QUAN ĐIỂM THỰC TIỄN VÀ NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG PHƯƠNG PHÁP LUẬN
HỒ CHÍ MINH. Ý NGHĨA VẬN DỤNG TRONG THỰC TIỄN
CÁCH MẠNG NƯỚC TA HIỆN NAY
*****
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng dân
tộc, một danh nhân văn hoá thế giới. Tư tưởng của Người là tài sản quý báu
của dân tộc ta và cũng là tài sản văn hoá chung của cả nhân loại. Cùng với
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy chứa đựng những
giá trị chân lý bền vững, được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm
và xác nhận, khơng chỉ có ý nghĩa trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong
cơng cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà cịn có giá trị bền
vững, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta trong tương lai.
Là một nhà lý luận kiệt xuất và hoạt động thực tiễn thiên tài, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về việc vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam, thơng qua đó thể hiện hệ thống phương pháp luận
trong tư tưởng của Người. Dưới góc độ triết học “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng tư tưởng văn hoá
truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hố của phương Đơng và
phương Tây với chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng”. Do đó, việc nghiên
cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để tiếp tục vận dụng và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp luận triết học trong tư tưởng
của Người nói riêng, đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách mạng
Việt Nam hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
toàn đảng, toàn dân ta.
2
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH CHẤT PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Nhận thức chung về phương pháp luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng có một hệ thống phương pháp
luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một trong những nội dung có tính
ngun tắc cần được qn triệt trong quá trình tiếp cận nghiên cứu, vận dụng
và phát triển phương pháp luận của Người.
Đề cập tới phương pháp luận là đề cập tới cấp độ lý luận ở tầm triết
học. Tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết bao gồm một hệ thống lý luận đặc
sắc. Đã là hệ thống tư tưởng hồn chỉnh thì đương nhiên phải có hệ thống
phương pháp luận. Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, Người khơng có điều
kiện làm triết học, vì thế Người khơng có tác phẩm riêng bàn về phương pháp
luận. Lịch sử cách mạng Việt Nam không trực tiếp đặt ra yêu cầu này đối với
Người. Đất nước bị xâm lăng, nhân dân điêu đứng lầm than trong cảnh đời nô
lệ, mong muốn tột bậc của Người là “nước ta được độc lập, dân ta được tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Thế nhưng,
trong quá trình hoạt động thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật mác-xít, kết hợp với các yếu tố biện chứng của tư
duy triết lý Việt Nam và tư tưởng triết học nhân loại; thơng qua đó đã thể hiện
những quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận riêng, rất mác-xít mà
cũng rất Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định, phương pháp luận Hồ Chí Minh là
phương pháp biện chứng của Triết học Mác-Lênin, được vận dụng và chuyển
hoá một cách tài tình, sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhằm mục
đích giải quyết thành cơng những vấn đề cấp bách do thực tiễn cách mạng
3
Việt Nam đặt ra, bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung và in đậm
dấu ấn Việt Nam - Hồ Chí Minh.
Khơng phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà triết học nổi tiếng trên thế giới
khi xem xét giá trị của lý luận cách mạng Việt Nam từ thực tế thắng lợi của
cách mạng Việt Nam đã thừa nhận: “Vấn đề Việt Nam… khơng chỉ là vấn đề
chính trị mà còn là vấn đề triết học và lý luận ở trình độ cao” 1. Triết học và lý
luận của cách mạng Việt Nam được kết tinh ở tư tưởng Hồ Chí Minh, được
thấm sâu trong tồn bộ trước tác và hoạt động thực tiễn của Người. Chính vì
thế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp luận triết
học Hồ Chí Minh nói riêng phải dựa trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tồn bộ
di sản của Người.
Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ra đi tìm đường cứu nước với hành
trang là chủ nghĩa yêu nước và vốn kiến thức rộng lớn được khái quát từ tư
duy dân tộc và tư tưởng phương Đông giàu tính triết lý, Hồ Chí Minh đã chủ
động tiếp thu, sử dụng thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin để tổng kết, rút ra phương pháp luận triết học của riêng
mình để chỉ đạo việc hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, đưa tới
thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh ln coi chủ nghĩa Mác-Lênin là cái “cẩm nang”, là kim chỉ nam
cho mọi hành động cách mạng của Đảng và của dân tộc ta. Ngay từ năm
1927, Hồ Chí Minh đã khẳng định dứt khoát rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất phải theo là chủ nghĩa Mác-Lênin” 2. Người còn nhấn mạnh: “Đối với tất
cả mọi công tác cách mạng, việc thành lập Đảng và Nhà nước cũng như việc
xây dựng kinh tế và văn hố, chúng tơi đều cố gắng làm theo đường lối của
1 S.Sibata: “Những bài học của chiến tranh Việt Nam - Suy nghĩ triết học về cách mạng Việt Nam”, Viện Thông tin
Khoa học xã hội, 1978, tr.328.
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 2, tr.280.
4
Lê-nin đã vạch ra”3. Điều này chứng tỏ rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin là nền
tảng tư tưởng - phương pháp luận, là nguồn gốc lý luận - tư tưởng chủ yếu
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp luận Hồ Chí Minh
nói riêng. Người khẳng định: “Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi
của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước trước đây là thuộc địa. Những kinh
nghiệm thành cơng của cách mạng Việt Nam cũng góp phần ít nhiều vào kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin”4.
