Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Quản lý nhà nước về các đối tượng giám định pháp y tâm thần tại trung tâm pháp y tâm thần khu vực tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.16 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN MẠNH HUỀ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÁC ĐỐI TƯỢNG GIÁM ĐỊNH
PHÁP Y TÂM THẦN TẠI TRUNG TÂM PHÁP Y TÂM THẦN
KHU VỰC TÂY NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………

BỘ NỘI
VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


TRẦN MẠNH HUỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÁC ĐỐI TƯỢNG GIÁM ĐỊNH
PHÁP Y TÂM THẦN TẠI TRUNG TÂM PHÁP Y TÂM THẦN
KHU VỰC TÂY NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CƠNG
Chun ngành: Quản lý cơng Mã số: 8 34
04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS : NGUYỄN TUẤN HƯNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn

Trần Mạnh Huề

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn “Quản lý nhà nước về các đối tượng
giám định pháp y tâm thần tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây

Nguyên” ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của cơ quan nơi
đang công tác, tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của các thầy,
cơ giáo Học viện Hành chính quốc gia, các cơ quan, ban ngành của tỉnh Đắk
Lắk.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Tuấn
Hưng là người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn giúp đỡ tơi thực hiện và hồn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo Khoa Đào
tạo và Bồi dưỡng, Học viện Hành chính quốc gia, Phân viện Hành chính Quốc
gia khu vực Tây Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp đỡ tơi
trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tơi
trong suốt q trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Trần Mạnh Huề

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI ...................................
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................
1.

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................


2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .................................

3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ..........................................................

3.1.

Mục đích .................................................................................

3.2.

Nhiệm vụ ...............................................................................

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn........................................

4.1.

Đối tượng nghiên cứu .............................................................

4.2.

Phạm vi nghiên cứu ...............................................................

5.


Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ....................

5.1.

Phương pháp luận ..................................................................

5.2.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể ............................................

6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................

6.1.

Ý nghĩa lý luận ......................................................................

6.2.

Ý nghĩa thực tiễn ...................................................................

7.

Kết cấu của luận văn .................................................................................

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIÁM ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN........................................
1.1.


Những vấn đề chung của quản lý nhà nước về giám định p

.. .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... .... ...

1.2.

Nội dung của quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm th

1.3.

Kinh nghiệm của quản lý nhà nước về giám định pháp y tâ

trung tâm, cơ sở giám định ..............................................................................
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................
iii


Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁM
ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN TẠI TRUNG TÂM PHÁP Y TÂM THẦN
KHU VỰC TÂY NGUYÊN.......................................................................... 36
2.1. Tổng quan về Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên.............36
2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giám định Pháp y tâm thần tại
Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên...........................................41
2.3. Đánh giá chung quản lý nhà nước về giám định Pháp y tâm thần tại
Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên...........................................52
Tiểu kết chương 2............................................................................................59
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁM ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN TẠI TRUNG
TÂM PHÁP Y TÂM THẦN KHU VỰC TÂY NGUYÊN..........................60
3.1. Phương hướng, mục tiêu hoàn thiện QLNN về giám định pháp y tâm thần

tại trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên.......................................60
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm thần tại
Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên...........................................65
3.3. Kiến nghị..................................................................................................75
Tiểu kết chương 3............................................................................................78
KẾT LUẬN.................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 80

iv


KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
QLNN
GĐPYTT
GĐV
HSSV
PYTT
RLTT
UBND

v


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Giám định pháp y tâm thần (GĐPYTT) hay gọi tắt là giám định tâm

