Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bài tập học kỳ hiến pháp vấn đề tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hội – lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.12 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử
tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri là một quan điểm lớn của Đảng ta từ trước
cho tới nay, điều này được thể chế hóa cụ thể trong các quy định của Hiến pháp
và Luật tổ chức Quốc hội. Để thực hiện tốt các chức năng lập pháp, chức năng
giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội mà trực
tiếp là người đại biểu Quốc hội cần phải giữ mối quan hệ thường xuyên và mật
thiết với cử tri. Vai trò của đại biểu Quốc hội phải là cầu nối của cử tri với Nhà
nước, kịp thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cử tri, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân, đảm bảo để mọi hoạt động của Quốc hội đều “do
nhân dân” và “vì nhân dân”.Với những lý do trên, em đã chọn đề tài số 4 : Vấn
đề tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội – lý luận và thực tiễn
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1. Khái niệm tiếp xúc cử tri và đại biểu quốc hội.
Tiếp xúc cử tri là một sinh hoạt chính trị, xã hội, có thể hiểu một cách chung
nhất, là việc đại biểu Quốc hội gặp gỡ, trao đổi với cử tri nhằm mục đích nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các cử tri. Tiếp xúc cử tri là dịp để tập
hợp các ý kiến của nhân dân; là cầu nối vững chắc giữa đại biểu với cử tri diễn
ra dưới nhiều hình thức ở mỗi địa phương.
Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là những công dân ưu tú trong các lĩnh vực hoạt
động của Nhà nước và xã hội được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu ra bằng tổng
tuyển cử tự do. Đó là những đại biểu chân chính của nhân dân. Các ĐBQH là
những người được bầu ra để thay mặt nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước
caonhất.
2. Vai trò của hoạt động tiếp xúc cử tri
Vị trí của ĐBQH được xác định trong mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân
dân; là người đại diện cho nhân dân, phản ánh ý chí, tâm tư, nguyện vọng của nhân
1



dân đồng thời cũng là người biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành các quy
định pháp luật của nhà nước. Trong hoạt động của nhà nước, ĐBQH là người đại
diện cho nhân dân xem xét, quyết định các vấn đề của đất nước về lập hiến, lập
pháp, các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại và giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của ĐBQH phải gắn với nhân
dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, sự tham gia của nhân dân vào hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi ĐBQH.
Các ĐBQH có trách nhiệm thường xuyên giữ mối liên hệ với cử tri, tiếp xúc
với cử tri đã tín nhiệm bầu ra mình. Đối với các ĐBQH, đây là hoạt động có tính
thực tiễn rất cao. Tính thực tiễn đó được thể hiện thông qua hoạt động đối thoại
trực tiếp để đại biểu nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các kiến
nghị chính đáng của cử tri là hình thức phản ánh bản chất của quyền làm chủ trực
tiếp và gián tiếp của nhân dân đối với cơng việc của đất nước. Chỉ có thể xây dựng
được mối quan hệ máu thịt với nhân dân, ĐBQH mới có khả năng hịa cùng nhịp
đập của cuộc sống, đem hơi thở cuộc sống, đem được tiếng nói của nhân dân vào
các nghị quyết, các đạo luật và giám sát có hiệu quả việc thực hiện các nghị quyết
các đạo luật đó. Nếu khơng giữ mối liên hệ gắn bó với cử tri, ĐBQH sẽ xa rời thực
tiễn, trở nên quan liêu, khơng thể đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, không thể thay mặt nhân dân quyết định các công việc quan
trọng của đất nước. Vì vậy, khơng thể phản ánh đúng bản chất của Nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện ba chức năng
giám sát tối cao và chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Để thực hiện tốt các chức năng này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và mỗi
ĐBQH cần rất nhiều loại thông tin từ nhiều nguồn khác nhau nhưng nguồn thông
tin trực tiếp từ cử tri là nguồn thông tin không thể thiếu được giúp cho pháp luật
do Quốc hội ban hành mang hơi thở cuộc sống; giám sát của Quốc hội mới có hiệu
quả thiết thực; các quyết định của Quốc hội mới có ý nghĩa thực tiễn và cuối cùng,
Quốc hội mới thực sự là cơ quan đại diện của dân, ĐBQH mới thực sự là người
đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện vọng của người dân.