Mặt khác, Hồ Chí Minh khơng chỉ chủ động tiếp thu, kế thừa mà còn
rất chú trọng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Người đã nắm vững bản chất, tinh thần và phương pháp của
học thuyết ấy trong q trình giải quyết cơng việc và ứng xử với con người.
Tuy nhiên, trong sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
cũng như phương pháp luận triết học của Người nói riêng, chủ nghĩa MácLênin chỉ là nhân tố quan trọng nhất, quyết định nhất chứ không phải là duy
nhất. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh ln có tầm nhìn khống đạt, tường minh và cởi
mở trong việc nghiên cứu, đánh giá các học thuyết, các chủ nghĩa. Ngoài chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nhiều
trường phái tư tưởng khác, đặc biệt là tư tưởng triết lý của dân tộc. Người là
hiện thân của tinh hoa văn hố cổ, kim, đơng, tây. Vì thế, khi nghiên cứu
phương pháp luận triết học Hồ Chí Minh đòi hỏi phải dựa trên cơ sở nhận
thức đúng đắn nguồn gốc tư tưởng của Người.
Phương pháp luận Hồ Chí Minh còn được các lãnh tụ của Đảng, Nhà
nước và các nhà khoa học khẳng định.
Là một học trò xuất sắc, có điều kiện được hoạt động và làm việc nhiều
năm bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng,
3 Xem: Tư tưởng Hồ Chí Minh rọi sáng con đường độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, Nxb. Nghệ An, 2000, tr.38.
4 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 10, tr.550.
5
đặc trưng của phương pháp luận Hồ Chí Minh là sự thấm nhuần quan điểm
thực tiễn, đời sống, là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo phép biện chứng mácxít vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó chính là phương pháp của người
lãnh đạo, người tổ chức. Đồng thời cố Thủ tướng cũng nhấn mạnh: “Quan
điểm cơ bản nhất của phương pháp luận Hồ Chí Minh là câu nói đanh thép
của Người trong cuốn sách Đường Cách mệnh: “Cách mệnh! cách mệnh!
cách mệnh!” Hiểu rộng ra, đó là cuộc đấu tranh kiên cường và bền bỉ nhằm
xoá bỏ chế độ áp bức, bóc lột, thiết lập chế độ khơng có áp bức, bóc lột. Con
người, nhân dân các dân tộc làm chủ vận mệnh của mình, xố bỏ nghèo nàn
và lạc hậu, đem lại ánh sáng, tự do và hạnh phúc cho mọi người”5.
Trong cơng trình lớn Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên cũng đã nêu vấn đề “Phương
pháp luận Hồ Chí Minh”, Đại tướng cùng các tác giả trong cơng trình tập thể
này đã thống nhất cho rằng: “Phương pháp luận Hồ Chí Minh về cơ bản là
phương pháp luận Mác-Lênin, là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử… Nhưng phương pháp luận Mác-Lênin, được Hồ Chí Minh
tiếp thu, đã có sự bổ sung, phát triển, mang những đặc trưng mới, độc đáo của
Hồ Chí Minh trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp luận MácLênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học phương Đông, của tư
duy truyền thống Việt Nam và rút ra từ cuộc đời hoạt động phong phú, đầy biến
cố và những kinh nghiệm ứng nhân xử thế của Người”6.
Trải qua q trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu
cũng đưa ra kết luận rằng, là một nhà tư tưởng, một lãnh tụ và chính khách có
tầm cỡ quốc tế, dĩ nhiên Hồ Chí Minh có quan điểm và phương pháp luận
triết học của mình. Trên cơ sở kết luận đó, Giáo sư đã viết: “Cụ chưa hề nói
5 Phạm Văn Đồng: “Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb. CTQG, Hà Nội.1998, tr.31-32.
6 Võ Nguyên Giáp:“Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, Nxb. CTQG, Hà Nội.1997, tr.260261.
6
đến phương pháp luận, nhưng trong hoạt động chính trị - văn hố của Cụ,
người nghiên cứu dường như trơng thấy một lề lối có thể gọi là phương pháp
luận, phương pháp tư tưởng”7.
Theo quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (khố IX) thì phương pháp luận Hồ Chí
Minh chính là phép biện chứng Hồ Chí Minh, là vấn đề thuộc về hệ thống tư
tưởng của Người. Từ quan niệm như vậy, nhà thơ cho rằng: “Trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh, một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn, một cống hiến
đặc biệt của Hồ Chí Minh là phương pháp luận đã đạt đến một trình độ mới
trong việc xem xét và giải quyết thực tiễn. Người vượt lên nhiều người đương
thời để trở thành người kế tục hiếm hoi những nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật
biện chứng trong thời đại mới, trước một phương Đông đầy mâu thuẫn, đầy
biến cố phức tạp. Cho nên, khám phá phép biện chứng Hồ Chí Minh là một
việc làm cực kỳ quan trọng”8.
Cùng với những quan niệm của các cơng trình nghiên cứu nêu trên, đã
xuất hiện một cơng trình đặt vấn đề phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh
như một đối tượng nghiên cứu độc lập. Đó là cơng trình khoa học của tập thể các
tác giả do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ chủ biên, đã đưa ra các kết quả nghiên cứu lý
luận chung về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định
những vấn đề có tính phương pháp luận triết học và trình bày một cách rõ ràng,
có hệ thống phương pháp cách mạng của Người. Giáo sư Đặng Xuân Kỳ đã nêu
lên luận điểm đáng lưu ý là: “Phải thơng qua phương pháp cách mạng Hồ Chí
Minh mới hiểu được tầm cao, chiều rộng và bề sâu của đường lối cách mạng,
của tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh; đồng thời, phương pháp cách mạng
7 Xem: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993, t.3.
8 Xem: Danh nhân Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Hà Nội. 2000, tập 2, tr.39.
7
của Hồ Chí Minh có chứa đựng những quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận
đối với việc nhận thức và tiến hành cách mạng ở Việt Nam”9.