thần là công tác được phối hợp thực hiện giữa các ngành y tế, cơng an, viện

kiểm sát và tịa án để nghiên cứu mối liên hệ giữa các trạng thái rối loạn tâm
thần với các vấn đề về dân sự và hình sự. Thực hiện giám định tư pháp là để
kết luận về chun mơn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành
chính theo từng nội dung được trưng cầu hoặc u cầu. Vì vậy, GĐPYTT có
vai trị đặc biệt quan trọng trong hoạt động tư pháp.
Trong những năm qua, hoạt động QLNN về giám định tư pháp nói
chung và GĐPYTT tại các trung tâm Pháp y tâm thần (PYTT) nói riêng, trong
đó có cơng tác QLNN về GĐPYTT tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên
đã đạt được những kết quả nhất định: Công tác thể chế từng bước được hoàn
thiện, hệ thống các văn bản pháp luật về giám định tư pháp ngày càng được
ban hành đầy đủ; số lượng giám định viên tư pháp được nâng lên cả về số
lượng và chất lượng; vấn đề kiện toàn tổ chức trong lĩnh vực pháp y và PYTT
, lĩnh vực kỹ thuật hình sự đã được quan tâm, đầu tư về con người, cơ sở vật
chất, phương tiện làm việc,… Sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan chức năng
như: Cơng an, Tư pháp, Viện kiểm sốt, Tịa án và các Viện GĐPYTT, Trung
tâm GĐPYTT khu vực sẽ ngăn chặn và hạn chế tối đa các đối tượng phạm tội
giả bệnh tâm thần hịng thốt tội và đặc biệt giúp cho các cơ quan quản lý nhà
nước (QLNN) nghiên cứu, sửa đổi hoàn thiện các quy định về QLNN trong
Bộ luật Tố tụng hình sự về giám định tư pháp; khẩn trương hoàn thành các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giám định tư pháp; các quy định về quy
trình, quy chuẩn trong giám định. Tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên,
mỗi năm Trung tâm giám định hàng ngàn trường hợp về sức khỏe tâm thần
bao gồm giám định tư pháp và các lĩnh vực dân sự khác. Trưng cầu giám định
1


trong lĩnh vực tâm thần như “tuyên bố mất năng lực” liên quan đến tư pháp,
dân sự ngày càng tăng. Kết luận giám định pháp y, PYTT được pháp luật quy
định là nguồn chứng cứ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó,

quy trình để giám định pháp y một người có mắc bệnh tâm thần hay khơng
địi hỏi phải tn thủ một cách nghiêm ngặt.
Tuy nhiên, đến nay, công tác QLNN về GĐPYTT tại Trung tâm PYTT
khu vực Tây Nguyên vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, cần sớm được
khắc phục, từ cơ chế, chính sách, cơ sở vật chất, nhận thức của các cấp chính
quyền, của tổ chức giám định, người giám định đến mối quan hệ phối hợp
giữa cơ quan chuyên môn quản lý về lĩnh vực giám định và cơ quan QLNN.
Một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả QLNN về GĐPYTT là
do nhận thức về bản chất, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác này cịn chưa
đầy đủ. Nguyên nhân này tác động không nhỏ đến tổ chức và hoạt động cũng
như chất lượng, hiệu quả của QLNN về GĐPYTT. Do vậy cần phải có những
giải pháp khắc phục để bảo đảm yêu cầu của hoạt động tố tụng và hiệu lực,
hiệu quả QLNN về GĐPYTT, góp phần nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành về vai trò, ý nghĩa của GĐPYTT đối với cải cách tư pháp, đối với việc
đảm bảo sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu của QLNN về GĐPYTT hiện nay.
Vì vậy, nhu cầu cấp thiết đặt ra là cần có nghiên cứu sâu, toàn diện về
nâng cao hiệu quả QLNN về GĐPYTT - từ thực tiễn tại Trung tâm PYTT khu
vực Tây Ngun là có tính cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả
chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về các đối tượng giám định pháp y tâm
thần tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý cơng.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan tới đề tài luận văn, hiện nay, khơng có nhiều đề tài nghiên

cứu, đánh giá QLNN về GĐPYTT. Tuy nhiên, các bài viết và các công trình
2



nghiên cứu khoa học đã tập trung nghiên cứu, xem xét ở nhiều khía cạnh lý
luận và thực tiễn về hoạt động GĐPYTT như sau:
-

Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp“Xã hội hóa hoạt động giám định

tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Trần Mạnh Đạt (2010), nghiên
cứu tổng thể và sâu sắc về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, những bất
cập, vướng mắc liên quan đến vấn đề đồng bộ và thống nhất các quy định của
pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự cũng được đề cập để đưa
ra các giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ các bất cập đó.
Luận văn thạc sỹ “Giám định tư pháp hình sự từ thực tiễn
thành
phố Hà Nội” - Học viện khoa học xã hội, của tác giả Ngô Mạnh Linh (2020).
Luận văn đã hệ thống hóa các cơ sở lý luận về giám định và giám định tư
pháp hình sự. Trên cơ sở đó, luận văn đã đánh giá được thực trạng giám định
tư pháp hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó đã đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao công tác giám định tư pháp hình sự sự trên địa bàn thành phố
Hà Nội
Luận văn "Quản lý nhà nước đối với tổ chức Giám định tư
pháp công
lập”,luận văn Thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh của tác giả Ngô Mạnh Linh. Luận văn nghiên cứu luận văn "Giám định
tư pháp hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội", các tác giả đã phân tích làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và pháp luật cũng như thực tiễn giám định tư
pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra dự báo và một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
thời gian tới.
-


