Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Luyện tập ngữ văn HKII lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.43 KB, 20 trang )

LUYỆN TẬP CÁC DẠNG ĐỀ NGỮ VĂN HKII LỚP 8
NĂM HỌC: 2021 – 2022
A. Đề số 1: Luyện tập viết đoạn văn nghị luận văn học - xã hội.
I. Đọc - hiểu nội dung sau và trả lời câu hỏi:
“Đối với vi trùng, chúng ta có kháng sinh là vũ khí hỗ trợ đắc lực cho hệ miễn dịch của cơ thể. Song với
virus, toàn bộ gánh nặng đều được đặt lên vai hệ miễn dịch. Điều này giải thích, tại sao virus corona gây chết
người ở người lớn tuổi, có bệnh mãn tính nhiều hơn. Tất nhiên, vẫn cịn hai bí ẩn: nó gây chết nam giới nhiều
hơn, và trẻ em - người có hệ miễn dịch chưa phát triển tốt - lại ít bị nhiễm hơn.
Như vậy, trong đại dịch do virus corona gây ra lần này, vũ khí tối thượng mà chúng ta có là hệ miễn dịch
của chính mình. Tất cả các biện pháp đang được khuyến cáo như mang khẩu trang, rửa tay, tránh tiếp xúc...
chỉ hạn chế khả năng virus này xâm nhập vào cơ thể ta. Cịn khi nó đã xâm nhập rồi, chỉ có hệ miễn dịch mới
cứu được chúng ta.
Muốn cho hệ miễn dịch khỏe mạnh, cần ăn uống đủ chất, đủ vitamin, tập luyện thể thao. Đặc biệt, lối sống
vui vẻ, lạc quan giúp hệ miễn dịch rất nhiều.”
(Trích bài Cái giá của khẩu trang, Bác sĩ Võ Xuân Sơn trên báo vnexpressnet, 5/2/2020)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2: Câu: “Tất cả các biện pháp đang được khuyến cáo như mang khẩu trang, rửa tay, tránh tiếp xúc...
chỉ hạn chế khả năng virus này xâm nhập vào cơ thể ta” Xét theo mục đích nói thuộc kiểu câu gì?
- Nếu xét theo mục đích nói thì câu trên thuộc kiểu câu nghi vấn.
Câu 3: Theo tác giả muốn cho hệ miễn dịch khỏe mạnh, ta cần phải làm gì?
- Muốn cho hệ miễn dịch khỏe mạnh, cần ăn uống đủ chất, đủ vitamin, tập luyện thể thao. Đặc biệt, lối sống
vui vẻ, lạc quan giúp hệ miễn dịch rất nhiều.
II. Tạo lập văn bản.
Câu 4: Viết đoạn văn (khoảng 1 trang giấy) từ nội dung đoạn trích trên trình bày suy nghĩ về tinh thần
tương thân tương ái trong phòng chống COVID - 19.
Bài Làm: Hiện nay, trên toàn cầu cũng như trên mảnh đất Việt Nam chúng ta đã phải hứng chịu cơn đại dịch
COVID – 19 đang hoành hành khắp mọi nẻo đường, đây là dịch bệnh có sức lan truyền nhanh chóng và chúng
ta sẽ phải gặp những vấn đề lo ngại về sức khỏe bản thân sau này. Trong đoạn trích bài “Cái giá của khẩu trang”
thì tác giả có nói: “Vũ khí tối thượng mà chúng ta có là hệ miễn dịch", nhưng khơng chỉ dừng lại ở đó, mà
muốn bảo vệ được bản thân, gia đình và cả cộng đồng trong xã hội thì việc có tinh thần tương thân tương ái sãn


trong lòng mỗi người sẽ phải bộc phát, trỗi dậy để cùng chiến thắng đại dịch COVID – 19. Vậy, tinh thần tương
thân tương ái là gì? Tại sao nó lại quan trọng đến thế? Đó chính là tinh thần, là tình yêu thương của mọi người
cùng nhau đùm bọc, sống hòa thuận và cũng thể hiện tình thương mến giữa con người với con người. Qua lẽ
đó, tinh thần tương thân tương ái vơ cùng quan trọng, nó là sức mạnh, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam ta. Điều đó thể hiện rõ khi tình hình dịch dã ở Sài Gịn đang chuyển biến nặng nề, số ca nhiễm gia tăng
liện tục cùng với số người chết ngày ngày khiến tâm lí người dân trở nên hoảng loạn, mất dần đi lí trí vững
vàng vốn có, mất niềm tin với cuộc sống, với đất nước. Thấy tình trạng nguy kịch như vậy, các bác sĩ ở tất cả
các tỉnh thành, mọi miền đất nước hội tụ về để giảm nguy cơ lây nhiễm, chữa bệnh và mang lại niềm hi vọng bé
nhỏ cho người dân nơi đây. Cùng với những đội nhân viên cứu trợ, cung cấp lương thực, thực phẩm, bình oxi,
thuốc men... khiến người dân vơ cùng cảm khích tấm lịng thương dân của các “chiến sĩ áo trắng”. Cũng từ đó
mà mốc năm 2021 cũng nhiểu chuyển biến thuận lợi hơn vì chính tinh thần tương thân tương ái xuất phát từ trái
tim mỗi người, cũng từ việc làm đó mà tinh thần ấy xuất hiện ngày càng nhiều, len lỏi khắp phố phường để mọi
người cùng sẻ chia, cùng cố gắng vượt qua những gia đoạn trở ngại đó. Hơn nữa, trong q trình dịch bùng
phát, em thấy vơ cùng cảm phục những chiếc sĩ áo trắng ngày đêm đối mặt với tử thần để bảo vệ sức khỏe, an
nguy cho người dân. Hàng ngàn bác sĩ và cán bộ y tế đã phải xa nhà, gia đình để túc trực cơng tác. Chính vì thế,
chúng ta càng phải biết trân trọng những công lao to lớn mà các bác sĩ đã dành ra cho cả xã hội và đất nước.
Các bác sĩ đã khơng ngại kkhó khăn, mệt mỏi mà vẫn dành ra thời gian để thăm khám các bệnh nhân do chính
tay mình điều trị. Có những người còn hát cho bệnh nhân nghe, tiếp thêm tinh thần chiến thắng bệnh tật, vượt
qua thự thách gian nan trong đại dịch. Thường thường, các bác sĩ và các bệnh nhân vẫn quay video gửi về cho
gia đình họ để truyền tin rằng là sống nơi đây vô cùng vui, vô cùng ấm cúng, đỡ được phần nào sự lo lắng của
gia đình cũng như các nạn nhân. Ấy vậy mà trong xã hội này,vẫn xuất hiện những thành phần làm trái với đạo lí
của cha ơng, họ đi ngược lại với tinh thần tương thân tương ái. Nhiều người có thói ích kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản
thân, ỷ lại vào sự giúp đỡ từ chính quyền địa phương mà đáng lẽ những buổi phong trào ấy chỉ dành cho những
người đã lâm phải hồn cảnh khó khăn, thiếu thốn về lương thực, thuốc men... Nhiều người ác ý, muốn đối đầu
với chính quyền Nhà Nước, họ sẵn sàng kêu la, khóc thét trên mạng xã hội để chỉ trích, nói xấu chế độ Nhà


Nước chỉ vì việc vận chuyển lương thực của họ chậm hơn dự kiến.Những con người ấy thật bỉ ổi, mà hơn thế,
có những thành phần cịn lợi dụng việc bán thiết bị y tế, thực phẩm để kiếm tiền, nâng giá lên vô cùng đắt đỏ
mà không đến mức thế, nhưng bán một hợp khẩu trang tận 500.000 đồng. Vậy qua đó, ta hiểu được rằng trong

xã hội thì ln có mặt trái mặt phải, nhưng khơng vì thế mà chúng ta lại nghĩ tiêu cực về cuộc sống, hướng tới
những điều tốt đẹp để rồi chia sẻ cho mọi người cái tinh thần mà mình vun đắp được bấy lâu, đặc biệt là tinh
thần tương thân tương ái trong giai đoạn COVID - 19 như hiện giờ. Việc phát huy tinh thần tương thân tương ái
của dân tộc ta trong lối sống, trong học tập chính là trách nhiệm to lớn của thế hệ trẻ chúng ta, hãy sẵn sàng
tham gia các hoạt động xã hội để có cơ hội san sẻ niềm thương của bản thân với mọi người.
Câu 5: Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề game của giới trẻ hiện nay?
Bài Làm: Trong thế giới hiện đại ngày nay, việc sở hữu riêng những chiếc điện thoại, máy tính, cụ thể là các
thiết bị điện tử là một điều khá phổ biến hiện giờ. Làm việc cùng với các thiết bị điện tử là vô cùng cần thiết, kể
cả trong mọi ngành, như nghề giảng dạy cũng đều sử dụng các thiết bị hiện đại để phục vụ cho bài giảng một
cách dễ dàng hơn, chứ khơng riêng gì phải ngành IT mới được sử dụng. Chính vì thế, việc mọi người lạm dụng
sự thiết yếu của các thiết bị điện tử, đặc biệt là giới trẻ hiện nay đã được tiếp cận sớm với nền công nghệ tiên
tiến cũng không thể tránh khỏi việc tay lúc nào cũng cầm khư khư cái điện thoại. Song hành cùng với các ứng
dụng phục vụ học tập và làm việc, cịn có cái tên gọi nữa là “trò chơi điện tử” hay có thể nói là game online.
Với sự phát triển khơng ngừng nghỉ của cơng nghệ hiện đại, trị chơi điện tử bùng nổ như vậy là lẽ đương
nhiên, bởi vậy nó ảnh hướng lớn đối với tâm lí thế hệ trẻ sau này. Trò chơi điện tử (game) là một dạng giải trí
đối với con người sau những giờ học căng thẳng, mệt mỏi. Nó được sáng tạo bởi những người tài giỏi, thơng
minh, có trí óc tưởng tượng phong phú. Như ta biết, cái gì cũng có mặt tích cực và mặt tiêu cực, game là một
thứ không hề xa lạ đối với chúng ta, ta hiểu những điều tiêu cực về nó khi đọc qua các bài báo, nhưng ta cũng
không thể phủ nhận được sự thú vị, sự giải trí từ những thứ game này. Thế nên, vì sự hấp dẫn của nó q lớn,
khiến cho mọi người, đặc biệt là lứa tuổi học sinh như chúng em cũng đều có thể sa đọa vào các game online.
Mặc dù nói ảnh hưởng nhiều tới thế hệ học sinh, nhưng chính nó cũng có thể tiêu khiển được cả người lớn và
trẻ em. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu giải trí ngày càng cao, chính vì thế mà game online càng phổ
biến rộng rãi. Mặc dù vậy thì game vẫn chứa nhiều tác hại tiềm ẩn, cụ thể là các quán nét bên lề đường mọc lên
ngày càng nhiều, lúc nào cũng trong tình trạng chật kín người, đối tượng chơi thường là các học sinh cấp 2, cấp
3 trở lên. Nhiều bạn dành cả ngày chỉ để “cắm” mặt vào màn hình vi tính, chơi điện tử nhiều giờ mà không
ngừng nghỉ. Việc làm đó ẩn chứa nhiều nguy cơ, ảnh hưởng to lớn đến tình hình học tập và tương lai của rất
nhiều bạn trẻ. Tồi tệ hơn nữa là xuất hiện tình trạng học sinh bắt đầu nghỉ học để tụ tập chơi game ở các quán
nét gần đó, tác động xấu đến hình ảnh nhà trường và chất lượng học tập của các em. Vậy tại sao game lại hấp
dẫn đến như vậy, đặc biệt là giới trẻ chúng em? Vì nó mang màu sắc tươi mới, đồ họa đẹp, hấp dẫn và cũng
không cần phải suy nghĩ quá logic như việc làm bài tập về nhà, và nó tạo cảm giác thoải mái, hợp với tâm lí

