trong công chúng để đầu tư
phát triển. Thị trường TPDN tạo điều kiện cung cấp cho nền kinh tế nguồn vốn
dài hạn cho các nhu cầu đầu tư dài hạn cần thiết, đáp ứng theo cả hai tiêu chí về

thời hạn sử dụng và chi phí sử dụng vốn phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế;
từ đó góp phần điều hòa, nâng cao hiệu quả của việc phân phối và tái phân phối
các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế, đồng thời giảm sức ép và sự tập trung
đối với hệ thống Ngân hàng.
b) Đối với các doanh nghiệp
Sự ra đời của thị trường TPDN đã mở ra cho các DN một kênh huy động
vốn mới linh hoạt và hiệu quả hơn so với các kênh huy động vốn truyền thống.
Khi DN có nhu cầu về vốn để đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh
thì DN có thể phát hành trái phiếu ra thị trường để huy động vốn. Đây là
những nguồn vốn được đảm bảo và có khả năng sử dụng dài hạn. Các DN
không phải chịu sức ép về thời gian hoàn trả vốn vay như khi vay vốn Ngân
hàng, bởi lẽ vốn vay Ngân hàng thông thường là những khoản vay ngắn hạn và
có điều kiện trong khi vốn huy động trên thị trường TPDN đều là những
khoản vay dài hạn (thường là 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 năm).
Mặt khác, trong trường hợp DN có vốn nhàn rỗi và chưa sử dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh thì DN hoàn toàn có thể đầu tư vào trái phiếu để
tìm kiếm lợi nhuận. Với việc nắm giữ những trái phiếu này, DN có thể chuyển
chúng thành tiền mặt trên thị trường thứ cấp khi cần thiết.
c) Đối với nhà đầu tư
Thị trường TPDN có chức năng chuyển các khoản tiết kiệm thành vốn
đầu tư; một mặt huy động nguồn vốn nhàn rỗi tài trợ cho nền kinh tế; mặt
khác tạo cơ hội cho các tổ chức, cá nhân chưa đủ điều kiện hoạt động kinh
doanh có thể đầu tư vốn vào thị trường chứng khoán. Nếu như thị trường TPDN
mở ra cho các DN một phương thức tài trợ vốn linh hoạt và hiệu quả thì nó cũng
tạo cho các NĐT nhiều cơ hội lựa chọn để đa dạng hóa các loại tài sản trên danh
10
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
mục đầu tư của mình. Bằng cách mua và nắm giữ những trái phiếu với thời gian
đáo hạn rất đa dạng, người đầu tư có thể thu hồi lại số vốn của mình sau một thời
hạn 3 năm, 5 năm, 10 năm hay có thể đến 20 năm.

d) Đối với thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ
Có thể nói thị trường TPDN đã làm đa dạng hóa hình thức huy động vốn
trên TTCK, tránh tình trạng tập trung quá vào thị trường cổ phiếu gây mất thế
cân bằng giữa thị trường vốn và thị trường nợ trên TTCK. Hơn thế nữa nó còn là
một công cụ tài chính hữu hiệu nhất trong việc “nối” TTCK với thị trường tiền tệ
- tín dụng trong vai trò “chạy tiếp sức” và làm tăng tính thanh khoản cho TTCK.
Thúc đẩy cả TTCK và thị trường tiền tệ phát triển mạnh tránh tình trạng mất cân
bằng giữa hai thị trường. Đồng thời làm giảm bớt áp lực lên thị trường cổ phiếu
và tín dụng, đặc biệt khi những thị trường này gặp nhiều biến động trong thời
gian gần đây.
1.3.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp
a) Bất cân xứng thông tin trên thị trường
Khi có sự không cân xứng về thông tin, các thị trường tài chính thường
phải đối mặt với một
thực
trạng là những người cho vay không thể biết rõ được
về mức độ rủi ro, mức độ tín nhiệm, các
dòng

lợi
nhuận, các cơ hội đầu tư, sự
tận tâm trong quá trình sử dụng những đồng vốn vay của người
đi
vay. Trong
hoàn cảnh đó, sự bất cân xứng thông tin sẽ làm nảy sinh các khó khăn:
- Lựa chọn đối nghịch: hiện tượng này xảy ra trước khi diễn ra giao dịch,
hàm ý là
người
đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn
nhất (có thể không trả được

nợ),

ngược
lại là những người tích cực tìm vay
nhất và có nhiều khả năng lựa chọn nhất, nhưng người
cho
vay có thể quyết
định không cho vay, tránh phải đưa ra những quyết định sai lầm.
- Rủi ro đạo đức: xảy ra khi giao dịch đã diễn ra, khi người cho vay phải
đối
mặt với rủi ro là người vay cố ý hành động “không tốt” dẫn đến không hoàn
trả khoản vay.
- Vấn đề thanh khoản: khó có thể phân biệt giữa các công ty có triển
vọng với các công
ty
không có triển vọng phát triển trong thời kỳ khó khăn về
tài chính để thấy được khả năng trả nợ
của

các
công ty này.
Cả ba vấn đề nêu trên có thể dẫn đến hậu quả là bỏ lỡ việc đầu tư vào
những dự án tốt và


mức
sinh lời cao trong nền kinh tế, thực hiện đầu tư vào
những dự án không tốt, người đi vay hoạt
động
kém hiệu quả.