Bài viết “Quy định pháp luật về giám định pháp y tâm thần& một số

kỹ năng pháp lý cơ bản của người giám định tư pháp", của tác giả Phạm Văn
Tuấn - Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, 2021.
-

“Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Nguyễn Thị

Loan (2015), Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Hà Nội. Nghiên cứu


3


các vấn đề lý luận và pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng hình sự
Việt Nam. Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động giám định tư pháp hình
sự ở nước ta; Rút ra nhận xét, đánh giá về thực tiễn giám định tư pháp trong tố
tụng hình sự Việt Nam; Dự báo về yêu cầu đặt ra đối với giám định tư pháp
trong tố tụng hình sự Việt Nam và đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả giám định tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam.
-

Bài viết "Nghiên cứu bệnh tâm thần và một số yếu tố thúc đẩy hành vi

phạm tội ở bệnh nhân tâm thần giám định nội trú"; Bệnh viện Tâm thần Trung
ương I, của tác giả Dương Văn Lương và cộng sự (2014), Cho thấy người
bệnh tâm thần hay có những hành vi gây hại cho bản thân và cho người khác,
làm mất trật tự an tồn xã hội nhiều khi đến mức tội phạm hình sự. Tuy ngày
nay chuyên ngành tâm thần đã có nhiều tiến bộ trong quản lý và điều trị

nhưng các hành vi nguy hiểm do người mắc bệnh tâm thần gây ra cho xã hội
vẫn còn chiếm tỷ lệ cao.
-

Bài viết “Vai trò và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám định

tư pháp trong giai đoạn hiện nay” của luật gia Trừ Minh Liên, đăng trên trang
tư pháp của Sở Tư pháp Quảng Bình cho thấy: Luật Giám định tư pháp năm
2012, định nghĩa Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng
kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết
luận về chun mơn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo
trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu
cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.
-

Ngơ Đình Thư (2008), nghiên cứu trên 49 đối tượng đã được giám

định PYTT tại bênh viên Tâm thần Huế trong 3 năm (2008 – 2010) cho thấy:
Tỷ lệ bệnh tâm thần gặp trong giám định PYTT là 87,8% tỷ lệ giả bênh tâm
thần là 12,2%. Gặp 6 nhóm bênh tâm thần: trong đó 3 nhóm bênh tâm thần
phân liêt, động kinh và châm phát triên tâm thần chiếm phần lớn (75,6%).
4


Bênh nhân nam nhiều hơn bênh nhân nữ tỷ lê 48/1 (98,0% nam). Các yếu tố
thúc đẩy hành vi phạm tội: Do nhân tố bệnh lý tâm thần chi phối chiếm
53,1%; các yếu tố gia đình chiếm 14,3%. Yếu tố xã hội chiếm 18,4%; các yếu
tố khác chiếm 8,2%. Phạm tội trong giai đoạn bệnh tiến triển là 77,6% bệnh
nhân, trong giai đoạn bệnh ổn định là 10% bệnh nhân [27, tr.36-38]. Kết quả

nghiên cứu của tác giả Ngơ Đình Thư cho thấy nhóm tuổi bệnh nhân gặp
trong GĐPYTT chủ yếu là độ tuổi 20-39 (36/49) chiếm 75,5% tiếp đến là
nhóm tuổi 40- 49 chiếm 10,2% và nhóm <20 tuổi chiếm 10,2%; nghiên cứu
cho thấy khơng có sự khác nhau về khơng nghề và có nghề nghiệp. Nghề
nghiêp chủ yếu là nghề tư do (lao động làm thuê, xe thô…) 31%, làm ruộng
10,2%, không nghề 55,0%, kết quả này cũng giống kết quả nghiên cứu của
Trần Văn Cường (1996), [5, tr.32] và của Đường Khắc Tám (1995).
-

Nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng và hành vi phạm tội ở bệnh nhân

động kinh trong giám định pháp y tâm thần” của Trần Văn Cường (1996), cho
thấy yếu tố bệnh lý là 62,5%, yếu tố bên ngồi là 15,6%. Trong nhóm yếu tố
bệnh lý, rối loạn nhân cách chiểm tỷ lệ 43,8%. Yếu tố bên ngoài là:15,5%;
yếu tố nhân cách chiếm tỷ lệ cao nhất 43,8% [4, tr. 24-32].
-