giới trẻ. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là người chơi khơng tự làm chủ, điều khiển được bản thân để rồi sa đà
vào game đến mức khơng thể dứt ra được, nó được coi như là nguồn sống đối với những người như thế. Khơng
chỉ vậy, việc gia đình chưa quản lí chặt chẽ con em mình cũng là một trong ngun nhân chính dẫn tới nghiện
game. Cha mẹ chưa quan tâm, dạy bảo đúng cách, nhiều nhà còn áp dụng bạo lực khiến con em trở nên cứng
nhắc, lì lợm, càng dễ sa đọa vào những cái xấu, cụ thể là nghiện game. Nhà trường vẫn chưa tạo được nhiều sân
chơi cho học sinh khiến học sinh lười vận động, chây ì một chỗ chơi game. Một nguyên nhân sâu xa khác nữa
chính là do áp lực học tập quá lớn khiến những đứa trẻ thèm khát sự tự do, thích chinh phục khám phá để trở
thành người giỏi nhất, để bạn bè tơn vinh và bái phục, chúng tự mày mị đến việc chơi game một cách giấu
diếm, rồi dẫn đến việc học bị sa sút trầm trọng. Cuối cùng, Nhà Nước vẫn chưa quản lí chặt chẽ hệ thống mạng
internet, khiến vẫn xuất hiện những trang báo đồi trụy, không phù hợp với lứa tuổi, vẫn cho phát hành game bạo
lực bắn, giết nhau. Mặc dù có đợt nhà nước ta cũng đã triển khai không du nhập các game online chứa hình ảnh
bạo lực nữa nhưng đến thời điểm hiện tại thì nó vẫn phát hành trên các thiết bị điện tử một cách rộng rãi. Vì
game mà các bạn trẻ bước vào thế giới ảo, chán nản với cuộc sống thực tại, để rồi sa đà vào những tệ nạn xã hội
như trộm căp, giết người..... Rất nhiều bạn cũng mắc bệnh hoang tưởng từ những trò chơi khiến gia đình vơ
cùng lo lắng, xã hội vơ cùng bức xúc. Có thể nói game cũng là nguyên nhân dẫn đến suy thoái đạo đức con
người. Chơi game làm hại bản thân cũng như gia đình vừa tốn tiền vừa tốn thời gian lại làm suy yếu sức khỏe.
Khoa học đã chứng minh: Nếu con người tiếp xúc với máy tính nhiều sẽ rất ảnh hưởng đến cơ thể như (hại mắt,
tổn thương đến hệ thần kinh, đặc biệt là não) khiến trí nhớ cũng suy giảm, việc nghe giảng sẽ trở nên khó khăn
vì chúng ta nhớ nhớ qn quên. Chơi game còn ảnh hưởng đến lối sống, tác phong, quên ăn quên ngủ chỉ chăm
chú vào game, không quan tâm gia đình, bạn bè. Mỗi chúng ta phải xác định được nhiệm vụ chính là học tập,
rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nhân cách, khơng lãng phí thời gian vào trị chơi vơ bổ, thậm chí có hại, biết chế
ngự, kìm nén bản thân để khơng xa vào những trị chơi chết người đó. Khun những người bạn ham mê điện
tử, bên cạnh đó phải có sự quan tâm thường xuyên của gia đình, sự quản lý của nhà trường và xã hội, để giúp


cho con em mình tránh xa những đam mê tai hại đó. Nhà trường cần giáo dục, phối hợp thế hệ trẻ tạo ra những
sân chơi bổ ích có trí tuệ để tất cả các bạn đều tham gia. Nhà nước cần có các biện pháp đối với nhà sản xuất
game, chỉ sản xuất những game bổ ích, nghiêm cấm game bạo lực. Mỗi chúng ta hãy nhận thức được rằng việc
chơi game online là không tốt nhưng nếu chúng ta biết tận dụng nó đúng lúc thì trong những khoảng thời gian
đó chúng ta rất vui, có thể xã stress sau những giờ học mệt mỏi. Cũng như phải thấy được mặt trái của game và

hậu quả của việc nghiện game để cịn lường trước việc bản thân có nguy cơ sa đà những thứ đó. Ham chơi điện
tử là một ham muốn nhất thời nhưng tác hại vô cùng to lớn, vì tương lai của chính mình, chúng ta đừng để bản
thân mắc vào những trò chơi tai hại đó mà hãy biết trau dồi bản thân tiến bộ hơn, có học thức và rồi chia sẻ cho
mọi người những tác hại của game gây ra, từ đó nghiện game có thể giảm đi đáng kể.
B. Đề số 2: Luyện tập làm đề văn.
I. Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi:
Bờ ao đầu làng có một cây si già. Thân cây to, cành lá xum xuê, ngả xuống mặt nước. Một cậu bé đi ngang
qua. Sẵn con dao nhọn trong tay, cậu hí hốy khắc tên mình lên thân cây. Cây đau điếng, nhưng cố lấy giọng
vui vẻ, hỏi cậu:
 Chào cậu bé. Tên cậu là gì nhỉ?
 Cháu tên là Ngoan.
 Cậu có cái tên mới đẹp làm sao!
Mặt cậu bé rạng lên. Cậu nói:
 Cảm ơn cây.
 Này, vì sao cậu khơng khắc tên lên người cậu? Như thế có phải tiện hơn khơng? – Cây hỏi.
Cậu bé rùng mình, lắc đầu:
 Đau lắm, cháu chịu thơi!
 Vậy, vì sao cậu lại bắt tôi phải nhận cái điều cậu không muốn?
(Theo Trần Hồng Thắng)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên?
- Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên: Tự sự.
Câu 2: Cậu bé trong văn bản đã có hành động gì với cây si già? Hành động đó đúng hay sai, vì sao?
- Cậu bé trong văn bản đã có hành động: Khắc tên mình lên thân cây si già.
Câu 3: Xác định kiểu câu và chức năng của câu sau: “Tên cậu là gì?”?
- Kiểu câu: Nghi vấn => Dùng để hỏi.
Câu 4: Đặt trên tiêu đề cho đoạn văn trên?
- “Cậu bé và cây Si Già" hoặc “Điều không mong muốn".
Câu 5: Từ hành động của cậu bé trong văn bản trên, em có suy nghĩ gì về sự vô cảm của một bộ phận học
sinh hiện nay? Trả lời khoảng 3 - 5 dòng.
Bài Làm: Qua câu chuyện “Cậu bé và Cây Si già” cũng như từ hành động của cậu bé trong văn bản trên, ta có

thể dễ dàng liên hệ với thực trạng của các bạn trẻ ngày nay. Hành động của cậu bé là biểu hiện của sự vô cảm
của một bộ phận học sinh hiện. Cậu chỉ quan tâm tới suy nghĩ của mình, niềm vui của mình mà vơ tình cũng
mặc kệ nỗi đau của người khác. Lời nói của cây si khiến chúng ta ln thấm thía nhớ về bài học là: Đừng nên
bắt người khác nhận lấy sự đau đớn mà họ khơng muốn để chỉ làm mình được hạnh phúc. Qua đó, ta có thể
hiểu sâu hơn về tình trạng thói vơ cảm xuất hiện ở mọi người, cũng như lứa tuổi học sinh ngày càng nhiều, để
lại nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho môi trường học đường và xã hội. Những bạn lứa tuổi như chúng em chỉ chăm
chú và những thứ ảo trên mạng, không quan tâm đến gia đình, bạn bè, điều đó ảnh hưởng vơ cùng xấu tới tương
lai bọn trẻ sau này. Vậy, chỉ chúng ta mới cứu được bản thân, hãy nhận thức được rằng bệnh vô tâm làm cho
người sống tự thu hẹp mình lại, trở thành một kẻ vơ lương tâm, vơ trách nhiệm, chúng ta càng phải cố gắng hịa
đồng, biết yêu thương mọi người xung quanh. Là một học sinh cần biết yêu thương, quan tâm đến bạn bè, thầy
cơ và những người xung quanh tích cực tham gia phòng trào của nhà trường để lên án mạnh mẽ căn bệnh vô
cảm cũng như rèn luyện bản thân lối sống đạo đức, lành mạnh và tốt đẹp.
II. Tạo lập văn bản.
Câu 1: Nêu suy nghĩ về câu tục ngữ “Học đi đôi với hành” (Bài văn nghị luận sử dụng yếu tố tự sự, miêu
tả và biểu cảm).
Bài Làm: Người xưa đã nói: “Trăm hay khơng bằng tay quen”, muốn trở thành một người tài giỏi, trở thành
một người được trọng dụng trong cái xã hội hiện đại như bây giờ, thì chúng ta phải càng đun đúc, trau dồi kĩ
năng để hoàn thiện bản thân trở nên tốt hơn, để có thể bước tiến xa hơn trên đường đời. Nhưng đầu tiên, ta phải
tìm ra được phương pháp rèn luyện đúng đắn, vậy “Học đi đôi với hành” chính là chìa khóa vàng để đạt tới
thành cơng đó, nó khơng chỉ có ý nghĩa trong một thời điểm mà cịn có giá trị mãi về sau này.