2


Như vậy, để thực thi tốt nhiệm vụ đại biểu của mình nói riêng và chức năng
của Quốc hội nói chung, các ĐBQH cần phải giữ mối quan hệ thường xun và mật
thiết với các cử tri. Chính vì lẽ đó, TXCT là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của ĐBQH đã được Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức quy định khá cụ thể.
3. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tiếp xúc cử tri của
Đại biểu Quốc hội
Vị trí pháp lí của ĐBQH trong Hiến pháp 2013 về cơ bản vẫn tiếp tục kế
thừa các quy định trong Hiến pháp 1992. Tiếp xúc cử tri là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của ĐBQH đã được Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội
quy định khá rõ. Thời kì này, các văn bản pháp luật quy định về hoạt động TXCT
của ĐBQH khá đầy đủ, cụ thể và toàn diện làm cơ sở cho ĐBQH thực hiện hoạt
động này một cách có hiệu quả.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội 2014 quy
định: ” Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử
tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu
thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan
nhà nước hữu quan 1.
Như vậy, Luật tổ chức Quốc hội đã phát triển mối quan hệ giữa ĐBQH với
cử tri, theo đó ĐBQH phải liên hệ chặt chẽ với cử tri nhưng cũng phải thường
xuyên TXCT. Về cơ bản hoạt động TXCT được thể hiện khá cơ bản trong các quy
định nêu trên.
Cùng với thực tiễn hoạt động của ĐBQH và các Đồn ĐBQH, nhất là trước
địi hỏi ngày càng cao hơn, cụ thể hơn về hoạt động TXCT, để đáp ứng mong đợi
của đại đa số cử tri và thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội giao, ngày 27/9/2012,
UBTVQH khóa XIII và Đồn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN (gọi tắt là
Nghị quyết liên tịch) Về tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội. Nghị quyết cũng đã

quy định về trách nhiệm của ĐBQH, cơ quan tổ chức hữu quan trong TXCT; quy
1 Điều 27, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3


định về trình tự, thủ tục tiến hành hội nghị TXCT; việc tập hợp, tổng hợp ý kiến,
kiến nghị của cử tri và giám sát, đôn đốc việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử
tri...
Theo Điều 4 của Nghị quyết 06 thì việc TXCT của ĐBQH được thực hiện
theo ngun tắc dân chủ, bình đẳng và cơng khai.
Thời điểm TXCT là trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội khoảng hai mươi
ngày và trong khoảng hai mươi ngày kể từ sau ngày bế mạc kỳ họp Quốc hội,
ĐBQH có trách nhiệm TXCT ở địa phương mình ứng cử để thu thập ý kiến,
nguyện vọng của cử tri về những vấn đề thuộc chương trình, nội dung kỳ họp
Quốc hội và những ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội, Chính phủ, các Bộ,
ngành, cơ quan tổ chức ở trung ương và địa phương và báo cáo kết quả kì họp
Quốc hội và kết quả giải quyết các kiến nghị của cử tri. Và mỗi năm một lần, vào
cuối năm, kết hợp với việc TXCT, ĐBQH phải báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu cử
nơi bầu ra mình về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu và thực hiện chương trình
hành động của mình đã hứa trước cử tri 2.
Hình thức tiếp xúc cử tri bao gồm: Hội nghị TXCT và gặp gỡ, tiếp xúc cá
nhân hoặc nhóm cử tri. Hội nghị TXCT bao gồm: tiếp xúc theo định kỳ trước và
sau kỳ họp Quốc hội tại địa phương nơi đại biểu Quốc hội ứng cử; tiếp xúc theo
nơi cư trú, nơi làm việc, tiếp xúc theo chuyên đề, lĩnh vực mà đại biểu Quốc hội
quan tâm, tiếp xúc cử tri theo đối tượng và tiếp xúc cử tri ngoài địa bàn tỉnh, thành
phố , nơi đại biểu Quốc hội ứng cử 3.
Về thành phần hội nghị tiếp xúc cử tri bao gồm: Đại diện cấp ủy Đảng,
HĐND, UBND, UBMTTQ, các tổ chức thành viên của MTTQ và các cơ quan, tổ
chức, đơn vị hữu quan ở mỗi cấp; cử tri trực tiếp làm việc, học tập tại các cơ quan,
tổ chức, đơn vị, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế; cử tri

thơn, bn, làng, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố 4.
2 Điều 2, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 27/9/2012 của Ủy
ban thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội
tiếp xúc cử tri.
3 Điều 18, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 27/9/2012 của Ủy ban
thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đồn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri.
4 Điều 20, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN

4


Việc tiếp xúc cử tri nơi cư trú được quy định như sau: Khi đại biểu Quốc hội
có yêu cầu tiếp xúc cử tri nơi cư trú, thì tùy theo nơi làm việc của đại biểu Quốc
hội tại địa phương hoặc ở trung ương, Văn phịng Đồn đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân hoặc cơ quan, nơi đại biểu Quốc hội làm việc có trách nhiệm cử
cán bộ liên hệ với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, nơi
đại biểu Quốc hội cư trú để tổ chức cuộc tiếp xúc cử tri5
Việc tiếp xúc cử tri nơi làm việc được quy định như sau: Khi đại biểu Quốc
hội có yêu cầu tiếp xúc cử tri tại nơi làm việc, thì Thủ trưởng, Chủ tịch Cơng đồn
cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi đại biểu Quốc hội làm việc có trách nhiệm tổ chức để
đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, nơi đại biểu
làm việc chủ trì phối hợp với Chủ tịch Cơng đồn tổ chức, thông báo, tạo điều kiện
để cử tri trong cơ quan, tổ chức, đơn vị đến dự cuộc tiếp xúc với đại biểu Quốc
hội. 6
Việc tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực mà ĐBQH quan tâm được quy
định như sau: Văn phịng Đồn ĐBQH giúp ĐBQH liên hệ với Thủ trưởng cơ
quan, tổ chức, đơn vị có liên quan để tổ chức Hội nghị TXCT theo chuyên đề, lĩnh
vực mà ĐBQH quan tâm. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm giúp
ĐBQH thực hiện các cuộc tiếp xúc nói trên…7.

Về việc tiếp xúc cử tri theo đối tượng : Theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội,
Văn phịng Đồn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân có trách nhiệm liên hệ
với Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan tổ chức để đại biểu Quốc hội
tiếp xúc đúng đối tượng cử tri theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Thủ trưởng cơ
quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến hoạt động tiếp xúc cử tri có trách nhiệm
thơng báo, tạo điều kiện để cử tri thuộc đối tượng đại biểu quan tâm tham dự cuộc
tiếp xúc cử tri.8
Về tiếp xúc cử tri ngoài địa bàn tỉnh, thành phố, nơi đại biểu Quốc hội ứng
cử : tùy theo nơi làm việc của đại biểu Quốc hội tại địa phương hoặc ở trung ương,
mà Văn phịng Đồn ĐBQH và HĐND hoặc cơ quan, nơi ĐBQH làm việc có
5 Điều 23, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN
6 Điều 24, , Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN
7 Điều 25 , Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN
8 Điều 26, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN

5


trách nhiệm cử cán bộ liên hệ với Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, cơ quan, tổ
chức, đơn vị ở địa phương nơi đại biểu dự định tiếp xúc cử tri để tổ chức cuộc tiếp
xúc cử tri. Đoàn ĐBQH địa phương, nơi ĐBQH đến tiếp xúc cử tri có trách nhiệm
phối hợp với Ban thường trực UBMTTQVN ở địa bàn ĐBQH tiếp xúc để tổ chức
cuộc tiếp xúc cử tri; thông báo, tuyên truyền, vận động cử tri đến dự cuộc tiếp
xúc.Đoàn ĐBQH địa phương, nơi ĐBQH ứng cử có trách nhiệm phối hợp với cơ
quan, tổ chức, nơi ĐBQH làm việc bảo đảm các điều kiện để ĐBQH tiếp xúc cử
tri 9
Việc tổ chức gặp gỡ, tiếp xúc cá nhân hoặc nhóm cử tri của ĐBQH được quy
định trong Nghị quyết liên tịch. Theo đó, ĐBQH có thể trực tiếp gặp gỡ với cử tri
để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri và những vấn đề mà đại biểu Quốc hội
quan tâm, chuyển những kiến nghị chính đáng của cử tri đến Đồn ĐBQH để tổng

hợp, báo cáo UBTVQH hoặc gửi tới cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết
10