Bài viết "Nghiên cứu một số trường hợp chậm phát triển tâm thần

trong giám định PYTT”, Bệnh viện Tâm thần TW I . Của tác giả Trần Cao
Cường, Ngô Văn Vinh (2011), cho thấy tỷ lệ người chậm phát triển tâm thần
khoảng 1% dân số. Nguyên nhân phát sinh bệnh do nhiễm yếu tố gây nên.
Song về bệnh tật thì có những tính chất giống nhau nhưng mỗi người bệnh lại
chịu ảnh hưởng của các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau tác động, bởi vậy
hậu quả gây ra ở mỗi trường hợp rất khác biệt và phức tạp khi thì gây rối loạn
trật tự xã hội, khi thì đe doạ tính mạng con người. Đối với người bệnh cần
quản lý điều trị ngăn ngừa hành vi xấu có thể xảy ra. Người bệnh chậm phát
triển tâm thần có được xem xét miễn giảm một phần năng lực trách nhiệm của
mình khi phạm pháp tuỳ thuộc vào mức độ bệnh của người đó.
5



-

Lâm Giang, Lê Hoàng Vũ và cộng sự (2017), “Nghiên cứu tỷ lệ các

rối loạn tâm thần và một số yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở các đối tượng
giám định nội trú giai đoạn 2015-2016”. Trung tâm PYTT khu vực
Giám định pháp y tâm thần: Không để tội phạm lợi dụng thoát
tội, bài
viết trên trang Báo điệm tử Chính phủ của tác giả Thúy Hà - Hồng Ginag cho
thấy theo cơ quan y tế, việc giám định PYTT dù có quy trình chặt chẽ đến
mấy cũng cịn hết sức khó khăn như việc bệnh nhân giả bệnh hoặc giả tăng
triệu chứng nên phải hết sức cảnh giác trước những “chiêu trị”, quan trọng
hơn đó là năng lực, y đức và bản lĩnh của những y bác sỹ. Vấn đề y đức của
các y bác sĩ phải được đặt lên hàng đầu. Giám định viên PYTT ngoài việc có
trình độ chun mơn sâu, có nghiệp vụ giám định tư pháp cịn cần phải có đầy
đủ kiến thức về pháp luật, phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về
kết luận giám định của mình.
Mặc dù số lượng các cơng trình nghiên cứu về Hoạt động PYTT tại Việt
Nam cịn ít và chưa nghiên cứu sâu về vấn đề này. Những cơng trình khoa học
trên là tài liệu vơ cùng q báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan
trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn. Nhìn chung, tác giả nhận thấy
các đề tài nghiên cứu hầu hết có đề cập đến tổ chức giám định tư pháp nói
chung, nhưng chưa có sự phân tích cụ thể về QLNN về GĐPYTT, đặc biệt
chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu và tồn diện về QLNN về các đối
tượng giám định PYTT tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên.về các đối
tượng giám định PYTT tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên.
Vì vậy, nhu cầu cấp thiết đặt ra là cần có nghiên cứu sâu, toàn diện về nâng
cao hiệu quả QLNN về GĐPYTT - từ thực tiễn tại Trung tâm PYTT khu vực

Tây Ngun là cần thiết và có tính cấp bách hiện nay.

6


3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý của
QLNN về GĐPYTT, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng của QLNN
về GĐPYTT tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên, từ đó đề xuất các
phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về GĐPYTT tại Trung tâm
PYTT khu vực Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
-

Nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận của QLNN về GĐPYTT.

Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về GĐPYTT tại Trung tâm

PYTT khu vực Tây Nguyên từ năm 2017 đến năm 2020, chỉ rõ kết quả, hạn
chế và nguyên nhân của kết quả, hạn chế của QLNN về GĐPYTT tại Trung
tâm PYTT khu vực Tây Nguyên.
-

Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về GĐPYTT


tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên hiện nay.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là QLNN về GĐPYTT tại Trung
tâm PYTT khu vực Tây Ngun dưới góc độ chun ngành quản lý cơng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng của QLNN

về GĐPYTT tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên;
-

Về thời gian: từ năm 2016 đến năm 2020.

Về không gian nghiên cứu: Tại Trung tâm PYTT khu vực
Tây
Nguyên.

7


5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật nhà nước của QLNN về giám định tư pháp và GĐPYTT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp nghiên cứu cụ thể
của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học
Mác - Lênin với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng kết thực tiễn,
thống kê, phân tích, so sánh, điển hình…
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận của QLNN về
GĐPYTT. Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn QLNN về GĐPYTT tại
Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên, tác giả luận văn đề xuất các giải pháp
để công tác QLNN về GĐPYTT được hoàn thiện hơn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp cho các nhà quản lý xác
định được khó khăn trong QLNN về GĐPYTT để có đầu tư nguồn lực cho
phù hợp. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn và pháp
luật về hoạt động GĐPYTT. Giúp cho các tổ chức liên quan có sự phối hợp
tốt hơn để khác phục các hạn chế, bất cập trong công tác QLNN về GĐPYTT
và hỗ trợ tư pháp.
Đề tài có thể sử dụng phục vụ công tác QLNN về GĐPYTT tại Trung
tâm PYTT khu vực Tây Nguyên cũng như làm tài liệu tham khảo, vận dụng ở
các Trung tâm PYTT khu vực khác trên phạm vi cả nước.