Tóm lại, những điều trình bày trên đây đã chứng tỏ rằng, ở Hồ Chí
Minh có một hệ thống quan điểm có tính chất phương pháp luận triết học
được xây dựng trên cơ sở khách quan, khoa học, được thể hiện thông qua
phương pháp cách mạng; đồng thời, hệ thống quan điểm ấy là một nội dung
quan trọng trong tư tưởng của Người. Trên thực tế, mọi luận đề tư tưởng của
Hồ Chí Minh đều dẫn tới phương pháp hành động và phương pháp của Người
lại luôn nhằm vào thực hành tư tưởng để kiểm chứng tác dụng, xác nhận giá
trị và ý nghĩa của nó trong thực tiễn, bằng thực tiễn, thúc đẩy những biến đổi
và sự phát triển của thực tiễn. Vì vậy, phương pháp luận Hồ Chí Minh ln
thống nhất, nhất quán với tư tưởng của Người.
1.2. Một số vấn đề có tính chất phương pháp luận trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
Về bản chất, phương pháp luận Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng,
phát triển và làm phong phú thêm phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nó được hình thành trên cơ sở nhận thức và hoạt động thực tiễn của bản thân
Hồ Chí Minh, mang những dấu ấn đặc trưng riêng của Người. Đó là hệ thống
các quan điểm toàn diện, khoa học và biện chứng chỉ đạo cách mạng Việt
nam. Bao gồm:
- Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Nguyên tắc toàn diện, hệ thống, trọng điểm, thiết thực.
- Phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn với phương thức,
phương pháp phù hợp có hiệu quả nhất.
- Quan điểm phát triển, đổi mới, hướng về cái mới.
9 Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị qc gia, Hà Nội. 1997, tr.39.
8
- Quan điểm về con người, quan điểm về nhân dân.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tương hỗ giữa dân tộc và giai cấp.
- Nguyên tắc phương pháp luận dĩ bất biến – ứng vạn biến
Trong hệ thống các quan điểm phương pháp luận trên thì quan điểm
thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là quan điểm
có tính chất phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa đầu tiên và
quyết định đến nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh. Quan điểm này của
Người xuất phát từ những cơ sở khách quan và khoa học:
Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, đặc biệt là từ luận
điểm cơ bản, cốt lõi nhất của lý luận ấy: “Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân
lý”. Hơn nữa, theo quan điểm của C.Mác: “Ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ
cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu
của dân tộc ấy”10. Điều này đã chứng tỏ, lý luận chỉ được coi là đúng đắn
một khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của mỗi dân tộc. Kế thừa và
phát triển luận điểm đó, với quan niệm rõ ràng và dứt khốt rằng: “Sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa MácLênin”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong
kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lưỡng, rõ
ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính”11. Đây là cơ sở lý luận nền tảng dẫn đến sự hình thành, phát
triển sáng tạo quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng đã chứng tỏ Hồ Chí Minh luôn chú
trọng và bám sát thực tiễn. Từ thực tiễn yêu cầu cứu nước, cứu dân mà Hồ
Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin; từ thực tiễn tồn tại và phát triển
10 C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 1, tr.582.
11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 5, tr.233.
9
của xã hội Việt Nam và các dân tộc thuộc địa cũng như của các dân tộc bị
áp bức mà Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, kết hợp đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn
cách mạng Việt Nam, thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc và phong
trào cách mạng thế giới. Đó chính là ngun nhân cơ bản, đầu tiên, quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tế đã chứng minh, tình hình Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
đã đặt ra những nhu cầu bức thiết khiến cho Hồ Chí Minh phải ln day dứt,
trăn trở tìm lời giải đáp; nỗi niềm đó chính là nguồn động lực to lớn thúc đẩy
Người ra đi tìm đường cứu nước với tâm nguyện hết sức cao cả: “Tôi muốn đi
ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” 12. Từ tâm nguyện đó, Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Điều đáng lưu ý là, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin không phải
chỉ để giải quyết vấn đề nhận thức mà là để tìm con đường cứu nước, giải phóng
đồng bào với tinh thần “Độc lập cho Tổ quốc tơi, tự do cho đồng bào tơi, đó là tất
cả những gì tơi muốn, tất cả những gì tơi hiểu”13. Tồn bộ tư duy của Hồ Chí Minh
đều vận động theo nhu cầu thực tiễn đó, vì thế, Người đã sớm đi đến những kết
luận có tính chân lý ngay sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ
sản”14 và “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”15.
Đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy phương thức giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vơ sản, nhưng Hồ Chí Minh đã biết rút ra từ học
12 Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội. 1970, tr.15.
13 Sđd, Nxb. Văn học, Hà Nội. 1970, tr.49.
14 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 9, tr.314.