.
Mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri là gắn bó hữu cơ, nhưng để mối quan hệ

này thực chất và có hiệu quả thì vai trò tổ chức, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức
hữu quan là rất quan trọng, có tính chất cầu nối để thúc đẩy mối quan hệ này cả về
chiều rộng và chiều sâu. Điều 7 Nghị quyết 525/2012 đã khẳng định: “Văn phịng
Quốc hội, Đồn đại biểu Quốc hội, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ
quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp tổ chức, phục vụ cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc
hội”. Về nhiệm vụ của các cơ quan phối hợp được quy định cụ thể từ Điều 10 đến
Điều 17 của Nghị quyết liên tịch.
Về chương trình tiếp xúc cử tri định kỳ diễn ra theo trình tự sau: “ĐBQH
báo cáo với cử tri về Chương trình, nội dung kỳ họp Quốc hội (đối với các hội
nghị tiếp xúc cử tri trước kỳ họp Quốc hội); Kết quả kỳ họp Quốc hội và kết quả
giải quyết các kiến nghị của cử tri (đối với các hội nghị tiếp xúc sau kỳ họp Quốc
hội); Việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu và thực hiện chương trình hành động của
9 Điều 27, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN
10 Điều 28, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN

6


mình (ở Hội nghị TXCT sau kỳ họp cuối năm của Quốc hội). Cử tri phát biểu và
trao đổi ý kiến với ĐBQH. Sau đó, ĐBQH phát biểu giải trình, tiếp thu ý kiến,
kiến nghị của cử tri...” 11
Về việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị cử tri ở địa phương, Nghị quyết

quy định: Sau mỗi đợt TXCT, Đồn ĐBQH chủ trì phối hợp với Ban thường trực
UBMTTQ cấp tỉnh tập hợp, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri thuộc thẩm
quyền giải quyết của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở trung ương gửi
UBTVQH và ĐCTUBTWMTTQ; đồng thời chuyển những ý kiến, kiến nghị của
cử tri thuộc thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị hữu quan ở địa
phương để xem xét, giải quyết và trả lời cử tri 12
Về báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri các địa phương giữa 2 kỳ
họp, Nghị quyết cũng chỉ rõ:” Ban thường trực UBTWMTTQVN có trách nhiệm
tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân thông qua UBMTTQVN các cấp và các
thành viên của Mặt trận; chủ trì phối hợp với Ban Dân nguyện giúp
ĐCTUBTWMTTQ và UBTVQH xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị
của cử tri và nhân dân cả nước. Ban Dân nguyện giúp UBTVQH nghiên cứu, tổng
hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH
trước kỳ họp, gửi đến Ban thường trực UBTWMTTQVN chậm nhất là 05 ngày,
trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội.13
Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp luật về công tác TXCT của
ĐBQH đã đi vào cuộc sống, có tác dụng hình thành và duy trì mối quan hệ giữa cử
tri với người đại diện của mình ở Quốc hội.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Tổng quan về hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH
a, Hình thức tiếp xúc cử tri
Qua báo cáo tình hình cho thấy hình thức hội nghị tiếp xúc cử tri là khá phổ
biến mà chủ yếu là tiếp xúc định kì trước và sau kì họp. Việc này diễn ra khá nề
11 Điều 22, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN
12 Điều 29, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN
13 Diềi 30, Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN

7



nếp, mỗi kì họp chúng ta lại thu được hàng nghìn ý kiến, kiến nghị của cử tri để
báo cáo lên kì họp. Theo số liệu thống kê được của 59/63 Đoàn đại biểu Quốc hội,
trong 4 năm (2004 - 2008), Đại biểu Quốc hội đã thực hiện được 14.599 cuộc tiếp
xúc với tổng số 1.423.282 lượt cử tri, chủ yếu là tiếp xúc cử tri theo hình thức hội
nghị (chiếm 98,23% số cuộc và 99,78% số lượt cử tri), trong đó tiếp xúc cử tri
trước và sau Kỳ họp chiếm 93% số cuộc và 97,37% số lượt cử tri.
Như vậy việc tiếp xúc cử tri trước và sau kì họp Quốc hội khá tốt. Tuy nhiên
còn gặp rất nhiều khó khăn. Do phụ thuộc vào thời gian dự kiến chương trình, nội
dung kì họp, việc thu thập thơng tin còn hạn chế,cơ sở vật chất chưa đáp ứng được
yêu cầu tiếp xúc rộng rãi của cử tri. Đối với việc tiếp xúc cử tri sau kì họp Quốc
hội cũng có những kiến nghị trái ngược nhau về việc có nên duy trì hình thức này
hay khơng.
Việc tiếp xúc cử tri ở nơi làm việc hoặc nơi cư trú có ý nghĩa quan trọng vì
đây là những nơi đại biểu dành nhiều thời gian gắn bó với các hoạt động của bản
thân mình. Việc tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú thu được những thành quả nhất định.
Tuy nhiên hình thức này cịn hết sức hạn chế cụ thể: Tiếp xúc cử tri ở nơi cư trú
chỉ chiếm 1,7% số cuộc và 0,83% số lượt cử tri (thống kê ở 25 Đoàn đại biểu QH),
tiếp xúc cử tri ở nơi làm việc chỉ chiếm 0,87% số cuộc và 0,35% số lượt cử tri
(thống kê ở 18 Đoàn đại biểu QH), tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh vực chỉ
chiếm 2,63% số cuộc và 1,22% số lượt cử tri (thống kê ở 32 Đoàn đại biểu QH)
Về gặp gỡ tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri.Đây là hình thức ít được
đại biểu Quốc hội triển khai và tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể là: Tiếp xúc với cá
nhân hoặc nhóm cử tri chiếm 1,77% số cuộc và 0,22% số lượt cử tri (báo cáo của
9 Đoàn đại biểu QH).
b. Nội dung tiếp xúc cử tri
Các quy định của pháp luật về nội dung tiếp xúc cử tri đã bước đầu tạo cơ
sở để đại biểu Quốc hội thông qua, trao đổi với cử tri, nhưng trên thực tế nội dung
tiếp xúc cử tri trong thời gian qua còn quá bất cập. Theo kết quả phiếu xin ý kiến
300 Đại biểu Quốc hội, chỉ có 9% đánh giá là được giải quyết dứt điểm, nhanh

chóng, 80% cho rằng giải quyết không triệt để, kéo dài. Kết quả điều tra xã hội
8


học trong tổng số 2.000 cử tri, chỉ có 23% đánh giá là được giải quyết thỏa đáng,
65% cho rằng giải quyết chưa thỏa đáng, 12% khó trả lời.
Nhiều cử tri đã nhận thức được mục đích, ý nghĩa của hoạt động tiếp xúc cử
tri, tích cực đóng góp nhiều ý kiến xác đáng với Quốc hội và các cơ quan quản lý
nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, còn một bộ phận cử tri chưa
nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đối với hoạt động tiếp xúc cử
tri của Đại biểu Quốc hội. Bởi vậy, số lượng cử tri quan tâm và tham gia các cuộc
tiếp xúc cử tri của các Đại biểu Quốc hội cịn chiếm tỷ lệ thấp. Bình qn hàng
năm chỉ có khoảng 356.000 lượt cử tri tham gia tiếp xúc với Đại biểu Quốc hội.
Phần đông cử tri, nhất là cử tri ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa
có điều kiện quan tâm đến các vấn đề thuộc nội dung, chương trình Kỳ họp Quốc
hội, tham gia đóng góp xây dựng luật, mà thường đề cập đến những vấn đề cụ thể,
thiết thực liên quan đến đời sống xã hội tại địa phương, như đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm), chế độ chính sách an sinh xã hội…
Một số cử tri chỉ phản ánh những nội dung về khiếu nại, tố cáo liên quan đến cá
nhân mình.
c. Việc tổng hợp, tập hợp và chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri.
Nhìn chung trong những năm gần đây, hoạt động tập hợp, tổng hợp ý
kiến, kiến nghị của cử tri thơng qua báo cáo của các Đồn đại biểu Quốc hội
trước và sau mỗi Kỳ họp Quốc hội, phân loại và chuyển đến các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết ngày càng được đánh giá cao, là một trong nhữn
nguồn thông tin quan trọng giúp đại biểu Quốc hội trong qúa trình xây dựng
pháp luật, thảo luận các báo cáo kinh tế - xã hội và quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước tại mỗi Kỳ họp Quốc hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thu thập, tổng hợp
ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng như việc giải quyết các ý kiến đó cịn một số