8



7.

Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội

dung luận văn gồm có 3 chương và 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của QLNN về GĐPYTT.
Chương 2: Thực trạng của QLNN về GĐPYTT tại Trung tâm PYTT
khu vực Tây Nguyên.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về GĐPYTT
tại Trung tâm PYTT khu vực Tây Nguyên.

9


Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ GIÁM ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN
1.1. Những vấn đề chung của quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm
thần
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm thần
-

Khái niệm quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là sự biểu hiện khả năng mà xã hội có thể sử dụng để
tổ chức và điều chỉnh cuộc sống của mình. Quản lý khơng phải là cái gì nằm
bên trên xã hội, bên ngồi con người. Quản lý là sự biểu hiện một chất lượng
nhất định của xã hội mà con người đến lúc ấy đã tạo ra được. Trong tự nhiên,

các hiện tượng xảy ra một cách ngẫu nhiên, tự phát, theo quy luật của tự nhiên
và trên cơ sở những quy luật ấy, thế giới động vật, thực vật phát triển một
cách tự nhiên. Nhưng đối với xã hội con người thì khác. Xã hội chỉ có thể phát
triển được nhờ ý thức của con người. Con người, nhờ có ý thức, đã nhận thức
được thế giới xung quanh mình, suy nghĩ về thế giới ấy và hình thành nên các
kế hoạch nhằm tác động vào giới tự nhiên để tạo dựng nên cuộc sống cho
mình. Nhưng con người cũng khơng làm và khơng thể làm được việc đó một
cách đơn độc. Nhờ ý thức, con người lại biết liên kết với nhau, hình thành nên
các quan hệ xã hội, nhằm thực hiện các lợi ích của mình. Bởi vậy, QLNN là
sự biểu hiện năng lực của con người trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan
hệ xã hội một cách có ý thức dưới các hình thức nhất định.
Thuật ngữ QLNN có thể được hiểu theo hai phạm vi: nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Quản lý nhà nước, theo nghĩa rộng, là tồn bộ hoạt động của nhà nước
nói chung, mọi hoạt động mang tính nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ,
chức năng của Nhà nước. Chủ thể của QLNN theo nghĩa rộng là tất cả các cơ
quan nhà nước của bộ máy nhà nước, tức là cả ba hệ thống cơ quan: lập pháp,
10


hành pháp và tư pháp. Nhân dân cũng là chủ thể của QLNN theo nghĩa rộng
khi thực hiện quyền trưng cầu dân ý – bỏ phiếu, toàn dân, hoặc tham gia quản
lý nhà nước bằng các hình thức khác. Các tổ chức xã hội, các cơ quan xã hội,
cũng là chủ thể của quản lý nhà nước theo nghĩa rộng nếu được Nhà nước trao
quyền thực hiện chức năng nhà nước.
Mặt khác, theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động chấp hành hiến pháp,
luật và điều hành trên cơ sở hiến pháp và các luật đó. Do đó, QLNN theo
nghĩa rộng bao hàm QLNN theo nghĩa hẹp. Đây là cách hiểu trong khoa học
luật hành chính xã hội chủ nghĩa cũng như ở Việt Nam từ trước đến nay. Chủ
thể của QLNN theo nghĩa hẹp chủ yếu là toàn bộ hệ thống các cơ quan hành

chính nhà nước.
Hoạt động hành chính nhà nước chính là hoạt động chấp hành và điều
hành nhà nước, bản chất của nó thể hiện ở hai khía cạnh chấp hành và điều
hành. Chấp hành là sự thực hiện trên thực tế các luật và các văn bản mang tính
chất luật của Nhà nước (các pháp lệnh và một số nghị quyết của Quốc hội),
các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên nói chung. Điều
hành là hoạt động dựa trên cơ sở luật để chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối
tượng bị quản lý. Đặc trưng của hoạt động điều hành là các cơ quan hành
chính (chủ thể quản lý) ra các văn bản dưới luật mang tính chủ đạo, quy phạm
hoặc cá biệt, và chúng được bảo đảm thực hiện bằng sự thuyết phục và khả
năng áp dụng cưỡng chế nhà nước.
-