15 Sđd, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 6, tr.179.
10
thuyết cách mạng và khoa học rộng lớn này những nội dung cần thiết cho cách
mạng Việt Nam, trên cơ sở đó mà đề ra đường lối đúng đắn cả trước mắt và lâu
dài, từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại, tức là
từ độc lập tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Người khẳng định: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”16.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh ln
lấy thực tiễn của đất nước, lấy những sự kiện của đời sống dân tộc và của thời
đại làm định hướng cho tư duy và hành động; lấy mục tiêu cao nhất là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm cơ sở chủ yếu, nền tảng để nghiên cứu, vận
dụng sáng tạo, phát triển lý luận, định ra đường lối, lựa chọn con đường và
bước đi phù hợp cho Cách mạng Việt Nam; nhờ đó mà nước ta tránh được
biểu hiện giáo điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung một cách máy
móc), đồng thời cũng tránh để khơng rơi vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn
mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ đứng vững
trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt ta vẫn tranh thủ
được viện trợ kinh tế và quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa anh em,
nhưng mặt khác ta vẫn tổ chức đánh theo đường lối và cách đánh phù hợp với
điều kiện đặc thù Việt Nam; vì vậy, ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Khi miền Bắc từ một nền kinh tế lạc hậu, tiền tư bản, bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã từng đặt vấn đề: “Chúng ta
phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên
chủ nghĩa xã hội” 17 và Người nhắc nhở: “Tuy chúng ta đã có những kinh
16 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 12, tr.305.
17 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.494.
11
nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp
dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc
điểm riêng của nước ta” 18.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là, q trình thực tiễn hố lý luận và lý luận
hoá thực tiễn là hai mặt của một vấn đề được thể hiện khá rõ nét quan điểm thực
tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn hố lý luận là q trình đưa lý luận vào cuộc sống, là thực
hành lý luận, đem lý luận kiểm chứng trong thực tiễn, đồng thời hiện thực hố
vai trị của lý luận đối với hoạt động thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, đó là gắn
lý luận với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, là con
đường để khắc phục bệnh sách vở, thói lý luận sng.
Lý luận hoá thực tiễn là hoạt động nỗ lực của chủ thể tư duy và hành
động để tổng kết thực tiễn, khái qt hố thực tiễn thành lý luận thơng qua
việc phân tích, đánh giá, sàng lọc những kinh nghiệm, nâng kinh nghiệm lên
trình độ lý luận. Thực tiễn và kinh nghiệm được khoa học hoá bởi tư duy để
trở thành lý luận. Đó cũng là giải pháp cần thiết để thực tiễn khơng tách rời
khỏi lý luận, có lý luận dẫn đường để khỏi rơi vào tình trạng thực tiễn mù
quáng và hành động tự phát.
Hồ Chí Minh đã đưa ra một luận điểm rất đáng chú ý thể hiện rõ vai
trị, vị trí, tác dụng của lý luận đối với thực tiễn và thực tiễn đối với lý luận,
đó là: “Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo
thực hành”19. Người còn nói: “Lý luận ln ln cần được bổ sung bằng
những kết luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các
18 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.499.
19 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 6, tr.247.
12
nước phải cụ thể hố chủ nghĩa Mác-Lênin cho thích hợp với điều kiện hồn
cảnh từng nước, từng nơi”20.
Chính vì lẽ đó, Hồ Chí Minh ln u cầu phải gắn lý luận với thực
tiễn, tránh lý luận suông và thực tiễn mù quáng. Đồng thời theo Người, tuy
coi trọng thực tiễn nhưng không được thực dụng và khi học tập, tiếp thu lý
luận cần phải hết sức tránh bệnh giáo điều, tả khuynh; không được học tập
theo kiểu “tầm chương, trích cú”, học thuộc từng câu, từng chữ, hoặc học
nhằm lấy bằng cấp để rồi mặc cả với Đảng… mà phải học tập lấy cái tinh
thần, phương pháp của lý luận để vận dụng vào thực tiễn. Người thường căn
dặn: “Học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa MácLênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho
tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” 21. Bên cạnh
đó, Hồ Chí Minh cũng quan niệm rằng, học phải đi đôi với hành, học mà
không hành thì khơng có nghĩa lý gì, chỉ như cái tủ đựng sách mà thơi. Người
cịn phê phán các biểu hiện nhấn mạnh một chiều lý luận hay chỉ bo bo giữ
lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ, Người viết: “Sai lầm nhất là khuynh hướng giáo
điều, vì nó mượn những lời của Mác-Lênin, để làm cho người ta nhầm lẫn…
Một số người không hiểu rằng: Chủ nghĩa Mác-Lênin, là kim chỉ nam cho
hành động, chứ khơng phải là kinh thánh. Vì vậy, họ chỉ học thuộc ít câu của
Mác-Lênin để loè người ta”22. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh ln chú trọng
đến tính hữu ích thực tế, bất cứ việc gì, dù to hay nhỏ cũng đều phải xuất phát
từ u cầu thực tế, thiết thực, khơng khoa trương, hình thức. Hơn thế nữa, Hồ
Chí Minh ln u cầu phải hết sức chú trọng việc tổng kết kinh nghiệm và
phê phán chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Người đã biểu hiện sự mẫu mực
tuyệt vời về vấn đề này, biết rút ra những bài học và kinh nghiệm không chỉ
20 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.496.
21 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tập 8, tr.497.
22 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tập 6, tr.247.
13
trong thắng lợi mà ngay cả khi thất bại, thể hiện thái độ khách quan, khoa học,
trung thực và bản lĩnh đặc biệt của mình. Đây cũng chính là ngun tắc nhận
thức luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác được Hồ Chí Minh nhận
thức và vận dụng với tất cả sự nhuần nhuyễn đầy tính sáng tạo của Người.