Vấn đề ở đây là sự bất cân xứng thông tin quá lớn khiến cho các cá nhân
có nhu cầu đầu tư
không
đủ tự tin để đưa ra quyết định đầu tư trực tiếp, họ sẽ
11
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
phải tìm đến người ủy thác (Ngân hàng) để gửi
gắm
tài sản của mình. Như
vậy TPDN có thể không được ưa thích bằng việc gửi tiền vào Ngân hàng và do
đó
thị trường TPDN cũng khó có điều kiện phát triển.
b) Trình độ phát triển kinh tế
Một thực tê là ở các nước đang phát triển, nơi mà thu nhập và mức tích
luỹ tài sản còn thấp, người dân còn xa lạ với các công cụ đầu tư hiện đại trên
TTCK, nhiều cá nhân thích chuyển
các
khoản tiền tiết kiệm của họ thành
khoản tiền gửi Ngân có thời gian đầu tư ngắn hạn hơn. Bên
cạnh

đó,
ngành
công nghiệp bảo hiểm và các quỹ hưu trí chưa phát triển, các DN vừa và nhỏ
chiếm tỷ
lệ
cao trong nền kinh tế vốn là đối tượng dễ dàng tiếp cận khoản cho
vay của Ngân hàng, trong khi việc tài
trợ
nợ bằng phát hành TPDN chủ yếu chỉ

thực hiện được với các DN lớn và có danh tiếng. Điều này cho
thấy
rằng hệ
thống Ngân hàng có thể thống trị trong hệ thống tài chính ở giai đoạn đầu phát
triển kinh tế vì
số
lượng DN lớn, có danh tiếng có thể phát hành TPDN với chi
phí hợp lý còn hạn chế.
Trái lại, thị trường TPDN có thể phát triển dễ dàng hơn ở các nước phát
triển có thu nhập cao do các
tổ
chức và cá nhân ở các nước này có khoản tiền
nhàn rỗi lớn và có nhu cầu đa dạng hóa danh mục
tài

sản
của họ. Hơn nữa, ở
các nước này có khá nhiều công ty có quy mô lớn và có danh tiếng nên


thể
phát hành TPDN đều đặn trên thị trường với khối lượng lớn.
c) Sự hiểu biết của nhà đầu tư
Thị trường TPDN muốn phát triển, trước hết phải thu hút được đông
đảo NĐT tham gia. Do
đó,
trình độ hiểu biết của NĐT có thể giúp trái phiếu
trở nên hấp dẫn hơn, khi đó thị trường TPDN sẽ
phát
triển theo đúng tiềm

năng vốn có của nó. Nó còn giúp cho thị trường TPDN hoạt động hiệu quả
hơn,
theo
đúng quy luật thị trường do tránh được tình trạng đầu tư theo xu
hướng bầy đàn. Từ đó hạn chế
tác
động của vấn đề thông tin bất cân xứng, do
các NĐT có khả năng đánh giá đúng về tình
hình DN.
d) Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Thị trường tiền tệ và TTCK (đặc biệt là thị trường vốn) có mối quan hệ
gắn bó với nhau. Do đó,
sự
phát triển của hệ thống Ngân hàng, các tổ chức tín
dụng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị trường
TPDN.
Nếu hệ
thống Ngân hàng và thị trường cổ phiếu hoạt động hiệu quả thì sẽ kéo
theo thị trường TPDN phát triển, tạo
nên

thế
cân bằng bền vững, hỗ trợ lẫn
nhau giữa 3 kênh huy động vốn này. Mặt khác, khi hệ thống
Ngân hàng


thị
trường cổ phiếu gặp trục trặc thì thị trường TPDN lại là một nơi trú ngụ an
12

Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
toàn, giúp chia sẽ rủi ro và làm giảm
áp
lực khủng hoảng lên các thị trường này.
Ngoài ra, , khi hệ thống Ngân hàng đã hoàn thiện, sẽ góp phần làm tăng
nguồn cung TPDN trên thị trường thông qua việc phát hành TPDN huy động
vốn. Tạo tiền đề cho việc phát triển thị trường TPDN sơ cấp và thứ cấp.
e) Sự phát triển của hệ thông pháp lý
Mục tiêu chính của hệ thống quản lý trên TTCK là đảm bảo niềm tin
cho công chúng tham
gia
các thị trường, trong đó có thị trường TPDN, bằng
cách thúc đẩy sự cung cấp thông tin đáng tin cậy về
các
công ty phát hành
cho công chúng đầu tư. Do đó, thị trường chỉ giành được niềm tin của người
đầu


nếu thông tin là đáng tin cậy và công chúng đầu tư được bảo vệ bởi cơ sở
hạ tầng về pháp lý và
bộ
máy tư pháp hoàn thiện; quản lý, giám sát các tổ chức
phát hành và các tổ chức bão lãnh, thông
qua

một
cơ chế cưỡng chế mạnh.
Tóm lại, để thị trường TPDN phát triển đòi hỏi phải có một quá trình tích
luỹ nhất định của