Khái niệm giám định

Thuật ngữ“giám định” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh là “Expertus”, có
nghĩa là “kinh nghiệm”, “hiểu biết”.Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “giám định”
là “kiểm tra bằng phương pháp nghiệp vụ để có kết luận cụ thể”. Theo từ điển
bách khoa Việt Nam, “giám định” là “kiểm tra và kết luận về một hiện tượng
hoặc một vấn đề mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định. Cơng việc
giám định có thể do một giám định viên tư pháphoặc một nhóm người có kiến
11


thức, trình độ về lĩnh vực cần giám định và được cơ quan chuyên môn chỉ
định”.
Như vậy, “giám định” hiểu một cách khái quát là hoạt động khoa học,
sử dụng những kiến thức chuyên môn, phương tiện kỹ thuật để nghiên cứu,
xem xét, so sánh một hiện tượng, một sự vật giúp cho con người có nhận thức
khách quan để giải quyết vấn đề nào đó một cách chính xác trên cơ sở khoa

học.
-

Khái niệm pháp y tâm thần

Pháp y tâm thần là một bộ phận của Tâm thần học, phát triển cùng với
sự phát triển chung của ngành Tâm thần học. Nếu như Tâm thần bệnh học chỉ
chú ý nghiên cứu vấn đề chẩn đốn, tìm ngun nhân và tính chất bệnh với
mục đích chữa bệnh và phịng bệnh thì PYTT chủ yếu nghiên cứu mối liên hệ
đặc biệt của các trạng thái rối loạn tâm thần đối với những vấn đề dân sự và
hình sự. Cơng tác giám định PYTT có mối liên quan mật thiết giữa các ngành
Y tế, Cơng an, Viện kiểm sát, Tồ án.
Người bệnh tâm thần do bị rối loạn về ý thức, cảm xúc, tư duy và hành
vi tác phong,...dẫn đến chỗ phá hoại mối quan hệ đúng đắn giữa người bệnh
với tập thể, với xã hội.
Nhiều trường hợp làm mất khả năng lao động, khả
trong quân đội, khả năng
trách nhiệm về hành vi của mình.
Vì vậy nhiệm vụ của giám định PYTT là giúp đỡ
án xác định chính xác những bị
họ có bị bệnh tâm thần hay khơng? bệnh gì? mức độ bệnh ra sao? có
bệnh hoặc làm tăng
bị can đối với hành vi phạm pháp thế nào? ...
Giám định PYTT còn nhằm bảo vệ quyền lợi cho
thần cũng như trách nhiệm của xã hội về những thiệt thòi dân sự.


Pháp y tâm thần cịn có nhiệm vụ giám định trạng thái tâm thần của
người làm chứng và người bị thiệt hại nghi có rối loạn tâm thần trong
các vụ án hình sự cũng như các vụ kiện dân sự, giám định khả năng hành vi

dân sự và khả năng chịu trách nhiệm của những người

có liên

quan trong các vụ kiện dân sự mà nghi có rối loạn tâm thần.
Từ phân tích trên rút ra định nghĩa về PYTT như sau: là
một bộ phận của Tâm thần học, phát triển cùng với sự phát triển chung của
ngành Tâm thần học. Nếu như tâm thần bệnh học chỉ chú ý nghiên cứu vấn đề
chẩn đốn, tìm ngun nhân và tính chất bệnh với mục đích chữa bệnh và
phịng bệnh thì PYTT chủ yếu nghiên cứu mối liên hệ đặc biệt của các trạng
thái rối loạn tâm thần đối với những vấn đề dân sự và hình sự.
-

Khái niệm quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm thần

Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý, được sử dụng các
quyền lực nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong đó, QLNN mang tính quyền lực đặc biệt là
tính tổ chức cao và có mục tiêu, chiến lược, chương trình, kế hoạch để thực
hiện mục tiêu, hơn cả là QLNN ở Việt Nam mang nguyên tắc tập trung dân
chủ. QLNN khơng có sự tách biệt tuyệt đối giữa chủ thể quản lý và khách thể
quản lý và nó ln đảm bảo tính liên tục, ổn định trong tổ chức.
Trong bất kỳ một thể chế xã hội nào cũng cần có sự quản lý, đó là hoạt
động bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động là một hoạt động khách
quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Luận văn
này tập trung đi sâu phân tích “quản lý nhà nước” đối với tổ chức GĐPYT
theo nghĩa hẹp, tức là hoạt động của các cơ quan QLNN (tức là các cơ quan
hành chính nhà nước theo ngành) đối với tổ chức GĐPYTT
Hiện nay, chưa có khái niệm QLNN đối với tổ chức GĐPYTT. Trên cơ
sở khái niệm chung về QLNN và khái niệm giám định, có thể kết luận rằng,