Vậy để hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của câu tục ngữ “Học đi đơi với hành” thì trước tiên ta phải hiểu thế nào là
học? Học là lĩnh hội, tiếp thu kiến thức từ những nguồn kiến thức từ thầy cơ, trường lớp, là cả một q trình
tiếp thu kiến thức, thu nhập tri thức từ trong sách vở và trong cuộc sống. Học là học có chọn lọc, chỉ tiếp nhận
những nguồn kiến thức hữu ích, các điều hay, lẽ phải, là nền tảng cho việc áp dụng thực tế đạt hiệu quả cao.
Học không chỉ là sự tiếp thu kiến thức từ trong sách vở mà còn là việc học các lễ nghi chứ không phải riêng
một chủ đề nào đó. Nó giúp con người mở mang tầm hiểu biết và trở thành người có ích cho xã hội, người
khơng có kiến thức thì sẽ khó tồn tại trong xã hội, sẽ bị mọi người khinh bỉ, chán ghét. Vậy hành là gì? Hành ở
đây có nghĩa là thực hành, hành động, biết vận dụng những điều được học để áp dụng vào thực tế cuộc sống.

Vận dụng những điều đã biết trong sách vở vào thực tiễn thành hành động mang lại của cải vật chất cho xã hội.
Hành cịn là mục đích của việc học, để có đủ đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống. Việc thực hành sẽ giúp ta nắm
chắc kiến thức hơn, nhớ lâu và hiểu sâu hơn những thứ được học. Trện thực tế thì hai mối quan hệ “học” với
“hành” là vơ cùng mật thiết, đẩm bảo được tính thống nhất trong công việc.
Vậy tại sao “học” phải đi đôi với “hành”?, nhiều người lầm tưởng rằng “Chỉ cần học lí thuyết là giỏi rồi, khơng
nhất thiết phải thực hành cho đỡ mất thời gian”, nhưng ý nghĩ đó là sai hồn tồn, học chỉ là q trình tiếp nhận
các kiến thức từ thế giới bên ngồi để từ đó áp dụng trong cuộc sống của mình, mục đích của nó là làm giàu
nguồn tri thức của con người nâng cao trình độ hiểu biết để có thể làm chủ cuộc đời mình. Cịn hành chỉ là việc
áp dụng điều mình đã học được vào thực tế, từ đó có thể củng cố thêm lí thuyết cho bản thân. Hai cụm “học”
với “hành” luôn đi đôi với nhau không tách rời ra được. Mặc dù học lí thuyết có cao siêu như thế nào đi chăng
nữa mà không thực hành trong cuộc sống thì nó chỉ làm tốn thời gian vì chúng ta chỉ học mà khơng dành thời
gian để thực hành những cái đó. Cịn nếu chỉ có hành mà khơng có học thì sẽ khơng bao giờ đạt kết quả cao, vì
chúng ta chỉ có làm mà khơng học hỏi thêm nguồn kiến thức mới thì trí thức của chúng ta chỉ mãi dừng ở một
mức độ nhất định, không thể tiến xa thêm được nữa. Vậy qua đó, ta càng hiểu sâu sắc hơn tầm quan trọng của
“học” đi đơi với “hành”, nó là một phương pháp đúng đắn nhất, khoa học nhất để giúp việc học tập thêm vững
chắc và khắc sâu.
Học đi đôi với hành là một phương pháp vô cùng cần thiết và hữu dụng đối với tất cả mọi người. Ai cũng đều
có quyền được học, ai cũng đều có quyền được thực hiện theo lối nghĩ sáng tạo để mang đến những giá trị to
lớn đối với xã hội, nước nhà. Để nói về lợi ích của phương pháp “Học đi đơi với hành” thì nhiều vơ kể, giúp
cho chúng ta đạt hiệu quả cao trong học tập, tiến bộ và học hỏi nhanh, nhớ lâu hơn, hiểu sâu hơn những gì mình
đã được học. Học đi đơi với hành sẽ soi sáng cho ta nhiều điều cụ thể và sinh động. Càng phát triển thêm nguồn
nhân lực dồi dào, xây dựng được ý nghĩ là ln đóng góp hết mình cho đất nước, cho xã hội kể từ đó thì việc
học là không bao giờ nhàm chán mà chúng ta lại càng thích thú và sẵn sàng bỏ ra nhiều thời gian để tìm hiểu,
chứng minh một cái gì đó, khơng lãng phí thời gian vào những thứ vơ bổ, vơ lợi cho bản thân.
Hiện nay thì học sinh cũng như mọi người đang có suy nghĩ, cũng như cách học sai lầm dẫn đến không đạt hiệu
quả cao. Việc học quá nhiều kiến thức mà lại không được thực hành thì trong q trình học sẽ khơng đảm bảo,
học một cách máy móc thì lượng kiến thức mà chúng ta tích lũy sẽ bay đi nhanh chóng nếu khơng được ơn
luyện thực hành. Nhiều người hiện giờ cịn có thói học chuộng hình thức, tức là lối học thuộc lịng, học vẹt, học
mà không hiểu, học mà không biết vận dụng, không biết phát huy tác dụng của việc học vào việc hành, xử đạo
ở đời. Học như thế chỉ có cái danh hão mà khơng có thực chất. Cách học đó gây hệ quả tồi tệ và có thể mất gốc

kiến thức. Thứ hai là cách học cầu danh lợi, học theo xu hướng mà khơng có cách học riêng, phù hợp với bản
thân, chỉ học để đỗ đạt có danh tiếng, bằng cấp, phẩm hàm, được người đời trọng vọng chứ không giúp tiếp thu
lượng kiến thức vào thân mình. Đây chỉ là một số những cách học sai lầm mà bây giờ mọi người đang làm theo
một cách mù quáng. Vậy nên, là một học sinh chúng ta phải có ý thức đúng đắn trong việc học và hành, phải có
thái độ nghiêm túc, phải biết vận dụng sáng tạo vào thực hành. Có như vậy hiệu quả học tập mới được nâng
cao.
Học tập vốn là một quá trình lâu dài và nhiều gian nan, vất vả. Bên cạnh sự chăm chỉ, cần cù, có một phương
pháp học tập đúng đắn cũng là yếu tố giúp chúng ta đi đến thành công. Bàn về phương pháp học, mỗi người lại
có một phương pháp khác nhau, phương pháp nào cũng đúc kết những kinh nghiệm quý báu hỗ trợ chúng ta
trên con đường chiếm lĩnh tri thức. Thế nhưng, chúng ta cũng không nhất thiết phải quá khắt khe trong việc
học, chỉ cần chúng ta học đơn giản, hiểu được những gì mình đang học thì đó dã là một thành quả rất lớn rồi.
Hãy thường xuyên học hỏi, vận dụng cách học hay để phát huy tối đa chương trình mình theo học. Từ đó, bản
thân chúng ta sẽ thay đổi theo cách học “Học đi đôi với hành” và phương pháp học mà mình theo đuổi để rèn
luyện chúng ta ngày một tiến bộ hơn.
Vậy học hành chính là hai từ khơng thể tách rời trong quá trình học tập và làm việc của chúng ta trong bất cứ
đâu, hãy biết tận dụng và nhanh nhạy trong việc học hỏi từ những nguồn kiến thức mới, biết áp dụng câu tục
ngữ “Học đi đôi với hành” để nâng cao bản thân cũng như có thể chia sẻ cho mọi người phương pháp học đúng


đắn này. Mọi người trong mỗi chúng ta đều phải được tiến bộ cùng nhau thì mới tạo nên một thế giới, một cuộc
sống tích cực và ý nghĩa được.
C. Đề số 3 - Ôn tập văn bản “Nước Đại Việt ta” (Nguyễn Trãi).
 Phiếu học tập số 1:
I. Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương,
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có... …"
(Trích Nước Đại Việt ta - Ngữ văn 8, tập II, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016)
Câu 1: Tác giả của văn bản có chứa đoạn trích trên là ai? Văn bản chứa đoạn trích trên thuộc thể loại
nào? Hãy trình bày những hiểu biết của em về thể loại đó?
- Tác giả của văn bản có chứa đoạn trích trên là Nguyễn Trãi.
- Văn bản có chứa đoạn trích trên thuộc thể loại là Cáo.
- Cáo: Là thể văn nghị luận cổ được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ đề hay công bố kết
quả một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Được viết bằng văn biền ngẫu.
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì? Nêu hồn cảnh sáng tác văn bản?
- Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên: Nghị luận.
- Hồn cảnh sáng tác văn bản: Tác phẩm “Bình Ngơ Đại Cáo” ra đời trong khơng khí hào hùng của ngày
vui đại thắng (1428) sau 10 năm kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Câu 3: Nêu nội dung chính của đoạn trích trên?
- Nội dung chính của đoạn trích: Thể hiện niềm tự hào của tác giả khi nước Đại Việt có chủ quyền, độc lập
dân tộc, có văn hóa, truyền thống, lịch sử riêng để chứng tỏ đất nước dần tiến bộ và sánh vai với triều đại
phong kiến Phương Bắc.
Câu 4: Hãy giải thích từ “nhân nghĩa”?
- Giải thích từ “nhân nghĩa”: Là đạo lí, cách ứng xử tình thương giữa con người với con người.
Câu 5: Qua hai câu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là gì?
- Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là “yên dân” ; “trừ bạo”.
 Yên dân là đem lại cuộc sống yên ổn cho dân
 Trừ bạo là muốn nước yên dân thì phải diệt trừ các thế lực tàn bạo, cụ thể là giặc Minh.
 Đây là cốt lõi tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi. Nhân nghĩa là lo cho dân cho nước và gắn liền với yêu

nước chống ngoại xâm.
Câu 6: Tìm những từ ngữ, biện pháp nghệ thuật tác giả sử dụng trong đoạn thơ đó? Tác dụng?
- Các từ ngữ: Vốn, đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời, đời nào, cũng có.
 Với các phó từ chỉ quan hệ thời gian đi kèm, tác giả như muốn khẳng định một cách chắc chắn nền độc lập,
chủ quyền của đất nước ta vốn từ lâu đời.
- Đoạn trích sử dụng các biện pháp: Liệt kê, so sánh, phép đối, sử dụng văn biền ngẫu.
 Đặt vị trí nước ta ngang hàng với Phương Bắc, giọng văn hào hùng, nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc và
lịch sử vẻ vang của Đại Việt.
Câu 7: Ở bài “Nước Đại Việt ta” đã tiếp nối và phát triển những yếu tố nào so với bài “Sông núi nước
Nam”?
- Để khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc, tác giả đã dực vào những yếu tố:


Văn hiến lâu đời, nền văn hiến đã lâu.
Phong tục tập quán
Lịch sử hình thành và phát triển riêng
Chế độ Nhà Nước riêng, bình đẳng ngang tầm với triều đại Trung Quốc.
Bài thơ “Sông núi nước Nam” của tác giả Lý Thường Kiệt đề cập tới sự độc lập lãnh thổ và chủ quyền nước
Nam, vua Nam ở.
- Tới bài “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi vẫn khẳng định về lãnh thổ, chủ quyền. Có mở rộng, khẳng
định nền văn hiến lâu đời, phong tục, lịch sử, triều đại.
Câu 8: Vì sao “Bình Ngơ Đại Cáo” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam?
- Có ý thức về nền độc lập dân tộc (Sông núi nước Nam) được xác định trên hai phương diện: Lãnh thổ
(Sông núi nước Nam) và chủ quyền (Vua Nam ở).
- Bình Ngộ Đại Cáo ý thức dân tộc cao hơn, sâu sắc và toàn diện nhiều hơn. Ngoài hai yếu tố lãnh thổ và chủ
quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung bằng các yếu tố mới, đầy ý nghĩa. Đó là nền
văn hiến lâu đời, phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng bao đời xây nền độc lập.
II. Tạo lập văn bản.
Câu 9: Từ nội dung đoạn trích trên, em hãy viết một đoạn văn ngắn (5 - 7 câu) nêu suy nghĩ của em về
vấn đề được gợi ra trong đoạn trích.

Bài Làm: Từ trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ bản “Bình Ngô Đại Cáo”, ta thấu được phần nào
niềm tự hào của Nguyễn Trãi về sự trường tồn độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt. Bài Cáo được ra đời
trong khơng khí hào hùng của ngày vui đại thắng cuối năm 1427 đến đầu năm 1428 khi nghĩa quân Lam Sơn đã
chấm dứt được 10 năm quân Minh xâm lược. Mở đầu bài cáo đã là bản tuyên ngôn nhân nghĩa, càng thể hiện rõ
về cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là “yên dân” và “trừ bạo”. Muốn trở thành một đất nước
hưng thịnh sau này, trước tiên phải lo cho dân cuộc sống yên ổn, ấm no thì mới trở thành nước Đại Việt thái
bình, thịnh vượng được. Mà muốn yên dân thì phải lo diệt trừ các thế lực tàn bạo và Đại Việt ta đã làm được
điều đó trước khi bảo tuyên ngôn được ra đời. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt
đã phải trải qua biết bao nhiêu đau thương dưới ách thống trị của giặc. Như vậy qua đó, khái niệm nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi gắn liền với tình yêu dân, gắn liền với quốc gia, dân tộc, dù tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
nhưng trong lịng thì ln giữ vững được sự hào kiệt, sự mãnh liệt khát khao đưa đất nước khỏi ách đô hộ của
bọn giặc. Những kẻ bạo ngược mà Nguyễn Trãi nói ở đây chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược
nói chung, ơng muốn khẳng định trước tất cả bọn chúng là một Đạt Việt có chủ quyền riêng, có phân chia vị trí
rõ ràng từ xưa đến nay, hà cớ gì mà bọn chúng lại kéo đến xâm lăng để rồi dân lại sống trong đau thương, khổ
cực. Niềm tự hào của tác giả về đất nước Đại Việt không chỉ bao gồm cương vực, địa phận mà cả những giá trị
tinh thần như truyền thống lịch sử, nền văn hiến lâu đời và cả phong tục tập quán của quê nhà. Với những yếu
tố căn bản , Nguyễn Trãi lại lần nữa nhằm khẳng định mạnh mẽ Đại Việt là một đất nước độc lập có chủ quyền,
ngang hàng với triều đại phong kiến Phương Bắc. Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ
những nét riêng biệt trong quần chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự độc lập về
bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất như Triệu, Đinh, Lý, Trần đã lập nên bao nền
độc lập, ai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó khẳng định vị thế ngang hàng
nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Qua đoạn trích “Nước Đại Việt Ta”, trong lịng ta dâng trào ý chí
quyết liệt, bừng chảy suy nghĩ bảo vệ chủ quyền của đất nước. Khi chúng ta được sống trong một đất nước độc
lập chủ quyền là niềm tự hào, niềm hạnh phúc của mọi người ngày nay. Thế hệ chúng ta cần phải biết ơn thế hệ
cha ông đã đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, xương máu thậm chí là tính mạng. Vậy chúng ta cần làm gì để
xứng đáng với sự hi sinh của cha ông? Chúng ta phải học tập thật tốt, rèn luyện đạo đức tốt để trở thành người
có ích cho đất nước, xứng đáng với sự hi sinh to lớn đó. Đồng thời, chings ta cũng cần bồi đắp ý thức, trách
nhiệm gìn giữ sự bình yên và xây dựng Tổ Quốc ta ngày càng giàu đẹp. Có thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại
Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn lịng u nước thơng qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước
thương dân đồng thời bày tỏ niềm tự hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền thống đánh giặc giữ

nước của tổ tiên. Lòng yêu nước là những điều thật giản dị, tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm
xúc của mỗi chúng ta về nơi mình sinh ra, lớn lên. Và chính những tình cảm ấy sẽ trở thành động lực để chúng
ta phân đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.
 Phiếu học tập số 2.
I. Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
“Vậy nên
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,




-


Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã.
Việc xưa xét
Chứng cớ cịn ghi.”
(Trích Nước Đại Việt ta - Ngữ văn 8, tập II, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016)
Câu 1: Nêu nội dung chính của đoạn văn trên? Em có nhận xét gì về các dẫn chứng mà tác giả đưa ra
trong đoạn thơ?
- Nội dung chính của đoạn văn trên: Sức mạnh nhân nghĩa và độc lập dân tộc.
- Tác giả đã lấy các sự kiện lịch sử vẻ vang của dân tộc trong cuộc kháng chiến của Ngô Quyền với quân
Nam Hán, của vua Lí Thường Kiệt với nhà Tống, của nhà Trần với quân Mông - Nguyên lần thứ 2.
Câu 2: Em có nhận xét gì về cách gọi của tác giả khi nhắc đến tướng giặc? Tư thế thất bại của chúng có
giống nhau khơng?
- Tác giả đã gọi thẳng tên của chúng, thể hiện thái độ coi thường. Những tư thế thất bại khác nhau được liệt
kê đầy đủ một cách hả hê.
Câu 3: Tác giả nói chứng cớ cịn ghi, đó là những chứng cớ gì?

- Đó là dấu tích trên sơng Bạch Đằng, là sự tháo chạy tán loạn của giặc. Là lịch sử chiến thắng quân Nam
Hán, giặc Tống, quân Mông Nguyên lẫy lừng.
Câu 4: Từ nội dung văn bản “Nước Đại Việt ta”, em hiểu được điều gì về tác giả Nguyễn Trãi?
- Nguyễn Trãi là một người yêu nước, có tư tưởng nhân nghĩa, tiến bộ, giàu tình cảm và lịng tự hào dân tộc...
Câu 5: Nêu ý nghĩa của đoạn trích “Nước Đại Việt ta”?
- Ý nghĩa của đoạn trích: Nước ta là đất nước có nhiều nền văn hiến lâu đời, có chủ quyền riêng, có phong
tục riêng, lịch sử riêng, kẻ xâm lược là kẻ phản nhân nghĩa nhất định sẽ thất bại.
II. Tạo lập văn bản.
Câu 6: Từ văn bản, em hãy nêu suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước bằng một đọan
văn khoảng 7 – 10 câu?
Bài Làm: Từ thuở xa xưa thanh niên Việt Nam chúng ta đã ý thức được vai trò và trách nhiệm của bản thân
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước cho dù có phải đổ máu. Vì thế mỗi con người sinh ra đều mang
trong mình một sứ mệnh vơ cùng cao cả, thể hiện được tình yêu quê hương, đất nước của mỗi con người. Vậy
trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay đối với quê hương đất nước là gì? Trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với quê
hương, đất nước là trách nhiệm giữ gìn nền độc lập, tích cực xây dựng nước nhà ngày càng vững mạnh. Chúng
ta được sống trong một đất nước hịa bình khơng có chiến tranh đã là một may mắn, vì vậy chúng ta phải càng
cống hiến nhiều hơn cho dân tộc, cho non sơng thì Việt Nam mới nâng cao vị thế trên mối quan hệ quốc tế. Bên
cạnh đó, để có được cuộc sống bình n như hiện giờ, ta cần khắc sâu những chiến công của các thế hệ đi trước
đã ngã xuống, hi sinh và bảo vệ độc lập của Tổ Quốc. Thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu là xu thế hội nhập,
khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ cao, vậy thế hệ trẻ cần phải học tập tích lũy tri thức để góp phần phát
triển đất nước theo kịp thời đại, hội nhập với xu thế phát triển chung của quốc tế. Hãy cố gắng học tập, trau dồi
kiến thức, kĩ năng, đặc biệt là ngoại ngữ để có thể hồ nhập, học hỏi với bạn bè quốc tế. Ngoài ra, chúng ta cịn
phải rèn luyện, nâng cao thể chất để có thể cống hiến hết mình cho đất nước được lâu dài. Đồng thời, phải sống
chủ động, tự lập phát huy thế mạnh của người Việt, đặc biệt là sự cần cù, chăm chỉ, đoàn kết, nhân ái và học hỏi
với mọi người, kể từ đó bù đắp những lỗi thiếu sót và hoàn thiện bản thân nhiều hơn. Mỗi chúng ta phải xác
định cho mình một lí tưởng sống cao đẹp, phải có ước mơ và hoạch định ra cho mình một kế hoạch cụ thể, phải
rèn đức luyện tài, tránh xa sự lười biếng, ỷ nại, ích kỉ khơng thì sau này sẽ khơng phải hối hận với những điều
mình đã làm. Càng đề cao cảnh giác và tỉnh táo trước những âm mưu chông phá Nhà Nước của các thế lực thù
địch, thanh niên cũng cần quan tâm theo dõi đến tình hình chung của đất nước Về vấn đề chủ quyền biển đảo,
thanh niên cần hưởng ứng và tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên

Internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn trong nước cũng như quốc tế, Đồng
thời phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chiến đấu khi Tổ Quốc cần. Hãy luôn nhớ rằng đường
lối của Đảng là luôn luôn đúng, ăn chơi sa đoạ, tham gia vào các tệ nạn xã hội, chìm trong sự hưởng thụ mà
sống một cuộc đời mờ nhạt, khơng có mục tiêu, càng không thể tin vào những thành phần phản Nước mà nghe
theo họ, có ngày hối hận khơng kịp. Như vậy, xây dựng và bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm thiêng liêng của các
thanh niên trẻ nói riêng và của mỗi con người Việt Nam nói chung.
D. Đề số 4: Tổng hợp văn học Trung đại
Câu 1: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“...Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương; ở vào nơi trung tâm của trời đất, lại được cái thế rồng
cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiên hướng nhìn sơng dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất
đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.


Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là
nơi khinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?...”
a. Đoạn văn trích trong văn bản nào? Hồn cảnh ra đời của văn bản?
- Đoạn văn trích trong văn bản “Chiếu dời đơ” của Lý Cơng Uẩn.
- Hồn cảnh ra đời: Năm 1010, Lí Cơng Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên Đại Việt thành
Đại Cổ Việt. Nhân dịp này ông đã viết bài chiếu để thông báo rộng rãi quyết định cho nhân dân được biết.
b. Lý Công Uẩn đã phân tích cho thần dân ưu thế của thành Đại La so với thành Hoa Lư. Điều đó thể
hiện ở những phương diện nào?
 Những ưu thế của thành Đại La so với thành Hoa Lư ở những phương diện:
 Vị trí: đúng ngơi nam bắc đơng tây.
 Phong cảnh: tiện hướng nhìn sơng dựa núi.
 Địa thế: bằng, rộng.
 Địa hình: cao, thống.
 Khí hậu: mn vật phong phú tốt tươi, dân không phải chịu cảnh khốn khổ khi ngập lụt.
c. Chỉ ra những phép liên kết sử dụng trong đoạn văn?
 Phép nối

- Nối bằng quan hệ từ:
 Lại được cái thế rồng cuộn hổ ngồi.
 Đã đúng ngôi nam bắc đơng tây; lại tiện hướng nhìn sơng dựa núi.
 Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thống.
 Cũng là nơi khinh đơ bậc nhất của đế vương muôn đời.
 Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở.
- Nối băng đại từ:
 Xem khắp đất Việt ta.
 Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở.
 Các khanh nghĩ thế nào?
 Phép thế:
 Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương; ở vào nơi trung tâm của trời đất
 Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng
là nơi khinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
d. Tại sao kết thúc, Lý Thái Tổ không dùng câu mệnh lệnh mà lại dùng câu nghi vấn?
- Kết thúc Chiếu dời đơ, Lí Cơng Uẩn khơng ra mệnh lệnh mà lại đặt câu hỏi: "Các khanh nghĩ thế nào ?".
Cách kết thúc mang tính chất đối thoại, trao đổi đã tạo sự đồng cảm giữa vua với các quan và thần dân. Việc
dời đô đâu chỉ là ý nguyện riêng của Lí Cơng uẩn mà cịn phù hợp với nguyện vọng chung của mọi người, ở
Chiếu dời đô, bên cạnh tính chất mệnh lệnh cịn là tính chất tâm tình. Vì vậy, Chiếu dời đơ có sức mạnh
thuyết phục người nghe bằng cả lí trí và tình cảm.
Câu 2: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà khơng biết lo, thấy nước nhục mà khơng biết thẹn. Làm tướng triều đình
phải hầu quân giặc mà không biết tức nghe nhạc thái thường để đãi yến, nguy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy
việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ
con hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê
tiếng hát. Nếu có giặc Mơng Thát tràn sang thì cựa gà trống khơng thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ
bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân q nghìn vàng khơn
chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc qn cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khơn mua được đầu giặc, chó săn
tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể
làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!”

a. Đoạn văn trên trích từ văn bản nào? Nêu hoàn cảnh ra đời của văn bản?
- Đoạn văn trên trích trong văn bản “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Nửa cuối thế kỉ XIII, chỉ trong ba mươi năm (1257 – 1287), giặc Mông –
Nguyên đã ba lần kéo quân sang xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ thế giặc rất mạnh, muốn đánh bại chúng
phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân. Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng
sĩ hết lòng đánh giặc.
b. Chỉ ra cách lập luận của tác giả trong đoạn trích?


 Bài Hịch tướng sĩ có sức thuyết phục cao bởi sự lập luận chặt chẽ, sắc bén và giàu hình tượng, cảm xúc.
 Lập luận chãt chẽ, sắc bén:
 Nêu giả thiết, nguyên nhân để khẳng định việc làm sai trái sẽ dẫn tới hậu quả tai hại: “Nếu có giặc Mơng
Thát tràn sang thì cựa gà trơng khơng thề đâm thùng áo giáp giặc, mẹo cờ hạc không thể dùng làm mưu
lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý ngàn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con díu,
việc qn cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được dầu giặc, chó săn tuy khỏe khơng đuổi được
qn thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai.
Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, dau xót biết chừng nào”.
 Đối lập giữa trách nhiệm và thái độ của tướng sĩ để khích lệ lịng trung qn, tinh thần ái quốc của tướng sĩ:
“Nhìn chủ nhục mà khơng biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều dinh phải hầu quân
giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà khơng biết căm”.
 Bài Hịch giàu hình tượng, cảm xúc. Đó là những hình tượng án dụ sinh động, gợi cảm: uốn lưỡi cú diều,
thân dê chó…; hình tượng so sánh, cụ thể: “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”;
“có thể bêu dầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rửa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”; những hình ảnh dễ
hiểu: cựa gà trống, áo giáp, mẹo cờ bạc…
 Bài Hịch được viết bằng cả tâm huyết của tác giả với cảm xúc tuôn trào, lời văn thống thiết, có sức lơi cuốn
mạnh mẽ.
 Bài Hịch có sự kết hợp hài hịa giữa yếu tố chính luận và văn chương, giữa lí trí và tình cảm.
c. Câu “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!” thuộc kiểu câu nào? Hành
động nói là gì? Cách thực hiện hành động nói?
- Câu “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!” thuộc kiểu câu câu cảm thán dùng

để bộc lộ cảm, nói lên nỗi lịng thương xót nhân dân và để bộc lộ cảm, nói lên nỗi lịng thương xót nhân dân
và tướng sĩ dưới quyền của Trần Quốc Tuấn.
- Hành động nói là nghi vấn dùng để hỏi nhưng câu thể hiện chức năng khác là bộc lộ cảm xúc => Hành động
gián tiếp.
d. Câu: “Cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp giặc” thuộc kiểu câu gì?
- Câu: “Cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp giặc” thuộc kiểu câu phủ định.
e. Viết đoạn văn khoảng 10 câu triển khai chủ để sau: “Bao trùm lên toàn bộ đoạn văn là tấm lòng băn
khoăn, lo lắng cho đất nước.”
Bài Làm: Qua văn bản “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã để lại cho thế hệ chúng ta những ấn tượng sâu
sắc về tấm lòng yêu nước, căm thù quân giặc của chủ tướng Trần Quốc Tuấn. Từ bài “Hịch” đó thì đã có nhiều
nguồn nhận xét cho rằng: “Bao trùm lên tồn bộ đoạn văn là tấm lịng băn khoăn, lo lắng đối với vận mệnh đất
nước của tác giả”. Đối với tơi, nhận xét này hồn tồn đúng bởi lẽ ngay từ những dòng đầu của thi phẩm thì ta
có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh trằn trọc, suy tư của một vị tướng lĩnh nhà Trần đang ngày đêm lo lắng cho an
nguy của đất nước, đến nỗi quên cả ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Mỗi lần như vậy
thì lịng uất hận, căm thù giặc ngày một tăng lên, khiến ông chỉ muốn xả thịt lột da, uống máu qn thù, dẫu có
phải trăm thân phơi ngồi nội cỏ , gói trong da ngựa thì ơng cũng vui lòng. Từ những dòng văn đầy cảm xúc
mãnh liệt như vậy, càng thể hiện hơn vị chủ tướng này là một người sẵn sàng cống hiến tất cả cho Tổ Quốc, sẵn
sàng chiến đấu vì độc lập - tự do, thà chết còn hơn là phải sống dưới sự thống trị của lũ qn giặc. Thậm chí,
ơng cịn thể hiện sự quan tâm, sự thấu hiểu đối với quân mình, “khơng có mặc thì ta cho áo, khơng có ăn thì ta
cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng...”những hành động hết mực quan tâm tới các bnh
sĩ, khiến họ được tiếp thêm sức mạnh, đặc biệt là tình cảm giữa binh sĩ trong thời loạn lạc, tiếp thêm tinh thần,
tiếp thêm nghị lực để chống lại quân giặc Nguyên – Mông. Với việc sử dụng lời văn biền ngẫu và từng cặp câu
đối xứng trong đoạn, khiến chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Trần Quốc Tuấn nói về nhục và
vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Các binh sĩ mất cảnh giác, chỉ
biết hưởng lạc, “thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn” như đâm thẳng về những
suy nghĩ hèn nhát, yếu đuối của nhân dân, đây có thể là một một lời oán trách, phê phán của Trần Quốc Tuấn
đối với lũ hèn nhát, không biết lo cho an nguy của đất nước. Chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui
đùa, …, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển,(…) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh,
chỉ thích rượu ngon, mê tiếng hát,… thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mơng Cổ tràn sang thì ta cùng các
ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm họa: Lời nói vơ cùng đanh thép, khiến người đọc