Nhờ vậy, Hồ Chí Minh ln phát hiện ra những cái mới và có những đóng
góp xứng đáng vào quá trình phát triển lý luận cũng như thực tiễn.
Từ việc hình thành và vận dụng sáng tạo quan điểm trên đây đã cho
thấy, Hồ Chí Minh là nhà lý luận và là nhà thực tiễn, tất cả hội tụ thành nhân
cách của một “Nhà văn hoá lớn”, tất nhiên trong đó, tính thực tiễn nổi trội
hơn. Điều này là minh chứng để bác bỏ những quan điểm sai của một số
người khi cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà thực tiễn thuần tuý, là nhà thực tiễn
khô khan, chứ không phải là nhà lý luận.
Như vậy, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã chứng tỏ Người là
một nhà tư tưởng xuất sắc. Tư tưởng của Người là một hệ thống, được hình
thành và phát triển trong cả quá trình, được đúc rút từ thực tiễn. Một bộ phận
quan trọng trong tư tưởng ấy là hệ thống những quan điểm có tính chất phương
pháp luận lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn, là nhân tố góp phần đem
lại những thắng lợi rực rỡ cho cách mạng Việt Nam. Đây là cơ sở đặt ra yêu
cầu cơ bản là: trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
những quan điểm phương pháp luận Hồ Chí Minh nói riêng, chúng ta phải
nghiên cứu chính thực tiễn của Cách mạng Việt Nam. Mặt khác, việc vận dụng
những quan điểm phương pháp luận Hồ Chí Minh vào giải quyết những vấn đề
do thực tiễn đặt ra đối với nước ta là yêu cầu cấp bách, đặc biệt là trong giai
đoạn nước ta tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh quốc tế đang chuyển biến nhanh chóng và phức tạp hiện
nay.
14
2. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC HỒ CHÍ MINH
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TIỄN CỦA CÁCH MẠNG NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Sự cần thiết phải vận dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh
vào thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay
Diễn văn của Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh trong lễ kỷ niệm 115 năm
Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 18/5/2005 một lần nữa khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là một học thuyết cách mạng, cùng với chủ
nghĩa Mác-Lênin, là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động
của cách mạng Việt Nam, là ngọn cờ dẫn dắt dân tộc đi tới thắng lợi, trước
đây, hiện nay cũng như sau này. Chúng ta học tập nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh khơng theo lối tầm chương trích cú mà nghiên cứu một cách hệ thống,
nắm vững và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn những tư tưởng, quan điểm cốt
lõi nhất về những vấn đề cơ bản nhất”23.
Về việc Đảng ta vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đi theo con
đường mà Người đã vạch ra, Tổng Bí thư chỉ rõ: “Gần hai mươi năm qua,
Đảng và nhân dân ta đã tiến hành cơng cuộc đổi mối tồn diện, mở ra một
bước ngoặt lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đạt được trong cơng cuộc đổi
mới là to lớn, tồn diện và có ý nghĩa lịch sử, cả về chính trị, kinh tế, văn hố,
xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại, tạo ra thế và lực mới cho cách mạng
Việt Nam, tạo điều kiện để đưa đất nước ta vào giai đoạn phát triển mới, thực
hiện khát vọng sâu xa của dân tộc là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”24.
Đại hội X của Đảng diễn ra lúc cả dân tộc bước vào năm thứ hai mươi
mốt thực hiện sự nghiệp đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề
23 Báo Nhân dân, ngày 19-5-2005.
24 Báo Nhân dân, ngày 19-5-2005.
15
đặt ra trong thời kỳ mới là tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng và tấm gương Hồ
Chí Minh, tài sản vô giá của Đảng và dân tộc ta. Trí tuệ, bản lĩnh và nhân cách
Hồ Chí Minh cho ta thấy một tầm nhìn thời đại, vượt qua khơng gian và thời
gian, dẫn dắt chúng ta thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Vận dụng quan điểm thực tiễn của Hồ Chí Minh, điều quan trọng trước
hết là phải nhận thức rõ bối cảnh tình hình thế giới và Việt Nam hiện nay.
Về tình hình thế giới, các hoạt động “khủng bố” và “chống khủng bố”
trở thành vấn đề thời sự, nóng bỏng toàn cầu. Chiến tranh cục bộ, xung đột
vũ trang, dân tộc, tôn giáo tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi. Thế lực hiếu chiến,
cực đoan tăng cường chính sách áp đặt, can thiệp và xâm lược vũ trang. Các
nước lớn vừa đấu tranh vừa thoả hiệp, nhân nhượng nhau. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước chống chiến tranh, chống bất bình đẳng về kinh tế,
chống áp đặt và can thiệp vì hồ bình và độc lập dân tộc có bước phát triển
mới, nhưng vẫn thiếu sự liên kết, chưa đủ sức ngăn chặn thế lực hiếu chiến.
Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới, là đòi hỏi bức
xúc của các quốc gia, dân tộc.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơng nghệ thơng
tin và tồn cầu hố tiếp tục phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh ngày càng quyết
liệt. Văn minh trí tuệ với hai đặc trưng là xã hội thông tin với kinh tế tri thức
đang đưa nhân loại đi tới những thay đổi lớn. Trong cuộc cạnh tranh để tồn tại
và phát triển xu hướng hội nhập, liên kết, hợp tác đang diễn ra mạnh mẽ trên
tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hố, an ninh, không chỉ giữa các nước xã
hội chủ nghĩa, mà cả giữa những nước có chế độ chính trị khác nhau.