bất cập,cụ thể: đối với hoạt động thu thập ý kiến, kiến nghị cử tri của đại biểu
Quốc hội thì một số đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc cử tri không
thường xuyên; đại biểu chưa chủ động tiến hành các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, khi
9


tiếp nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa chủ động nghiên cứu, chuyển đến cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền,…; trong hoạt động tổng hợp ý kiến, kiến nghị
của cử tri thì báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri có chất lượng chưa
cao, chưa phân loại được đâu là ý kiến bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của cử tri,
đâu là ý kiến đóng góp về chủ trương, chính sách pháp luật và đâu là ý kiến,
kiến nghị cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành trung ương,
…; đối với việc xem xét, giải quyết ý kiến, kiến nghị cử tri của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thì việc trả lời của một số cơ quan còn chậm, còn thiếu,
chưa đúng với nội dung mà cử tri kiến nghị, có những vấn đề còn chưa cụ thể,
chưa nêu được lộ trình giải quyết đối với những vấn đề được nêu ra, văn bản trả
lời cịn nặng về giải thích cơ chế, chính sách,…
2. Đánh giá hoạt động tiếp xúc cử tri
a.Những mặt đã đạt được
Trong những năm vừa qua, công tác TXCT của ĐBQH đã dành được sự quan
tâm từ nhiều phía, đã cải tiến và bước đầu đã khắc phục được tính hình thức, góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội và được nhân
dân ghi nhận. Từ hoạt động TXCT, ĐBQH đã bổ sung được nhiều kinh nghiệm
thực tiễn quý báu để tham gia quyết định các vấn đề quan trọng trong chương trình
nghị sự của Quốc hội. Nhiều vấn đề cử tri nêu lên đã được Quốc hội đưa ra bàn
thảo công khai trước diễn đàn và được nhiều cử tri đồng tình, ủng hộ. Vị thế và uy
tín của ĐBQH nói riêng và của Quốc hội nói chung ngày càng được khẳng định và
nâng lên.
Qua hoạt động TXCT, ĐBQH đã phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử tri,
đóng góp tích cực vào hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước ở trung ương và địa

phương. Hoạt động TXCT của ĐBQH trong những năm gần đây đã góp phần tạo
được khơng khí dân chủ trong xã hội, tăng cường mối quan hệ giữa ĐBQH với cử
tri, giữa chính quyền với nhân dân và giữa nhân dân với Quốc hội, nâng cao năng
lực đại diện cho các vị đại biểu dân cử, tạo điều kiện để cử tri tham gia quản lý
nhà nước, góp phần làm sâu sắc thêm bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
10


b. Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TXCT những năm qua còn nhiều
bất cập, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của cử tri. Về hình thức
cịn đơn điệu, nội dung thì bó hẹp chưa thật sự sâu sắc. Cịn diễn ra các tình trạng
“ cử tri chuyên nghiệp”. Chưa phản ánh được hết tâm tư nguyện vọng của nhân
dân.Thời gian mỗi đại biểu dành cho TXCT là q ít. Mỗi năm Quốc hội có 2 kỳ
họp. Mỗi ĐBQH do đó có 4 kỳ TXCT. Mỗi kỳ như vậy tối đa được 2 ngày
(khoảng 4 buổi). Vậy, một năm mỗi đại biểu chỉ có 8 ngày với cử tri. ĐBQH chưa
giải quyết được hết yêu cầu thỏa đáng của nhân dân. Đại biểu kiêm nhiệm còn
nhiều, chưa làm trịn nghĩa vụ của mình. Mặt khác cơ sở vật chất còn hạn chế. Các
luật về vấn đề tiếp xúc cử tri còn nhiều hạn chế và bất cập. Bên cạnh đó cịn rất
nhiều bất cập đã nêu cụ thể ở phần thực trạng
III. Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tiếp xúc cử tri
Để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp xúc cử tri, cần
hoàn thiện các quy định pháp luật, trên cơ sở tổng kết các văn bản hiện hành, trình
Quốc hội ban hành Quy chế về cơng tác tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội và
sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan đến công tác tiếp xúc cử tri.
Nâng cao công tác tuyên truyền, kiến thức về việc tiếp xúc cử tri tới toàn thể
nhân dân. Đặc biệt là cử tri ở vùng xâu vùng xa. Cử tri phải có nhận thức đúng đắn
về quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân để làm tốt vai trị của mình. Cần quan tâm
tới những vấn đề lớn hơn chứ không chỉ nghĩ tới thắc mắc hết sức cá nhân.