cũng phải rùng mình trước sự uy nghi đó. Kể đến những lúc chỉ biết hưởng sự sung sướng nhất thời, Trần Quốc
Tuấn cũng phải nhắc “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng để mưu lược nhà
binh...chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai...” ngụ ý
những hậu quả khi không chiến đấu cho đất nước. Thân làm chủ tướng không thể ngồi yên để hầu hạ địch được,
đó là sự nhục nhã nhất, khơng bảo vệ đất nước thì sau này cũng phải mang tiếng là tướng bại trận, thật là một


tủi nhục! Chẳng những thái ấp của ta khơng cịn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của
ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ tong ta bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các
ngươi cũng vị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khơng rửa, tên
xấu cịn lưu! Qua bài hịch này, không chỉ để các ngươi biết bụng ta mà cịn có tác dụng khích lệ, động viên
tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Nguyên- Mông. Nó đã góp phần khơng nhỏ tạo nên sức mạnh của đồn
dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến cơng oai hùng như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang... Là tiếng
nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã! Đúng
như lời nhận xét, “Bao trùm lên tồn bộ đoạn văn là tấm lịng băn khoăn, lo lắng cho đất nước.”
Câu 3: Cho đoạn văn:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột
da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngồi nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, ta
cũng vui lòng..."
 Trong những câu văn này, tác giả thể hiện tình cảm gì? Cách thể hiện của tác giả có gì đặc sắc khiến
người đọc nhớ mãi?
- Trong câu văn này, Trần Quốc Tuấn thể hiện được nỗi lòng lo lắng trước vận mệnh của đất nước, đau xót
trước nỗi đau của nhân dân.“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa”. Vị chủ tướng đang trải qua những ngày đêm căng thẳng. Không lo nghĩ sao được khi vận mệnh đất
nước đang treo đầu sợi tóc? Nghe tiếng qn Mơng thiện chiến, hung tàn nên khơng tránh khỏi tâm lí hoang
mang. Là vị chủ sối nên trách nhiệm của ơng càng nặng. Vì vậy, nỗi lo cứ thường trực trong lòng, cứ nặng
trĩu cả ngày lẫn đêm. Đó là lời tâm sự sâu kín nhất mà ông bày tỏ với các tướng sĩ, mong họ hiểu mình, chia
sẻ nỗi lo cùng mình và có ý thức trách nhiệm giết giặc cứu nước. Đó là thái độ căm phẫn, quyết không dung
tha lũ giặc cướp nước “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Các động từ mạnh kết
hợp với phép tăng cấp, thậm xưng đã diễn tả sâu sắc lịng căm thù giặc, quyết khơng đội trời chung với bọn

giặc.Khép lại đoạn văn là lời nguyền của Trần Quốc Tuấn “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn
xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lịng” đã nêu cao ý chí quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để rửa
hận cho nước, rửa nhục cho dân, bảo vệ chủ quyền dân tộc, lấy lại danh dự cho triều đình.
Câu 4: Đọc đoạn trích Nước Đại Việt ta và trả lời câu hỏi:
a. Hoàn cảnh ra đời của văn bản? Mục đích của văn bản?
- Hồn cảnh ra đời: Đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh vua Lê Thái Tổ (Lê
Lợi) soạn thảo Bình Ngơ đại cáo.
- Mục đích: Để thơng báo với tồn dân sự kiện trọng đại này sau khi quân ta đại thắng (tiêu diệt ta rã 15 vạn
viện binh của giặc), buộc Vương Thông phải rút quân về nước.
b. Trong hai câu đầu, tác giả nêu lên tư tưởng gì? Ý nghĩa của tư tưởng ấy?
- Trong hai câu đầu, Nguyễn Trãi đã nêu lên tư tưởng “yên dân”; “trừ bạo”. Yên dân là đem lại cuộc sống yên
ổn cho dân, trừ bạo là muốn nước yên dân thì phải diệt trừ các thế lực tàn bạo, cụ thể là giặc Minh.
 Đây là cốt lõi tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi. Nhân nghĩa là lo cho dân cho nước và gắn liền với yêu
nước chống ngoại xâm. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo và ông nêu lên được tư tưởng: việc
nhân nghĩa là ln hướng đến lợi ích của nhân dân, dân tộc. Lợi ích của nhân dân ln được đặt lên hàng
đầu, dân là gốc. Do vậy, một trong những việc quan trọng nhất của một đất nước, đó là đem lại được cuộc
sống yên ổn cho nhân dân.
c. Hãy giải thích vì sao đây lại được coi là một bản “Tuyên ngôn độc lập”. Sự phát triển của ý thức dân
tộc ở “Nước Đại Việt ta” so với ý thức dân tộc trong văn bản “Sông Núi Nước Nam” là gì?
- Sở dĩ gọi bài cáo “Bình Ngô đại cáo” là bản tuyên ngôn độc lập bởi vì Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ
quyền lãnh thổ và nền độc lập của nước nhà. “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi vang lên như một khúc
tráng ca bất diệt, ca ngợi chiến thắng hiển hách, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc ta.
- Có ý thức về nền độc lập dân tộc (Sông núi nước Nam) được xác định trên hai phương diện: Lãnh thổ
(Sông núi nước Nam) và chủ quyền (Vua Nam ở). Bình Ngộ Đại Cáo ý thức dân tộc cao hơn, sâu sắc và
toàn diện nhiều hơn. Ngoài hai yếu tố lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng,
bổ sung bằng các yếu tố mới, đầy ý nghĩa. Đó là nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán riêng, truyền
thống lịch sử anh hùng bao đời xây nền độc lập.
d. Viết đoạn văn khoảng 10 câu triển khai chủ đề sau: “Nước Đại Việt là bài ca về lòng tự hào dân tộc”
 Triển khai đoạn văn theo cách diễn dịch
 Sử dụng 1 phép nối, 1 phép thế.

Bài làm: Tấm lòng yêu nước và muốn khẳng định được độc lập chủ quyền của dân tộc là một trong những chủ
đề, nội dung lớn của áng văn chương trung đại. Bởi quanh lịch sử nước nhà chỉ có dựng nước và giữ nước, đấu
tranh đến cùng chống giặc ngoại xâm. Trong văn học tủng đại thì khơng thể nào khơng thể kể đến “Nam Quốc


Sơn Hà” – một trong những bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta, đồng thời, sánh vai cùng với bản
tun ngơn hào hùng ấy, chính là bản “Bình Ngơ Đại Cáo”, trong chương trình học lớp 8, chúng em đã được
học đoạn trích “Nước Đại Việt Ta”, một đoạn trích ngắn nhưng khiến nọi người ln phải tưởng nhớ đến nó,
cảm nhận được lịng u nước, ý chí hùng mạnh trong từng câu văn, đến phải nhận xét rằng “Nước Đại Việt ta
là bài ca về lòng tự hào của dân tộc”. Đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi viết ” Bình ngơ đại cáo”
công bố cho nhân dân được biết việc đánh đuổi giặc Minh đã giành thắng lợi hoàn toàn. Vị anh hùng Nguyễn
Trãi đã gửi trọn tình yêu quê hương dân tộc vào bài Cáo nói chung và đoạn đầu nói riêng:
Trước hết là tác giả tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc”
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Hai câu trên Nguyễn Trãi đã sử dụng phép đối của câu văn biền ngẫu tạo nên sự hài hòa cân xứng với giọng văn
hùng đanh thép trên.Theo Nguyễn Trãi, để đất nước có thể phục hồi và phát triển xứng tầm với các nước phong
kiến Phương Bắc, đầu tiên cốt lõi vẫn phải là bốn chữ “Yên dân” và “Trừ bạo”. Muốn đất nước được thái bình,
yên ổn thì dân phải sống no đủ trước rồi mới tính kế diệt trừ các thế lực tàn bạo, cụ thể là giặc Minh lúc bấy
giờ. Phải làm cách nào cho dân được hạnh phúc, được hưởng thái bình thì đất nước mới xứng với cái tên “Đại
Việt” được. Qua câu văn này, càng khẳng định khí thế về cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là luôn
hướng về người dân, hướng về Tổ Quốc để có sức mạnh chống giặc ngoại xâm.
Tinh thần tự hào về dân tộc của tác giả còn thể hiện về chân lí quốc gia có độc lập chủ quyền:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiếu đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương,