nền
kinh tế, đồng thời phải có sự kết hợp các điều kiện khác
một cách đồng bộ. Do vậy, việc phát
triển
thị trường TPDN ở các nước đang
phát triển như nước ta gặp nhiều khó khăn cho nên cần phải có một khoảng
thời gian
đủ
dài để nền kinh tế chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết liên quan.
1.3.4. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tương quan với sự phát triển
của thị trường các công cụ tài chính khác
Giống như cổ phiếu, TPCP,… TPDN cũng là một hàng hóa trên thị
trường tài chính. Bởi vậy, trong thị trường TPDN luôn tồn tại sự cạnh tranh
giữa các trái phiếu với nhau, mặt khác, khi tham gia vào thị trường tài chính,
TPDN lại tiếp tục cạnh tranh với những công cụ khác trên thị trường. Tuy
nhiên,bên cạnh quan hệ cạnh tranh, giữa các công cụ tài chính còn có quan hệ hỗ
trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển.
Một số nghiên cứu cho thấy, thị trường TPDN có mối liên hệ khá chặt chẽ
với sự phát triển của thị trường tiền gửi và thị trường tín dụng Ngân hàng. Các
mối liên hệ này có thể là cùng chiều, có thể là ngược chiều, đôi khi có thể bù trừ
hoặc không thể bù trừ cho nhau.
1.4. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
1.4.1. Điều kiện phát hành
1.4.1.1. Phát hành trong nước
a) Đối với trái phiếu không chuyển đổi
- DN có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày DN chính thức
đi vào hoạt động;
- Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát
13
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092

hành phải có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước
hoặc tổ chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Báo
cáo tài chính được kiểm toán của DN phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý
kiến chấp nhận toàn phần. Trường hợp DN phát hành trái phiếu trước ngày 01
tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính năm của năm liền kề được kiểm toán
thì phải có:
 Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi;
 Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh có lãi được kiểm toán (nếu có);
 Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên
hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt theo Điều lệ hoạt động của công
ty.
- Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế khác về đảm bảo an
toàn trong hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định
tại pháp luật chuyên ngành;
- Có phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
và chấp thuận.
b) Đối với trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền
DN phát hành ngoài việc đáp ứng những điều kiện nêu trên thì còn phải
đáp ứng các điều kiện sau:
- Thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu
kèm theo chứng quyền;
- Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các DN Việt Nam theo
quy định của pháp luật hiện hành;
- Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06)
tháng.
1.4.1.2. Phát hành ra thị trường quốc tế
a) Đối với trái phiếu không chuyển đổi

- DN phát hành có thời gian hoạt động tối thiểu là ba (03) năm kể từ ngày
chính thức đi vào hoạt động;
- Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của ba (03) năm liên tiếp liền kề
trước năm phát hành phải có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm
toán Nhà nước hoặc tổ chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp ở
Việt Nam. Báo cáo tài chính được kiểm toán của DN phát hành trong 3 năm liên
14
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
tiếp liền kề trước năm phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến chấp nhận
toàn phần;
- Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế khác về đảm bảo an
toàn trong hoạt động đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định
tại pháp luật chuyên ngành;
- Trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải được NHNN xác nhận thuộc
tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng năm được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt;
- Đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế về hệ số tín nhiệm để phát hành
trái phiếu. Riêng đối với DNNN phải đảm bảo có hệ số tín nhiệm tối thiểu bằng
hệ số tín nhiệm quốc gia;
- Phương án phát hành trái phiếu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
và chấp thuận;
- DN phát hành đã hoàn chỉnh hồ sơ phát hành theo đúng luật pháp của thị
trường phát hành áp dụng cho từng đợt, từng hình thức phát hành.
b) Đối với trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu kèm chứng quyền
DN ngoài việc phải đáp ứng các điều kiện kể trên thì còn phải đáp ứng các
điều kiện sau:
- Thuộc đối tượng được phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu
kèm theo chứng quyền;
- Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các DN Việt Nam
theo quy định của pháp luật hiện hành;

- Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06)
tháng.
1.4.2. Trình tự phát hành
1.4.2.1. Phát hành trong nước
- Thông qua phương án phát hành: sẽ do Đại hội đồng cổ đông thông qua
nếu là trái phiếu chuyển đổi; Hoặc sẽ do Hội đồng quản trị thông qua nếu là trái
phiếu không chuyển đổi;
- Công bố thông tin về đợt phát hành:
+ Công bố thông tin về việc phát hành trên 03 số báo liên tiếp của 01 tờ báo
Trung ương hoặc 01 tờ báo địa phương;
+ Niêm yết công khai các thông tin về báo cáo tài chính năm trước năm phát
hành được kiểm toán;
+ Phương án phát hành trái phiếu được Hội đồng cổ đông hoặc hội đồng
quản trị thông qua;
+ Kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với tổ chức phát
hành trái phiếu và loại trái phiếu phát hành (nếu có);
15
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
+ Và quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của công ty tại trụ sở
của tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành, tổ chức đấu
thầu và các địa điểm phân phối trái phiếu.
- Tổ chức phát hành: công ty được quyền lựa chọn phương thức phát hành
(tự mình thực hiện hoặc thông qua các tổ chức như tổ chức bảo lãnh phát hành,
đại lý phát hành, đại lý thanh toán; tự lựa chọn NĐT hoặc thông qua phương thức
đấu giá…
1.4.2.2. Phát hành ra nước ngoài
- Lựa chọn tổ hợp các Ngân hàng bảo lãnh phát hành: người phát hành lựa
chọn một số Ngân hàng đầu tư quốc tế hàng đầu trên Thế giới, có kinh nghiệm
trong lĩnh vực phát hành trái phiếu làm tổ hợp Ngân hàng bảo lãnh phát hành cho
đợt phát hành trên cở sở chào thầu cạnh tranh theo các tiêu chí cụ thể và danh