ĐBQH cần tự trách nhiệm hồn thành tốt quyền và nghĩa vụ của mình. Cần có
kiến thức đầy đủ để trách khỏi những lúng túng trong khi TXCT. Cần đi sâu xuống
cơ sở để gần gũi với cử tri hơn. Trách việc làm qua loa đại khái.
Công tác tổng hợp, giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri cần thực hiện nghiêm
túc, nhanh chóng có trách nhiệm. Bổ sung quy định điều chỉnh một số hoạt động
lien quan tới công tác tiếp xúc cử tri. Việc thực hiện, tập howowpjys kiến, kiến
nghị của cử tri để trình ra kì họp Quốc hội. Quy định về thẩm quyền, trình tự thủ
tục để đồn Đại biểu Quốc hội có cơ sở thực hiện việc giải quyết giám sát các
công việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền. Quy định cụ thể về
11


trình tự, thủ tục và trách nhiệm của các cơ quan phối hợp để tổ chức tiếp xúc cử tri
khi Đại biểu u cầu. Nhằm khơng gây lung túng khó khăn cho Đại biểu Quốc hội.
Cần hệ thống hóa lại quy định của pháp luật về hoạt động theo dõi đôn đốc và
giám sát của các cơ quan Quốc hội về việc giải quyết kiến nghị của cử tri. Cụ thể
cần quy định trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động, giám sát của Quốc hội.
Sửa đổi về thời hạn tiếp xúc cử tri, thời hạn giữ báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị
của cử tri sao cho phù hợp với yêu cầu.
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, cùng với những thay đổi
nhanh chóng về mặt kinh tế - xã hội, bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung đã
có n hững thay đổi tốt đẹp, đáng kể về tổ chức và hoạt động. Một trong những
nguyên nhân tích cực chính từ chất lương và hiệu quả của các hoạt động tiếp
xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Hoạt động này cần phải được quan tâm và
hoàn thiện hơn nữa để tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân dân với nhà
nước, hướng tới đổi mới và phát triển đất nước ngày càng vững mạnh.

12



DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐBQH

Đại biểu Quốc hội

ĐCTUBTWMTTQ

Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ướng Mặt trân Tổ
quốc

CHXHCNVN

Cơng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

TXCT

Tiếp xúc cử tri

UBND

Uỷ ban nhân dân


UBTVQH

Uỷ ban thường vụ Quốc hội

UBTWMTTQ

Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam , Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an nhân dân
2. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
3. Quốc Hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13, Hà Nội
4. Nghị
quyết
liên
tịch
số
525/2012/NQLT/UBTVQH11ĐCTUBTWMTTQVN ngày 27/9/2012 của Ủy ban thường Vụ Quốc
hội khóa XI và Đồn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về
việc đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
5. Ban Công tác lập pháp (2006), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, (Tài liệu tham khảo), Hà Nội.
6. Phan Trung Lý (2010), Quốc hội Việt Nam - Tổ chức, hoạt động và đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
7. Nguồn internet
/> />


MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1
NỘI DUNG………………………………………………………………....1
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI………………………………………………………………....1
1. Khái niệm tiếp xúc cử tri và đại biểu quốc hội………………………...1
2. Vai trò của hoạt động tiếp xúc cử tri…………………………………...1
3. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tiếp xúc
cử tri của Đại biểu Quốc hội……………………………………………...2
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY…………………........5
1. Tổng quan về hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH……….……….….5
a, Hình thức tiếp xúc cử tri………………………………………………..…5
b. Nội dung tiếp xúc cử tri………………………………………………..….6
c. Việc tổng hợp, tập hợp và chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri…………....6
2. Đánh giá hoạt động tiếp xúc cử tri……………………………………...7
a.Những mặt đã đạt được……………………………………………………7
b. Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế…………………………….….7
III. Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tiếp xúc cử tri………………....8
KẾT LUẬN……………………………………………………………….....8




×