Các nước đang phát triển đẩy mạnh đấu tranh để xây dựng trật tự công
bằng hơn trong hợp tác quốc tế, đặc biệt là lĩnh vực thương mại.
16
Khu vực châu Á, khối ASEAN vẫn tiếp tục phát triển năng động về
kinh tế, nhưng tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, có thể tác động
đến nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.
Tình hình nước ta sau hơn hai mươi năm đổi mới đã tạo ra được nhiều
thuận lợi và cơ hội lớn. Thế và lực, đặc biệt là thế của ta được tăng cường,
củng cố niềm tin của nhân dân vào cơng cuộc đổi mới. Trong hồn cảnh
hiểm nghèo của biến động thế giới, những chấn động chính trị ở Đơng Âu và
Liên Xơ, kẻ thù bao vây, cấm vận về kinh tế, tìm cách cơ lập ta về chính trị,
ngoại giao…, thì những gì chúng ta đạt được là cực kỳ quan trọng, có ý
nghĩa lớn lao cả về kinh tế, chính trị, đối ngoại. Nhờ đó đã tăng thêm sự nhất
trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Với một nền chính trị cơ bản ổn
định, chúng ta đang tạo được một môi trường hồ bình, hợp tác, liên kết
quốc tế có nhiều thuận lợi.
Tuy nhiên, chúng ta đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Cùng với
việc đối mặt với các nguy cơ đan xen nhau, thực tế năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp. “Cho đến nay nước ta
vẫn cịn trong tình trạng nước nghèo và kém phát triển, nhiều năng lực chưa
được phát huy, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết, nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn
tại”25.
Các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hồ bình”, gây sức
ép với ta dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo, tiếp tay
cho các thế lực phản động và bọn cơ hội chính trị trong nước hoạt động chống
phá ta ngày càng quyết liệt, thâm độc hơn. Nguy cơ tiềm ẩn đe doạ sự ổn định
chính trị của đất nước có mặt tăng lên, không thể xem thường.
25 Báo Nhân dân, ngày 19-5-2005.
17
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nắm vững cơ hội, đẩy lùi nguy cơ
theo tinh thần của Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Dân tộc Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh đã khẳng định mình trong thế kỷ
XX, đạt nhiều chiến công oanh liệt. Trong thế kỷ XXI, trên cơ sở kế thừa,
phát triển trung thành tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tìm ra được quy luật
của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Vấn đề hàng đầu là phải nắm vững quan điểm thực tiễn, giải đáp đúng
những vấn đề do thực tiễn cách mạng nước ta đang đặt ra hiện nay. Bởi vì
thực tiễn là tiêu chuẩn, thước đo chân lý. Mà chân lý là cái gì có lợi cho dân,
cho nước. Thực tiễn lớn nhất thời Hồ Chí Minh hoạt động là các dân tộc bị áp
bức vùng lên đấu tranh tự giải phóng. Thực tiễn đó gắn với nước ta trải qua
nhiều giai đoạn với những nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Trước năm 1945, dân
tộc ta đắm chìm trong đêm dài nơ lệ, nước mất độc lập, dân khơng có tự do.
Lúc đó, sống thân phận nơ lệ trong cảnh nước mất nhà tan là nỗi nhục lớn
nhất của người Việt Nam yêu nước. Vì vậy, nhiệm vụ hàng đầu là phải giải
phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc sẽ có tất cả. Khơng
giải phóng được dân tộc thì khơng có gì hết.
Từ sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám trở đi, thực tiễn lớn nhất của
nước ta là giữ vững, củng cố chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 đến năm 1975, thực tiễn cách mạng đặt ra
là phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền,
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Kháng chiến chống Mỹ thì phải có cách đánh phù hợp với chiến
trường Việt Nam. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thì phải phù hợp
với điều kiện có chiến tranh ở miền Nam và từ năm 1965 là chiến tranh trên
phạm vi cả nước.v..v… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững quan điểm thực
18
tiễn, bám sát đòi hỏi của thực tiễn đất nước, giải quyết thành công nhiệm vụ
cách mạng đặt ra: Giành được độc lập cho dân tộc, kháng chiến thắng lợi, đưa
miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, thực tiễn nước ta như đã nêu là tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết,
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới vẫn tồn tại. Chúng ta bắt đầu thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước khi các nước phát triển đã đi qua hai cuộc cách mạng công nghiệp, đi
vào kinh tế tri thức.
Trên cơ sở nhận rõ thực tiễn đó, bài học kinh nghiệm lớn Hồ Chí
Minh để lại cho ta là nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo khi tiếp thu
lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin; dùng lập trường,
quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để vận dụng sáng tạo lý
luận đó vào tình hình thực tế nước ta. Bước sang thế kỷ XXI, hơn lúc nào
hết, chúng ta kiên quyết đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới. Bởi vì đó là con
đường sống còn, một tất yếu lịch sử phù hợp với quy luật phát triển của cách
mạng nước ta, xu thế của thời đại; con đường đưa nước ta tiếp tục tiến lên.