sách các Ngân hàng do các tạp chí uy tín quốc tế bình chọn;
- Lựa chọn các tư vấn pháp lý: người phát hành phối hợp với tổ hợp các
Ngân hàng bảo lãnh lựa chọn các công ty luật có uy tín và kinh nghiệm trong và
ngoài nước làm tư vấn pháp lý trong nước, tư vấn pháp lý quốc tế cho người phát
hành và người bảo lãnh phát hành;
Đối với TPDN là công ty luật có đầy đủ năng lực pháp lý được lựa chọn
làm tư vấn về các quy định liên quan đến giao dịch phát hành và là người đưa ra
ý kiến pháp lý cho giao dịch.
- Hoàn thiện hồ sơ phát hành: người phát hành chủ trì, phối hợp với tư vấn
pháp lý trong nước đàm phán, ký kết các hợp đồng với tổ hợp các Ngân hàng bảo
lãnh, các tư vấn pháp lý quốc tế và chuẩn bị các tài liệu trong hồ sơ phát hành
phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp của Việt Nam;
- Đánh giá hệ số tín nhiệm: người phát hành chủ trì , phối hợp với các cơ
quan liên quan của Việt Nam tổ chức làm việc với các cơ quan đánh giá hệ số tín
nhiệm để xác nhận hệ số tín nhiệm quốc gia trước đợt phát hành (trong trường
hợp phát hành TPCP). Đối với DN, việc xác định hệ số tín nhiệm tùy thuộc vào
yêu cầu của từng đợt phát hành.
- Tổ chức quảng bá và thực hiện phát hành: việc tổ chức quảng bá chào bán
trái phiếu do người phát hành thực hiện tùy thuộc yêu cầu của từng hình thức
phát hành, cụ thể:
+ Người phát hành phối hượp với tổ chức các Ngân hàng bảo lãnh phát hành
tổ chức chiến dịch quảng bá trái phiếu tại các trung tâm tài chính lớn trên Thế
giới để tiếp xúc với cộng đồng các NĐT quốc tế trước khi thực hiện việc định giá
để phát hành trái phiếu;
16
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
+ Người phát hành quyết định các điều kiện, lãi suất danh nghĩa, các điều
khoản phát hành trái phiếu trong quá trình định giá trái phiếu trên cơ sở tư vấn
của tổ hợp các Ngân hàng bảo lãnh phát hành, phù hợp với điều kiện thị trường
và các nguyên tắc nêu tại đề án phát hành đã được phê duyệt;

+ Người phát hành tổ chức việc tiếp nhận nguồn vốn trái phiếu đã phát hành
theo đúng thỏa thuận đã ký;
- Hoàn tất giao dịch phát hành: sau khi nhận tiền bán trái phiếu, người phát
hành hoàn tất và ký kết các văn bản pháp lý kết thúc giao dịch phù hợp với thông
lệ quốc tế, đông thời báo cáo kết quả phát hành theo quy định hiện hành.
1.4.3. Phương thức phát hành
Phương thức phát hành TPDN là hình thức để DN đưa trái phiếu ra bán
cho các NĐT. Thông thường có các phương thức phát hành phổ biến sau đây:
- Đấu thầu phát hành trái phiếu;
- Bảo lãnh phát hành trái phiếu;
- Đại lý phát hành trái phiếu;
- Bán trực tiếp cho NĐT trái phiếu (trong trường hợp DN phát hành là tổ
chức tín dụng).
17
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về nền kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam thời gian qua
2.1.1. Bối cảnh nền kinh tế
Trong khoảng 2 năm trở lại đây nền kinh tế Thế giới được xem là rơi vào
trạng thái “u ám nhất” kể từ những ngày khủng hoảng năm 2008-2009. Trong khi
kinh tế Mỹ và Nhật Bản tăng trưởng một cách “ì ạch”, thì Chấu Âu vẫn đang
“vùng vẫy” trong cuộc khủng hoảng nợ công. Ngay cả các nền kinh tế mới nổi có
tốc độ tăng trưởng khá nhanh như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil…cũng phải đối
mặt với đà suy giảm kinh tế.
Báo cáo Tình hình và Triển vọng kinh tế Thế giới năm 2013 của Liên hợp
quốc công bố trong những tuần cuối năm , dự bào kinh tế toàn cầu tăng trưởng
2.2% trong năm 2012 thấp hơn so với mức dự báo 2.5% hồi tháng 6/2012 và tiếp
tục tăng trưởng dưới tiềm năng với mức tăng dự báo 2.4 % năm 2013 và 3.2%