QLNN đối với GĐPYTT là việc Nhà nước dùng các biện pháp, cơng cụ có
13


được, tác động lên các tổ chức GĐPYTT để tổ chức này hoạt động đúng định
hướng, mục tiêu do Nhà nước đặt ra.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: QLNN về GĐPYTT là quá trình
tác động, điều chỉnh thường xuyên của nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối
với hoạt động PYTT một cách có hiệu quả. Tổng thể các biện pháp và các
khâu của quản lý (lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, phối hợp điều hành và
kiểm tra, giám sát) nhằm tạo chuyển biến căn bản, đột phá về chất lượng và
hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt
động tố tụng, phòng, chống tội phạm, đồng thời tạo động lực mới thúc đẩy xã
hội hóa mạnh mẽ hoạt động giám định tư pháp.
1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm thần
Vai trò, vị trí của GĐPYTT tới hoạt động tố tụng là hết sức quan trọng
và đặc biệt. Ngoài ra, hoạt động này còn được pháp luật giao nhiệm vụ quản
lý, điều trị bắt buộc các đối tượng có rối loạn tâm thần, đánh giá mức độ tổn
hại về sức khỏe tâm thần của người bị hại, đánh giá năng lực chịu trách nhiệm
hành vi của nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng trong các vụ việc dân sự,
hành chính.
Giám định PYTT khơng mổ xác như pháp y mà mổ xẻ những ý thức rất
trừu tượng của con người, nghiên cứu đối tượng từ khi sinh ra cho đến khi xảy
ra vụ án và những diễn biến tư duy trong hiện tại. Đối tượng giám định được
làm các thử nghiệm đánh giá trí tuệ, khả năng nhận thức, xét nghiệm máu,
điện não, Xquang, thậm chí cần thiết cịn chụp CT, MRI...
Chính vì thế, giám định tâm thần cần thời gian để các giám định viên có
thể nắm bắt quy luật, theo dõi các thói quen sinh hoạt, diễn biến tâm lý và
những biểu hiện bất thường của người bệnh xảy ra trước khi gây án và trong
hiện tại...[40, tr.150].

Thực tế theo nhiều giám định viên trong nhiều vụ việc, đặc biệt những
vụ phức tạp, họ thường rất cần thêm thời gian để có thể đưa ra những kết luận
14


chắc chắn và chính xác. Tuy nhiên, trong thực tế thời gian giám định thường
eo hẹp bởi còn liên quan tới thời hạn điều tra, truy tố xét xử theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự. Thời gian giám định trung bình là một tháng dưới sự
theo dõi của cơ quan cơng an. Có nhiều trường hợp bệnh phức tạp, khó xác
định phải mất vài tháng, nửa năm, thậm chí là nhiều vụ án phải giám định đi
giám định lại nhiều lần. Bởi vì, có nhiều loại bệnh lý tâm thần rất khó nhận
diện. Lúc bệnh nhân phát bệnh, lúc không phát bệnh hoặc bị bệnh nhưng dưới
dạng “ẩn”. Thậm chí trong nhiều trường hợp, sự thất thường trong mức độ
nặng nhẹ của người bệnh cũng làm các giám định viên phải nghiên cứu đi
nghiên cứu lại. Mọi kết luận đều phải dựa trên những chứng cứ khoa học,
chính xác và phải tuyệt đối trung thực.
Là một thành phần của hệ thống tổ chức giám định tư pháp, GĐPYTT là
chuyên ngành khoa học nghiên cứu khả năng nhận thức, khả năng điều khiển
hành vi của người bệnh tâm thần ở từng thời điểm nhất định và trong suốt q
trình ủ bệnh và điều trị bệnh. Chính vì thế, các giám định viên cần có kiến thức
chun mơn vững vàng, giàu kinh nghiệm và đạođức lương tâm trong sáng, tâm
huyết và trách nhiệm cao với nghề bởi mỗi một quyết định họ đưa ra đều liên
quan chặt chẽ tới sinh mạng, tương lai của từng số phận con người [40].