Tuy nhiên cần nhận thức công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu thì đó là một
q trình cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp. Khơng thể nơn nóng,
chủ quan, cũng khơng thể chậm trễ. Một nhiệm vụ lớn đặt ra là phải đẩy
mạnh quá trình dân chủ hố về kinh tế, chính trị, đi đơi với tăng cường kỷ
luật, pháp luật. Mở rộng dân chủ với nhân dân, khơng bng lỏng chun
chính với các thế lực thù địch.
Nhận thức điều cốt lõi hiện nay là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Giải quyết từng vấn đề cụ thể về xây dựng Đảng, Nhà nước,
19
đại đồn kết tồn dân tộc, đạo đức, văn hố, đối ngoại… cũng phải hướng tới
mục tiêu và trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong xu thế tồn cầu hố, mở rộng quan hệ hợp tác thì khái niệm về
độc lập, chủ quyền quốc gia, tồn vẹn lãnh thổ cũng có những đặc điểm mới.
Giữa độc lập và phụ thuộc, độc lập và hợp tác về các mặt kinh tế, văn hố, an
ninh… có sự đan xen. Giờ đây, muốn giữ vững và bảo đảm chắc chắn độc lập
dân tộc, tự chủ, cần tạo được lợi thế kinh tế, một xu thế quốc tế năng động, đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, tạo được thế cân bằng, làm chủ
được các mối quan hệ giao lưu, trao đổi với thế giới bên ngoài… Tóm lại, ta
phải tạo ra được một sức mạnh tổng hợp; vững vàng về chính trị, mạnh về quân
sự, kinh tế, năng lực khoa học cơng nghệ; có trình độ giáo dục cao, giữ gìn bản
sắc văn hố dân tộc, chính sách đối ngoại khơn khéo, linh hoạt…
Phải nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc. Phải chú trọng mặt trận phi vũ trang. Vì vậy, xây dựng là tự bảo vệ,
chứa đựng nội dung bảo vệ. Đồng thời phải có giác ngộ chính trị cao, cảnh
giác cao độ; tạo phong trào tồn dân, toàn diện bảo vệ Tổ quốc theo tư tưởng
quốc phịng tồn dân của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam thế kỷ XX chứng minh sự lựa chọn của Hồ
Chí Minh về mục tiêu cách mạng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là duy
nhất đúng. Giờ đây hơn lúc nào hết, phải tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ hữu cơ, tác
động qua lại lẫn nhau. Theo cách nói của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì độc lập
dân tộc muốn phát huy đến mức cao nhất những giá trị và truyền thống quý báu của
mình thì phải hướng tới chủ nghĩa xã hội là cái đảm bảo cho những điều mong
muốn đó. Chủ nghĩa xã hội muốn phát huy đến mức cao nhất tính ưu việt của mình
thì phải gieo trồng trên mảnh đất độc lập dân tộc những hoa quả quý giá của mình.
20
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cuộc gặp có ý nghĩa thời đại giữa những gì là
quý báu nhất của dân tộc với những gì là cao đẹp nhất của lồi người. Đó là địi hỏi
bức xúc, sâu xa của nhân dân. Nó dần dần chín muồi trong tâm trí, tình cảm, hồi
bão, khí phách của dân tộc, trở thành niềm tin mãnh liệt và đi vào cuộc sống hàng
ngày, biến thành động lực cách mạng, tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Điều quan trọng hiện nay là phải có nhận thức đúng về chủ nghĩa xã
hội. Có thể lý giải, chủ nghĩa xã hội khơng phải là một mơ hình cứng nhắc,
thu lại trong một số tiêu chuẩn, mọi dân tộc đều phải rập khuôn theo, mà là
một chế độ xã hội tiên tiến, kế thừa mọi thành quả xưa nay của loài người.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại. Phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai, cái thiện và cái ác…
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của
Đảng chứa đựng các đặc trưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh về một xã hội dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, trong đó đạt được các
mục tiêu về chính trị (nhân dân làm chủ); về kinh tế (lực lượng sản xuất hiện đại);
về văn hoá (tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc); về con người (được giải phóng triệt
để, phát triển tồn diện); về quan hệ trong nước (bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ); về quan hệ với các nước trên thế giới (hữu nghị và hợp tác);
về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Phải thường xuyên phát triển chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và bồi
dưỡng lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Phát triển chủ nghĩa yêu nước hiện nay là chủ
21
nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, xoay quanh phạm trù trung tâm
là Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là sự phát triển của tư tưởng yêu
nước truyền thống. Hiện nay bồi dưỡng lý tưởng xã hội chủ nghĩa là phải giáo
dục cho mọi người nhận thức về Tổ quốc gắn bó hữu cơ với chủ nghĩa xã hội.
Một người Việt Nam yêu nước phải có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vì chỉ có lý
tưởng xã hội chủ nghĩa thì mới giải phóng xã hội, giải phóng con người triệt để,
và đó là sự hồn thiện lý tưởng giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện
nay là xã hội của những người lao động - lao động có hàm lượng trí tuệ cao
và lao động giản đơn; lao động trung thực, chất lượng, hiệu quả trên cơ sở
kỹ thuật, kỷ luật, năng suất, chống gian lận, dối trá, lừa lọc. Chỉ có như vậy
mới xố được đói, giảm được nghèo, đưa nước ta đi lên sánh vai cùng các
nước phát triển trên thế giới.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vơ giá của Đảng và dân tộc ta.