năm 2014. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế trước đó, Tổ chức Hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) cũng hạ dự báo và tăng trưởng kinh tế Thế giới năm 2012
và 2013 từ 3.4% và 4.2% xuống còn 2.9% và 3.4%.
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu và kinh tế qoàn cầu yếu kém , nỗi lo
ngại về “vách đá tài chính” ở Mỹ, đà hồi phục của kinh tế toàn cầu chậm lại cộng
thêm những thách thức về cơ cấu và đầu tư yếu đi khiến cho các nền kinh tế mới
nổi tăng trưởng nhanh ở Châu Á, như Trung Quốc và Ấn Độ đánh mất đà tăng
trưởng.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng của Trung Quốc
năm 2012 chỉ đạt 7.9% nhỉnh hơn đôi chút so với ước đoán 7.5% của Chính phủ
nước này và là mức thấp nhất kể từu năm 1999.
Tuy nhiên báo cáo của Liên hợp quốc nhận định rằng, xét tương quan với
các khu vực khác, kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương năm 2012 vẫn khả quan
với tốc độ ước đạt 5.6% dù vẫn thấp hơn mức tăng trưởng dự báo 6.5% trước đó.
Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương ước đoán tăng 7.5% năm 2012 và 8.1%
năm 2013.
Đối với Việt Nam, cũng không thể tránh khỏi đà suy giảm kinh tế trên Thế
giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 còn 5.9 % thấp hơn so với 6.8% năm
2010. Và trong năm 2013 cũng chỉ đạt mức 5.03% (theo số liệu công bố của
Tổng cục thống kê) giảm 0.87% so với năm 2011.
18
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
Bảng 2.1: Tăng trưởng kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương
(Đơn vị: %)
Năm 2009 2010 2011 2012e 2013f
Đông Á và Thái Bình
Dương
7.5 9.7 8.3 7.5 8.1
Trung Quốc 9.2 10.4 9.2 8.1 8.6
In-đô-nê-sia 4.6 6.2 6.5 6.0 6.5

Ma-lay-sia -1.6 7.2 5.1 4.4 5.2
Phi-lip-pin 1.1 7.6 3.7 4.0 5.0
Thái Lan -2.3 7.8 0.1 4.3 5.2
Việt Nam 5.3 6.8 5.9 5.7 6.3
Các nước Đông Á
trừ Trung Quốc
(Nguồn: cập nhật tình hình kinh tế Châu Á và Thái Bình Dương, tháng 5/2012)
Trong bối cảnh này đòi hỏi Việt Nam phải có những chính sách phát triển
hợp lý để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng một
cách hợp lý và gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế,
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời cũng phải chú
trọng tới tình hình sức khỏe của các DN trong nước, vì sức khỏe của các DN
chính là sức khỏe của nền kinh tế. Năm 2011-2012 có khoảng 100.000 DN
ngừng hoạt động hoặc phá sản bằng 50% số DN rút khỏi thị trường suốt 20 năm
qua.
Nguyên nhân do tình hình kinh tế trong nước và Thế giới gặp nhiều khó
khăn như trên khiến sức mua và khả năng tiêu dùng trong và ngoài nước giảm.
Làm các DN không bán được hàng. Chỉ số tồn kho tại thời điểm 1/1/2013 tăng
21% so với cùng thời điểm năm trước. Với số lượng hàng tồn kho lớn như vậy
DN sẽ không thể có khả năng quay vòng vốn để tái đầu tư. Thậm chí còn nhiều
DN chấp nhận bán lỗ. Đồng thời trong giai đoạn này hệ thống Ngân hàng cũng
gặp nhiều khó khăn nên việc vay vốn tín dụng không hề dễ dàng, nhất là đối với
các DN vừa và nhỏ. Do đó đòi hỏi các DN phải tìm cho mình những nguồn vốn
thích hợp khác để có thể duy trì hoạt động và tồn tại.
2.1.2. Thực trạng thị trường tài chính
Năm 2000, đánh dấu một cột mốc đáng chú ý, có ảnh hưởng lớn và đáng
tự hào nhất đối với thị trường tài chính Việt Nam. Đó là sự ra đời của TTCK,
một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Ngày 20/07/2000 Trung tâm
Giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động và đến
ngày 08/03/2005 Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng đã chính thức