Cơng tác GĐPYTT có mối liên quan mật thiết giữa các ngành Y tế,
Cơng an, Viện kiểm sát, Tồ án.
Người bệnh tâm thần do bị rối loạn về ý thức, cảm xúc, tư duy và hành
vi tác phong...dẫn đến chỗ phá hoại mối quan hệ đúng đắn giữa người bệnh
với tập thể, với xã hội. Nhiều trường hợp làm mất khả năng lao động, khả
năng phục vụ trong quân đội, khả năng sử dụng quyền công dân và khả năng

chịu trách nhiệm về hành vi của mình [40]. Vì vậy nhiệm vụ của GĐPYTT
giúp đỡ cho Cơng an, Tồ án xác định chính xác những bị can nghi có rối loạn
tâm thần, xác định họ có bị bệnh tâm thần hay khơng? Bệnh gì? mức độ bệnh
ra sao? có giả bệnh hoặc làm tăng triệu chứng bệnh không? trách nhiệm
15


của bị can đối với hành vi phạm pháp thế nào...? [40]. Giám định PYTT còn
nhằm bảo vệ quyền lợi cho bệnh nhân tâm thần cũng như trách nhiệm của xã
hội về những thiệt thịi dân sự. PYTT cịn có nhiệm vụ giám định trạng thái
tâm thần của người làm chứng và người bị thiệt hại nghi có rối loạn tâm thần
trong các vụ án hình sự cũng như các vụ kiện dân sự, giám định khả năng
hành vi dân sự và khả năng chịu trách nhiệm của những người có liên quan
trong các vụ kiện dân sự mà nghi có rối loạn tâm thần.
Trong QLNN về hoạt động GĐPYTT vấn đề quan trọng là vấn đề xác
định năng lực trách nhiệm hình sự. Giám định viên PYTT căn cứ tài liệu thực
tế về y học, nghiên cứu trạng thái tâm thần của bị can trong lúc phạm tội để
giải quyết vấn đề năng lực trách nhiệm.
Theo Điều 209 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Việc giám định có thể
tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau
khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định; Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải
báo trước cho người giám định biết; việc giám định do cá nhân hoặc do tập
thể thực hiện.
Do đó, trongt hoạt động QLNN về GĐPYTT nhằm kết luận về một
người có mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay khơng theo trưng cầu của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thực tế, nhiều vụ việc giám định phức tạp phải đồng thời tiến hành
nhiều hoạt động ở các chuyên khoa, chuyên ngành khác nhau, đòi hỏi người

kết luận phải tổng hợp, phân tích, đánh giá dưới nhiều góc độ, phải vận dụng
kết hợp nhiều thể loại tri thức, kiến thức thực tiễn, thậm chí với GĐPYTT,
giám định viên cịn rà sốt tồn bộ q trình sinh hoạt bình thường của đối
tượng giám định trong thời gian dài trước đó; trong giám định pháp y, văn hóa
hay giám định kỹ thuật hình sự và các lĩnh vực khác tương tự, người giám
16


định cần tổng hợp kết quả của nhiều công đoạn trước đó do vận hành máy
móc, thiết bị mang lại hoặc trực tiếp “xem” toàn bộ ấn phẩm phim, ảnh để có
nhận xét, đánh giá... hoạt động này địi hỏi người giám định phải tập trung cao
độ tâm trí, năng lực chun mơn để nhận thức và chuyển tải chính xác nội
dung vào bản kết luận giám định [40].
Để thực tốt yêu cầu này, người GĐPYTT ngoài việc am hiểu các quy
định của pháp luật thì cịn phải nghiên cứu kỹ những nội dung kết luận giám
định, nắm rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định cũng như những nguyên
tắc thực hiện giám định để chuẩn bị “tâm thế” trình bày kết luận giám định,
giải thích bổ sung về kết luận giám định, có thể giải thích phương pháp,
phương tiện tiến hành để giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định.
trả lời những câu hỏi của hội đồng xét xử, câu hỏi của những người tham gia
tố tụng khác. Trong trường hợp cần thiết, người giám định có thể đặt câu hỏi
đối với những người tham gia tố tụng khác. Việc trả lời câu hỏi cần rõ ràng,
ngắn gọn, đúng phạm vi chuyên môn, biết từ chối những câu hỏi có nội dung
ngồi phạm vi trách nhiệm [40].
Từ những vai trò quan trọng nêu trên, có thể thấy PYTT là một trong
những hoạt động bổ trợ tư pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể
thiếu trong bất kỳ nền tư pháp nào.
1.1.3. Các yếu tố tác động tới quản lý nhà nước về giám định pháp y tâm
thần
-


Về thể chế, tổ chức giám định, người giám định

Đây là một khâu đặc biệt quan trọng, theo đó hệ thống chính trị vừa
đóng vai trị định hướng, xây dựng cơ chế, chính sách, vừa đóng vai trị kiểm
tra, giám sát việc tổ chức thực hiện các chính sách chung của nhà nước, trong
đó có chính sách về phát triển ngành giám định tư pháp và PYTT. Để đạt
được mục tiêu QLNN về hoạt động GĐTP và PYTT, trước hết các văn bản
quy phạm pháp luật và cơ chế, chính sách ban hành về hoạt động GĐTP,
17


×