Giá trị tuyệt vời về lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ
độc lập, tự chủ, sáng tạo, đổi mới. “nói đi đơi với làm”; lý luận gắn liền với
thực tiễn; “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đồng chí Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh
cịn nhấn mạnh: “Đảng ta đã có đường lối đúng, chủ trương, chính sách đúng,
tức là nói đúng và phải làm đúng những điều đã nói. Trên tinh thần đó và với
niềm tin sâu sắc rằng tất cả chúng ta đều có lịng mong muốn biến các giá trị
văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh thành hành động cách mạng cụ thể,
thành lực lượng vật chất to lớn để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc của nhân dân,… đưa đất nước ta phát triển mạnh mẽ, bền vững, xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”26.
2.2. Một số vấn đề có tính giải pháp nhằm vận dụng phương pháp
luận Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay.
26 Báo Nhân dân, ngày 19-5-2005.
22
Thứ nhất, phải nhận thức rõ những nội dung cần vận dụng phương pháp
luận Hồ Chí Minh trong điều kiện lịch sử mới, đó là:
- Vận dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ
giữa lý luận và thực tiễn nhằm cung cấp luận cứ cho Đảng trong việc hoạch định
chủ trương, đường lối phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn cách
mạng; đồng thời, xác định rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Vận dụng và phát triển phương pháp luận Hồ Chí Minh trong giải
quyết các mối quan hệ, trọng tâm là mối quan hệ giữa mục tiêu cách mạng với
phương pháp cách mạng theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Một
khi giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ đảm bảo cho nước ta tranh thủ được và
phát huy tối đa mọi nguồn lực, nâng thế và lực của nước ta lên tầm cao mới.
- Vận dụng và phát triển phương pháp luận Hồ Chí Minh trong giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc và nhân loại, nhất là khi nước
ta đang thực hiện đường lối chủ động hội nhập và tăng cường hợp tác quốc tế,
trong đó có một số nước vừa là đối tượng, vừa là đối tác.
- Vận dụng và phát triển phương pháp luận Hồ Chí Minh trong giải
quyết mâu thuẫn giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tạo điều
kiện cho đất nước phát triển đúng định hướng, giữ được độc lập chủ quyền và
bản sắc văn hoá dân tộc, đấu tranh thắng lợi trước các âm mưu, thủ đoạn phá
hoại của các thế lực thù địch.
- Vận dụng và phát triển phương pháp luận trọng dân, thân dân, vì dân của
Hồ Chí Minh nhằm củng cố và tăng cường vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc,
tạo động lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Phấn đấu đạt mục tiêu
mà Đại hội X của Đảng đã xác định là: sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước
nghèo, chậm phát triển, trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020.
23
- Ngồi ra, cịn phải chú trọng vận dụng và phát triển các quan điểm có
tính chất phương pháp luận Hồ Chí Minh như quan điểm tồn diện, hệ thống,
trọng điểm, thiết thực; cùng với quan điểm phát triển, đổi mới, hướng về cái
mới. Kết hợp chặt chẽ với vận dụng hệ thống quan điểm phương pháp luận đã
nêu trên, tất cả vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh”, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng
ta cần vận dụng tinh thần cách mạng và khoa học của Người để giải quyết tốt
những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, luôn luôn gắn lý luận
với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận,
trước hết về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta và công tác xây
dựng Đảng trong tình hình mới. Để việc vận dụng, phát triển hệ thống phương
pháp luận Hồ Chí Minh đạt kết quả cao, cần phải:
- Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp luận Hồ Chí Minh nói riêng ở
tầm lý luận, đảm bảo cho tư tưởng của Người ln xứng đáng với vị trí cùng
với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, của toàn dân tộc
Việt Nam một cách sâu rộng và bền vững.
- Cải tiến nội dung và hình thức học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có hệ
thống quan điểm phương pháp luận Hồ Chí Minh nhằm đạt hiệu quả cao hơn nữa,
đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” theo hướng thiết thực và cụ thể. Tìm tịi, vận dụng những hình thức sinh động,
phong phú để đưa tư tưởng Hồ Chí Minh và phương pháp luận của Người vào cuộc
sống, giải quyết có hiệu quả mọi việc, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đạt ra.
Kết luận
24
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã chứng tỏ Người là một nhà
hiền triết vĩ đại. Tư tưởng của Người là một hệ thống, được hình thành và phát
triển trong cả quá trình, được đúc rút từ thực tiễn hoạt động cách mạng. Một bộ
phận quan trọng trong tư tưởng ấy là hệ thống những quan điểm có tính chất
phương pháp luận lãnh đạo, chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn, là nhân tố góp
phần đem lại những thắng lợi rực rỡ cho cách mạng Việt Nam. Đây là cơ sở đặt
ra yêu cầu cơ bản là: trong q trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải
gắn chặt với nghiên cứu thực tiễn Cách mạng Việt Nam.
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chúng ta phải
tăng cường tuyên truyền, giáo dục rộng rãi tư tưởng của Người đến các tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ và trọng tâm là đội ngũ cán bộ đảng viên,
nhằm ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực đang xảy ra ở nhiều
nơi, cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là hiện tượng tham nhũng, hối lộ,
lãng phí, hách dịch, cửa quyền trong một bộ phận cán bộ đảng viên, làm cho
nhân dân hết sức bất bình, dẫn đến thiếu lịng tin vào Đảng, vào chế độ. Điều
đó đã và đang làm tổn hại đến thanh danh của Đảng và trở thành một trong
những nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước, làm cho các thế lực
thù địch có cớ để xun tạc, bơi nhọ Đảng và Nhà nước ta.
*********
25