19
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
chào đời. Tù khi TTCK ra đời đã tạo nên bước chuyển nhảy vọt quan trọng. Thị
trường tài chính có thêm một kênh huy động vốn giải quyết áp lực đối với nguồn
vốn vay tín dụng Ngân hàng từ trước đến nay vẫn là nguồn huy động vốn chủ
yếu của DN. Đồng thời thị trường tài chính cũng bùng nổ với hàng loạt các quỹ
đầu tư trong nước và nước ngoài ra đời, các NHTM cổ phần nhiều hơn, mức độ
huy động vốn lớn hơn, tạo ra một sức mạnh lớn cho nền kinh tế.
Năm 2010 cũng đánh dấu chặng đường 10 năm của TTCK Việt Nam. Thị
trường cũng đã có những phát triển vượt bậc.
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước
đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
TTCK đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính
thanh khoản của thị trường. Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu
được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị
(tăng 3,93 lần) và tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó. Tốc độ
luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần năm 2006 lên
0.64 vào năm 2007, 0.68 lần vào năm 2008 và đạt khoảng 1.13 lần năm 2009.
Số lượng các NĐT tham gia TTCK ngày càng đông đảo cùng với việc
nhận thức và sự tham gia của cộng đồng vào TTCK ngày càng được nâng cao. Số
lượng nhà NĐT nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đã gia tăng đáng kể.
Năm 2011 và năm 2012, TTCK Việt Nam tồn tại khá nhiều bất ổn do cả
những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Giá cả chứng khoán trên thị trường
biến động khó lường
Đối với nguồn vốn tín dụng Ngân hàng, ngành Ngân hàng tăng trưởng
nhanh cả về số lượng và quy mô tài sản trong giai đoạn 2000-2010, cũng trong
giai đoạn này tín dụng trung bình tăng 32% cao hơn mức tăng 29% của huy động
và 7.15% của GDP. Mức tăng này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của hệ thống
Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Năm 2012 là một năm xuống dốc của hệ thống Ngân hàng. Tín dụng tăng
trưởng thấp nhất trong 20 năm qua. Theo số liệu của NHNN, tín dụng của toàn
hệ thống tăng 4.85% trong 11 tháng đầu năm ước tăng 5 - 5.5% trong cả năm
2012. Tốc độ tăng nợ xấu ở mức báo động, khi chỉ trong 9 tháng đầu năm tăng
66% so với cuối năm 2011, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống đến cuối tháng 9 là
8.82% trên tổng dư nợ cả năm vào khoảng 8.5 – 10%.
Bảng 2.2: Tình hình nợ năm 2011-2012
Năm 2011 2012
20
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
Nợ công 54.9% GDP 55.4% GDP
Nợ xấu / tổng dư nợ 3.80% 8.8% - 10%
(Ngồn: tổng hợp)
Tình trạng này ảnh hưởng rất lớn việc huy động vốn của DN qua kênh tín
dụng Ngân hàng, các DN sẽ rất khó khăn trong việc vay vốn tín dụng Ngân hàng
nhất là các DN vừa và nhỏ.
2.2. Thực trạng hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
2.2.1. Thực trạng phát hành trái phiếu
2.2.1.1.Giai đoạn trước năm 2006
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày
17/09/1994 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của DNNN, thị trường trái phiếu bắt
đầu manh nha hình thành. Tuy nhiên trên thực tế số lượng DN huy động vốn qua
phát hành trái phiếu còn rất ít, điều này cho thấy kênh huy động vốn qua phát
hành trái phiếu còn rất hạn chế và quá mới mẻ đối với DN. Trong khoảng thời
gian này, kênh cấp vốn cho DN chủ yếu là thông qua tín dụng Ngân hàng hoặc
Ngân sách Nhà nước, hoạt động huy động vốn trực tiếp trên thị trường hầu
như chưa phát triển. Các tổ chức phát hành trong giai đoạn này chủ yếu là
các tổ chức tín dụng và rất ít DN phát hành trái phiếu.
Công ty xi măng Hoàng Thạch và Nhà máy xi măng Anh Sơn là hai đơn
vị đi tiên phong trong việc thực hiện Nghị định 120/1994/NĐ-CP. Trong năm

1994, Công ty xi măng Hoàng Thạch đã phát hành 44,45 tỷ đồng trái phiếu
kỳ hạn 4 năm, Nhà máy xi măng Anh Sơn phát hành 7,7 tỷ đồng trái phiếu kỳ
hạn 3 năm và 5 năm. Năm 1997, đề án phát hành trái phiếu của Công ty thép
Miền Nam được Bộ Tài chính phê duyệt với khối lượng huy động dự kiến là
9,2 tỷ đồng, thời hạn trái phiếu từ 25 – 30 năm, lãi suất công bố hàng năm và
được tính toán dựa trên kết quả kinh doanh của DN. Đối tượng mua trái phiếu
này chủ yếu là cán bộ công nhân viên của công ty. Cùng với trái phiếu của
những công ty trên, còn có một khối lượng đáng kể trái phiếu của các tổ chức
tín dụng cũng đã được phát hành theo Quyết định 212/QĐ/NH1 ngày 22/9/1994
của Thống đốc NHNN về việc ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM,
Ngân hàng đầu tư, và hướng dẫn phát hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng.
Trong thời gian này có rất ít các Công ty cổ phần phát hành trái phiếu, mãi
tới năm 1996 Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) đã phát hành trái phiếu
chuyển đổi ngày 01/7/1996 với tổng mệnh giá 5 triệu USD được chuyển đổi
thành cổ phiếu vào năm 1998 theo hệ số chuyển đổi đã được xác định trước khi
phát hành. Năm 2001, Công ty cổ phần công nghệ thông tin (EIS) cũng đã
21
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
phát hành trái phiếu chuyển đổi với tổng mệnh giá 10 tỷ đồng, thời hạn 3 năm
và được chuyển đổi vào năm 2004 với hệ số chuyển đổi được xác định trước.
Tính đến thời điểm cuối năm 2004, cả nước có thêm một số công ty thực hiện
phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn như: Công ty tài chính
dầu khí (PVFC) phát hành 300 tỷ đồng (2003), Tổng công ty điện lực Việt
Nam (EVN) phát hành 300 tỷ đồng (2003), Tổng công ty xi măng phát hành
200 tỷ đồng (2003), Công ty tài chính tàu thủy phát hành 50 tỷ đồng (2004),
Công ty tài chính cao su phát hành 300 tỷ đồng (2004). Năm 2005, Tổng công
ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) phát hành trái phiếu với tổng
mệnh giá là 1.000 tỷ đồng, Tổng công ty điện lực Việt Nam và Tổng công ty
Sông Đà phát hành trái phiếu với cùng tổng giá trị là 200 tỷ đồng. Cũng trong
năm 2005, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã tổ chức đấu giá phát hành

thành công 1.375 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi trong thời gian 7 năm. Kết thúc
giai đoạn này, Công ty tài chính dầu khí (PVFC) đã trở thành đơn vị “khóa sổ”
Nghị định 120/CP trong tháng 6/2006 với tổng giá trị trái phiếu phát hành ra thị
trường đạt 700 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, việc phát hành trái phiếu quốc tế để
huy động vốn nước ngoài cũng đã được cụ thể hóa trong Nghị định
23/1994/NĐ-CP của Chính phủ, song trên thực tế chưa có NHTM quốc doanh
hay DNNN nào phát hành trái phiếu theo Nghị định này. Nguyên nhân chủ yếu
là do Việt Nam có định mức tín nhiệm rất thấp trên thị trường vốn quốc tế nên
mức bù rủi ro đối với trái phiếu Việt Nam rất cao, dẫn đến chi phí cho việc
phát hành cao, vượt quá khả năng chịu đựng của các DN trong nước.
Như vậy có thể thấy rằng, trong giai đoạn 1994 – 2006, dù Nhà nước đã
ban hành những quy định tạo điều kiện cho các DN phát hành trái phiếu để
huy động vốn nhưng trên thực tế phương thức này vẫn chưa được các DN quan
tâm và vận dụng một cách phổ biến, giá trị vốn huy động thông qua trái phiếu
trong giai đoạn này vẫn còn quá ít so với nhu cầu và tiềm lực của các DN. Thị
trường TPDN trong giai đoạn này chỉ mới ở mức khởi đầu và còn rất sơ khai.
Tổng giá trị TPDN lưu hành trên thị trường trong năm 2005 chỉ đạt 110 triệu
USD, chiếm tỷ trọng 2,48% toàn thị trường và 0,2% GDP. Tuy nhiên, sự ra đời
của thị trường TPDN trong giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bước
đầu mở ra và giúp các DN làm quen với một kênh huy động vốn mới với nhiều
tiện ích, là tiền đề để từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường vốn nói
chung và thị trường TPDN nói riêng trong những giai đoạn tiếp theo.
2.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
22
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
Năm 2006, sự ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành TPDN
đã tạo bước ngoặt mới cho sự phát triển thị trường TPDN Việt Nam. Chủ thể phát
hành trái phiếu được mở rộng hơn, không chỉ có DNNN như trước đây, mà bao
gồm cả Công ty TNHH, Công ty cổ phần, DN có vốn đầu tư nước ngoài. Điều

kiện để phát hành TPDN cũng thoáng hơn rất nhiều.
Nếu như giai đoạn trước năm 2006, thị trường TPDN mới chỉ bắt đầu ở
thời kỳ hình thành với quy mô thị trường nhỏ và không đáng kể thì trong giai
đoạn từ năm 2006 đến nay, thị trường TPDN Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc. Tổng giá trị trái phiếu phát hành trong năm 2006 lên đến khoảng
22.000 tỷ đồng (bao gồm cả trái phiếu của các NHTM), trong đó Tổng công ty
điện lực Việt Nam (EVN) là 6.000 tỷ đồng, Vinashin là 2.600 tỷ đồng, Tổng
công ty Sông Đà là 260 tỷ đồng, Công ty tài chính dầu khí (PVFC) là 365 tỷ
đồng, Công ty CP đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP. HCM (CII) huy động được
131,5 tỷ đồng, Công ty cổ phần May Nhà Bè là 36 tỷ đồng …Bên cạnh các
DN trên, trong năm 2006, một số tổ chức tín dụng cũng đã tiến hành huy động
vốn thông qua phát hành trái phiếu với quy mô lớn như: Ngân hàng Đầu tư –
phát triển Việt Nam BIDV (5.000 tỷ đồng), Ngân hàng Nông nghiệp & phát
triển nông thôn Việt Nam (5.000 tỷ đồng), Ngân hàng Phát triển nhà Đồng
bằng sông Cửu Long – MHB (1.500 tỷ đồng), Ngân hàng Thương mại cổ phần
Sài Gòn – SCB (1.000 tỷ đồng), Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội –
MB (220 tỷ đồng)…
Năm 2007, thị trường TPDN Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng mạnh mẽ
cả về số lượng DN lẫn giá trị trái phiếu phát hành. Số lượng DN đã tiến hành
huy động vốn thông qua kênh phát hành trái phiếu trong năm 2007 là khoảng
27 DN (bao gồm cả các NHTM) với tổng giá trị vốn huy động được vào khoảng
36.000 tỷ đồng. Trong số này có một số DN đã phát hành trái phiếu với quy mô
khá lớn như: Vinashin (8.000 tỷ đồng), Công ty tài chính dầu khí PVFC (1.000
tỷ đồng), Tổng công ty xuất nhập khẩu và xây dựng Vinaconex (1.000 tỷ
đồng), Tập đoàn công nghiệp than & khoáng sản Việt Nam – Vinacomin (1.500
tỷ đồng), Lilama (1.500 tỷ đồng), Tổng công ty thương mại Sài Gòn – Satra
(1.000 tỷ đồng), Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( BIDV)
(3.000 tỷ đồng), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn SCB (1.400 đồng),
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (4.170 tỷ đồng), Techcombank (1.750
tỷ đồng)…

Mặc dù trong năm 2008, thị trường tài chính nói chung và thị trường trái
phiếu Việt Nam nói riêng không tránh khỏi ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính
23
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
Thế giới nhưng xét trên tổng thể thì thị trường TPDN Việt Nam vẫn có những
bước phát triển nhất định. Trong năm 2008, đã có một số DN lựa chọn giải
pháp phát hành trái phiếu ra thị trường để huy động vốn. Công ty cổ phần Địa
ốc Sài Gòn thương tín (Sacomreal) đã thực hiện 2 đợt phát hành vào tháng 2 và
3/2008 với tổng mệnh giá cả 2 đợt là 850 tỷ đồng. Trong tháng 02/2008, Ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu cũng đã phát hành trái phiếu ra thị trường với
tổng giá trị đạt 1.350 tỷ đồng. Tiếp nối thành công trong năm 2007, Công ty cổ
phần Vincom cũng đã công bố phát hành thành công trái phiếu trong tháng
4/2008 với tổng mệnh giá đạt 2.000 tỷ đồng. Trong năm 2008 có 2 gương mặt
mới lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường TPDN là Công ty cổ phần Du lịch &
thương mại Vinpearl (tháng 5/2008) và Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai
(tháng 9/2008). Hai công ty này đã chính thức gia nhập thị trường TPDN
bằng việc phát hành ra thị trường 1.000 tỷ đồng trái phiếu cho mỗi công ty trong
năm 2008. Bên cạnh đó, một số DNNN cũng đã huy động được vốn từ thị
trường TPDN trong năm 2008 như: Công ty tài chính dầu khí PVFC (1.500 tỷ
đồng), Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin (650 tỷ đồng),
Tổng công ty đường cao tốc Việt Nam (VEC) được Chính phủ bảo lãnh cũng
đã phát hành trái phiếu đạt 28% so với kế hoạch đề ra trong 2008.
Tiếp đà phát triển, năm 2009, trên thị trường có khoảng 39 giao dịch phát
hành TPDN với tổng khối lượng vốn huy động đạt gần 30.000 tỉ đồng. Đến năm
2010 có 45 giao dịch phát hành với tổng vốn huy động đạt gần 45.500 tỷ đồng.
Năm 2011, tổng khối lượng phát hành TPDN đạt trên 6000 tỷ đồng, giảm
10% tổng giá trị phát hành năm 2010. Phần lớn các tổ chức phát hành là các DN
vừa và nhỏ, sử dụng trái phiếu như sản phẩm thay thế cho khoản vay và người
mua là tổ chức tín dụng không chào bán ra thị trường. Hoạt động trầm lắng của thị
trường TPDN trong năm 2011 là do Chính phủ áp dụng chính sách tiển tệ và tài

khóa thắt chặt tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN và
từ đó hạn chế khả năng phát hành trái phiếu. Hơn thế nữa trong năm qua hàng loạt
quy định mới nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động phát hành TPDN được đưa
ra cũng là yếu tố hạn chế lượng trái phiếu phát hành.
Năm 2012, do tình hình sản xuất kinh doanh của các DN vẫn chưa được
cải thiện, nhưng DN lại khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
Ngân hàng. Do đó nhiều DN này quan tâm hơn tới kênh huy động vốn bằng phát
hành TPDN. Thị trường trong nước, tổng khối lượng phát hành thực tế đạt được
là 16.144 tỷ đồng. Trên thị trường quốc tê, Công ty cổ phần Vincom và
Vietinbank đã phát hành thành công 550 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc
24
Đề án lý thuyết tài chính - tiền tệ Tạ Văn Tuấn - CQ524092
tế.
Biểu đồ 2.1: Khối lượng TPDN phát hành thành công từ 10/2011-10/2012
2.2.2. Tình hình giao dịch trái phiếu trên thị trường
Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có một thị trường trái phiếu riêng biệt. Cơ cấu
TPDN trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khiêm tốn, năm
2012 chỉ chiếm khoảng 23%.
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu thị trường trái phiếu năm 2012
25

×