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Lần này, tác giả lại tiếp tục sử dụng câu văn đối lập biền ngẫu để cân bằng được sự hài hòa, sự hùng mạnh của
nội dung mà tác giả muốn đưa ra. Với những lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục để chứng tỏ rằng vùng đất Đại Việt đã
chia phương rõ ràng từ trước, xưng nền văn hiến đã lâu. Những từ ngữ hiển nhiên như “vốn xưng, đã chia, cũng
khác” đã cho thấy Nguyễn Trãi lập luận vô cùng sắc bén để chứng minh cho Trung Quốc thấy Đại Việt đã có
chủ quyền riêng, hà cớ gì mà lại xâm lược đất nước có lịch sử lâu đời này. Từ bản tun ngơn đời đầu “Nam
Quốc Sơn Hà” thì Nguyễn Trãi đã biết thể hiện thêm nhiều yếu tố khác như: “nền văn hiến lâu đời, phong tục,
lịch sử và triều đại” đều có chứng cứ rõ ràng, ngồi ra ơng cịn liệt kê thêm các anh hùng hào kiệt khiến Trung
Quốc khiếp sợ. Đồng thời, ơng cịn muốn mỗi bên xưng đế một phương để chứng tỏ rằng Đại Việt có chủ
quyền, ngang hàng với triều đại phong kiến phương Bắc. Qua đoạn này, ta thấy Nguyễn Trãi đã kế thừ và phát
huy những gì được viết trong “Nam Quốc Sơn Hà” từ đó phát triển thêm nhiều dẫn chứng tiêu biểu, tồn diện
hơn.
Cuối cùng, niềm tự hào dân tộc cịn được tác giả hành động qua sức mạnh nhân nghĩa:
“Vậy nên:
Lưu Cung tham cơng nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã.
Việc xưa xét
Chứng cớ cịn ghi.”
Lần nữa, tác giả lại sử dụng liên tiếp các phép liệt kê, đây là những chứng cớ về chiến công đã từng được ghi
trong sử sách có tính xác thực cao mang sự hiển nhiên, muốn nhắc rằng “kẻ nào đến xâm phạm nước ta thì sẽ tự
chuốc lấy bại vong” đây cũng chính là câu nói trong “Nam Quốc Sơn Hà” cho thấy hai bài có tính liên kết nhất
định với nhau. Lần lượt các tướng bại trận bị kể tên, muốn Trung Quốc bị nhắc lại nỗi nhục của chính nước
chúng “Lưu Cung tham cơng nên thất bại, Toa Đo bị bắt sống ở của Hàm Tử và Ô Mã cịn bị giết chết ngay tại
sơng Bạch Đằng...” Hai câu cuối “Việt chưa xét, chứng cớ còn ghi”, câu này thể hiện Nguyễn Trãi không hề
nhán nhường trước Trung Quốc, muốn chúng nó trở lại sự nhục nhã năm xưa, còn muốn chúng e sợ trước
quyền uy, sức mạnh hào kiệt của các tướng Đại Việt. Điều này cũng khiến chúng dè chừng khi nhắc đến Đại
Việt. Đoạn trích đúng là bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện thông qua nhiều biện pháp nghệ thuật… Niềm tự

hào dân tộc ấy được lưu truyền đến mn đời sau có sức ảnh hưởng rộng rãi. Đó là bài ca yêu nước của thế


hệ cha ông ta. Vậy qua những dẫn chứng được kể kĩ càng như vậy, ta càng phải khẳng định “Nước Đại Việt ta
là bài ca về lòng tự hào của dân tộc”, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm giữ gìn và xây dựng đất nước ngày
càng giàu đẹp để có thể xứng với những cơng lao mà ông cha ta đã phải hi sinh xương máu đổi lấy vinh quang
cho đất nước. Bản trích “Nước Đại Việt Ta” phải nói rằng vơ cùng hay, vơ cùng thuyết phục người đọc, thể hiện
nỗi niềm muốn khẳng định dộc lập chủ quyền cho đất nước.
E. Đề số 5: Luyện Tập Văn Bản: Chiếu Dời Đô
I. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời độ; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải
đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đơ ở nơi trung tâm, mưu
toan nghiệp lớn, tính kế mn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dẫn, nếu thấy thuận tiện thì
thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.”
Câu 1: Đoạn văn trên trích trong văn bản nào? Do ai sáng tác? Trình bày hồn cảnh sáng tác của văn
bản này?
- Đoạn văn trên trích trong văn bản “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn.
- Hồn cảnh sáng tác: Năm 1010, Lí Cơng Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên Đại Việt
thành Đại Cồ Việt. Nhân dịp này ông đã viết bài chiếu để thông báo rộng rãi quyết định cho nhân dân được
biết.
Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị Luận.
Câu 3: Hai câu “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương
cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam Đại theo ý riêng mà tự tiện chuyển rời” thuộc kiểu câu gì?
Chúng dùng với mục đích gì?
- Thuộc kiểu câu: Nghi vấn.
- Mục đích: Phủ định.
Câu 4: Theo tác giả thì việc dời đơ của các vua nhà Thương, nhà Chu nhằm mục đích gì? Kết quả của
việc dời đô ấy ra sao?
- Theo tác giả thì việc dời đơ của các vua nhà Thương, nhà Chu nhằm mục đích: Mưu toan nghiệp lớn,

xây dựng vương triều phơng thịnh, tính kê slaau dài cho các thế hệ sau. Việc dời đô thuận theo mệnh trời,
thuận theo ý dân
- Kết quả của việc dời đô là làm cho đất nước vững bền (hoặc vận nước lâu dài), phát triển phồn thịnh. Việc
dời đơ khơng có gì là khác thường, trái với quy luật.
Câu 5: Xác định nội dung chính của đoạn văn trên?
- Nội dung chính của đoạn văn: Dẫn dắt việc dời đô của các triều đại trước để tăng sức thuyết phục cho
quyết định dời đô của Lý Công Uẩn.
F. Đề số 6: Luyện Đề Tổng Hợp Ngữ Văn.
I. Đọc kĩ đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
“Xưa nay, thủ đô luôn là trung tâm về văn hóa, chính trị của một đất nước. Nhìn vào thủ đơ là nhìn vào sự suy
thịnh của một dân tộc. Thủ đơ có ý nghĩa rất lớn. Việc dời đô, lập đô là một vấn đề trọng đại quyết định phần
nào với tới sự phát triển tương lai của đất nước. Muốn chọn vùng đất để định đơ, việc đầu tiên là phải tìm một
nơi “trung tâm của trời đất”, một nơi có thế “rồng cuộn hổ ngồi”.Nhà vua rất tâm đắc và hào hứng nói tới cái
nơi “đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sơng dựa núi”. Nơi đây khơng phải là miền Hoa Lư
chật hẹp, núi non bao bọc lởm chởm mà là “địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng”. Thật cảm độngmột
vị vua anh minh khai mở một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt đã rất quan tâm tới nhân dân. Tìm chốn
lập đơ cũng vì dân, mong cho dân được hạnh phúc: “Dân khỏi chịu cảnh ngập lụt”. Nơi đây dân sẽ được
hưởng no ấm thái bình vì“mn vật cũng rất mực tốt tươi…”. Nhà vua đánh giá kinh đô mới “Xem khắp đất
Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô
bậc nhất của của đế vương mn đời”.Chính vì thế nhà vua mới bày tỏ ý muốn:“Trẫm muốn dựa vào sự thuận
lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”
(Nguồn: Internet)
Câu 1: Đoạn trích khiến em liên tưởng đến văn bản nào đã học trong chương trình Ngữ văn 8 – tập II?
Cho biết tác giả và thời điểm ra đời tác phẩm đó?
- Đoạn trích trên gợi em nhớ đến văn bản “Chiếu dời đô”.
- Của tác giả Lý Công Uẩn và sáng tác vào lúc Năm Canh Tuất niên hiện thuận thiên thứ nhất (1010).
Câu 2: Tác phẩm được đề cập đến trong đoạn trích trên ra đời có ý nghĩa như thế nào đối với dân tộc
Đại Việt lúc bấy giờ?



-

Tác phẩm “Chiếu dời đơ” ra đời có ý nghĩa phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập,
thống nhất.
- Đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh
Câu 3:
a. Xác định kiểu câu của hai câu sau: (1)”Trẫm muốn dực vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở.” (2)
“Các khanh nghĩ thế nào?”
b. Hãy cho biết mỗi câu văn trên thực hiện hành động nói nào?
- Câu (1) là câu trần thuật, chỉ hành động trình bày (nêu ý kiến).
- Câu (2) là câu nghi vấn, chỉ hành động hỏi.
II. Tập Làm Văn
Câu 1: Viết đoạn văn (khoảng 10 dịng) trình bày cảm nghĩ của em về tác giả, người được nhận định
là“Một vị vua anh minh khai mở một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt đã rất quan tâm tới nhân dân”.
Bài Làm: Chiếu Dời Đơ của Lí Cơng Uẩn thực sự là một tác phẩm đầy sức thuyết phục với những dịng lí lẽ vơ
cùng rõ ràng và những dẫn chứng chính xác khiến mọi người phải khâm phục trước sự quyết đốn của Lí Cơng
Uẩn khi lực chọn đất đóng đơ cho dễ dàng trị vì, cai quản dân chúng. Bài “Chiếu Dời Đơ cịn phản ánh ý chí
độc lập tự cường và phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt. Đọc qua tác phẩm “Chiếu Dời Đơ” ta mới thấy
được Lí Cơng Uẩn đúng thật là một vị vua anh minh, kiệt suất. Lí Cơng Uẩn đã lập nên một triều đại nhà Lí lẫy
lừng, dưới sự trị vì của ơng thì triều đại đã trở thành một triều đại chói lọi trong lịch sử Đại Việt. Ơng là một
người thơng minh, có lịng nhân ái và lập được nhiều chiến công, trong thời kỳ trị vì của mình, ơng dành nhiều
thời gian để đàn áp các cuộc nổi dậy, vì cơ bản nước Đại Cổ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của dân.
Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về
thành Đại La vào tháng 7 năm 1010 và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu
dài của nhà Lý tồn tại 216 năm. Nhưng tại sao trong bài ông lại nhất quyết dời đô từ Hoa Lư về Đại La? Đó bởi
vì việc dời đơ đã từng xảy ra trong lịch sử và mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Từ đó có rất nhiều dẫn chứng xác
thực xuất hiện trong bài như: “Nhà Thương 5 lần dời đô, cả nhà Chu cũng 3 lần dời đô...” những lần dời đơ như
vậy đều có mục đích cả, nên đóng đô ở những nơi trung tâm của đất nước để mưu toan, nghiệp lớp và tính kế
mn đời cho con cháu. Qua chi tiết này, ta thấy Lí Cơng Uẩn là một người biết lo cho con cháu, lo cho vận
mệnh của đất nước sau này, tính tốn kĩ càng việc dời đô cũng như việc cai trị một đất nước cho con cháu học

tập, noi theo. Ơng ln muốn hướng tới cho thế hệ sau những kinh nghiệm lâu đời để đất nước có thể phát triển,
dân tình được sống trong cảnh hịa bình, ấm no là khiến ơng mãn nguyện rồi. Đồng thời, việc dời đô thuận
mệnh trời, nghĩa là phải thuận theo ý dân, càng thể hiện ông biết quan tâm đến nhân dân, thấu hiểu cảm nghĩ
của nhân dân khiến ai cũng phải nể trọng, không bao giờ dám phản bội bởi một người hi sinh tất cả vì dân, vì
nước như ơng. Một điểm đáng chú ý trong bài cũng chính là cách ơng sử dụng câu nghi vấn mang tính đối thoại
“Các khanh nghĩ thế nào?”, tạo nên sự đồng cảm giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Ý nghĩ dời đô của ông
cũng chỉ vì lo cho cuộc sống của dân, sự an nguy của đất nước. Đưa ra sử sách làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lí
lẽ để khẳng định Đại La là nơi tốt nhất đóng đơ với đầy đủ yếu tố phù hợp. Bằng tầm nhìn đó, khơng có gì có
thể phủ định được sự thơng minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa rộng, lựa chọn dời đơ để đất nước phát triển bền
vững lâu dài. Ông thương những người dân vô tội bị kéo vào chiến tranh khốc liệt, từ điều đó khiến ơng càng
phải thương dân, u nước với tấm lịng cao cả lớn như tình yêu dành cho Đại Việt. Khẳng định với những gì
đã cống hiến cho nhân dân, cho đất nước, Lí Cơng Uẩn xứng đáng được ngợi ca ngàn đời.
G. Đề số 6: Luyện Tập Văn Bản “Nước Đại Việt Ta”
I. Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời câu hỏi:
Từng nghe
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
(...)
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
(Ngữ văn 8 – Tập II)
Câu 1: Chép đúng và đủ những câu cịn lại để hồn thiện bài thơ?
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiếu đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,



Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.”
Câu 2: Đoạn thơ trên trích từ văn bản nào? Văn bản ấy thuộc tác phẩm bất hủ nào? Của ai? Trình bày
hồn cảnh sáng tác?
- Đoạn thơ trên trích từ văn bản “Nước Đại Việt Ta”. Văn bản ấy thuộc tác phẩm bất hủ “Bình Ngơ Đại Cáo”
của Nguyễn Trãi.
- Hồn cảnh sáng tác: Bài Cáo được viết vào đầu xuân năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan
rã 15 vạn viện binh của quân Minh xâm lược. Buộc Vương Thơng phải giảng hịa, rút qn về nước.
Câu 3: Tác phẩm được viết theo lối văn, thể văn gì?
- Lối văn biền ngẫu, thể cáo.
Câu 4: Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi
tư tưởng nhân nghĩa của tác giả là gì? Người dân mà tác giả nói tới là ai? Kẻ bạo ngược mà tác giả nói
tới là kẻ nào?
- Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của hai câu trên là yên dân, trừ bạo. Muốn yên dân thì phải trừ bạo và trừ bạo là
để yên dân.
- Người dân mà tác giả nói ở đây là nhân dân Đại Việt. Cịn kẻ bạo ngược là giặc Minh xâm lược lúc bấy giờ.
Câu 5: Để khẳng định chủ quyền dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố nào?
 Để khẳng định được chủ quyền độc lập dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố:
- Nền văn hiến lâu đời, nền văn hiến đã lâu.
- Phong tục tập quán.
- Lịch sử hình thành và phát triển riêng.
- Chế độ Nhà Nước riêng, bình đẳng, ngang tầm với triều đại Trung Quốc.
H. Đề số 7: Luyện Tập Văn Bản “Bàn Luận Về Phép Học”
I. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
"Ngọc không mài, không thành đồ vật người không học, không biết rõ đạo". Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa
mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền.
Người ta đua nhau lối học hình thức hồng cầu danh lợi, khơng còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm

thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.”
(Ngữ văn 8 – Tập II)
Câu 1: Đoạn văn trên trích từ văn bản nào? Tác giả là ai?
- Đoạn văn trên trich từ “Bàn Luận Về Phép Học” của tác giả Nguyễn Thiếp.
Câu 2: Xác định thể loại văn bản? Trình bày hiểu biết của em về thể loại đó?
- Thể loại: Tấu
- Tấu là một loại văn thư của thần dân gửi lên vua để trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị. Tấu có thể viết bằng
dạng văn xuôi hay văn vần, hay văn biền ngẫu.
Câu 3: Câu “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người khơng học, khơng biết rõ đạo” thuộc kiểu câu
gì? Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu văn trên?
- Câu “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo” là câu phủ định.
- Biện pháp tu từ so sánh cụ thể với hình ảnh so sánh và hình ảnh được so sánh: Người không học (không biết
đạo) như ngọc không mài (không sáng).
 Giúp người được sự học là cần thiết với mỗi con người: Ngọc có mài mới thành đồ vật sáng, người có học
mới biết đạo.
 Việc mài ngọc cần phải kiên trì, cẩn thận, có ý chí quyết tâm ngọc mới thành đồ vật, đẹp và sáng cũng như
sự học của con người cần kiên trì tỉ mỉ và quyết tâm mới hiểu rõ đạo và đúng hướng...
 Tạo nên cách diễn đạt sinh động, hấp dẫn gây ấn tượng...
Câu 4: Trong đoạn văn trên, tác giả có bàn đến mục đích chân chính của việc học. Em hiểu mục đích đó
là gì?
- Mục đích chân chính của việc học là học để làm người. Mục đích chân chính của việc học:
 Học để biết rõ đạo, để làm người có đạo đức, có trí thức, góp phần làm hưng thịnh đất nước, chứ khơng phải
học để cầu danh lợi.
Câu 5: Hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về lợi ích của tự học?


Bài Làm: Trích từ “Bàn Luận Về Phép Học”:“Ngọc khơng mài, không thành đồ vật; người không học, không
biết rõ đạo” – đó là câu nói vơ cùng thấm thía từ chính Nguyễn Thiếp – một người “Thiên tư sáng suốt, học
rộng hiểu sâu”, làm quan dưới triều đại nhà Lê. Bàn Luận Về Phép Học là một bài tấu Nguyễn Thiếp gửi lên
vua nhằm nói lên mục đích chân chính của việc học: Học để làm người. Tác giả đưa ra quan điểm và phương

pháp học đúng đắn: Việc học phải bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, có tính chất nền tảng, tuần tự tiến từ thấp
lên cao, học rộng hiểu sâu, biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Bên cạnh đó học phải kết hợp với
hành. Học khơng chỉ để biết mà cịn để làm. Điều đó sẽ thúc đẩy đất nước có nhiều nhân tài, chế độ vững mạnh,
quốc gia hưng thịnh. Qua đó, để thành cơng, ai trong chúng ta cũng đều phải chăm chỉ học tập và một trong số
phương pháp hiệu quả nhất của việc tiếp thu kiến thức chính là tự học. Vậy thế nào là tự học? Tự học là ý thức
tự rèn luyện, trau dồi bản thân, thu nhận kiến thức và hình thành kĩ năng sống. Tự học là một ý thức tự giác vô
cùng tích cực mà mỗi người cần rèn luyện. Nhưng tại sao tự học lại mang lại được hiệu quả cao như vậy? Vì tự
học giúp con người ln chủ động tìm kiếm, tiếp thu thêm nhiều kiến thức bổ ích và có thể tự rút ra được bài
học cho riêng mình. Tự học khiến suy nghĩ bản thân muốn tìm tịi, học hỏi nhiều hơn nữa để đạt được điều
mình mong muốn. Đồng thời, tự học còn khiến chúng ta ghi nhớ kiến thức lâu hơn chứ không giống như ép
buộc học, bản thân sẽ không muốn thu nhận nguồn kiến thức ấy và nó sẽ bị quên đi nhanh chóng. Vậy mỗi con
người chúng ta phải ln kiên trì và cố gắng thực sự thì mới chạm tới thành cơng, chứ khơng kiên trì tự học sẽ
khơng được xã hội tơn trọng, trọng dụng. Trên thế giới đã có rất nhiều người đã thành công nhờ phương pháp tự
học của bản thân. Việc tự học sẽ giúp con người hiểu vấn đề một cách sâu sắc, giải quyết vấn đề nhanh chóng
chính xác và được coi là chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp ta thành cơng trong học
tập. Những người có tinh thần tự học sẽ chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản
chất vấn đề từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra, những người có tinh thần tự học thường tự giác rất cao, việc
học hỏi và làm việc không cần nhờ vả ai nhắc cả, chính bản thân mình mới tự làm được điều đó. Mỗi lần học
tập thì họ đều học đến nơi đến chốn, không bao giờ bỏ học giữa chừng, ln trong trạng thái sẵn sàng học tập,
có tinh thần sảng khối để tập trung học cũng rất có ích đúng không nào! Những người tự học luôn tự rút ra
những kinh nghiệm xương máu cho bản thân và cho cả mọi người. Tự học có vai trị vơ cùng quan trọng, giúp
ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống. Còn giúp con người trở
nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Người biết tự học là người có ý thức
cao, chủ động trong cuộc sống của chính mình, những người này sẽ đi nhanh đến thành công hơn, được hưởng
những thành quả do chính bản thân làm ra cũng sẽ cảm thấy vui hơn. Trong cuộc sống, có khơng ít những tấm
gương tự học khiến chúng ta phải ngưỡng mộ, tiêu biểu phải kể đến Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Ông là đứa
trẻ nhà nghèo nhưng tinh thần ham học hỏi và khả năng tự học nên mặc dù phải bắt đom đóm làm đèn nhưng
cuối cùng ơng đã thi đỗ Trạng nguyên và trở thành một vị quan nổi tiếng dưới thời nhà Trần. Bên cạnh đó,
chúng ta khơng thể khơng nhắc đến đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của dân tộc. Hằng đêm, sau 12 giờ
lao động nặng nhọc Người lại tự học tiếng Pháp bằng cách học thuộc lòng mỗi ngày mười từ, và cứ thế Người

đã thơng thạo khơng chỉ tiếng Pháp mà cịn nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Trung Quốc, tiếng Anh. Người
cũng đã từng nói “ Trong cách học. phải lấy tự học làm nòng cốt ”. Từ một người lao động bình thường nhưng
với tinh thần ham học hỏi của mình, Bác khơng chỉ thơng thạo nhiều thứ tiếng mà cịn tìm ra con đường cách
mạng giúp nước nhà dành được độc lập. Trong thực tế ta có thể thấy vẫn còn rất nhiều người học tủ, học vẹt
một cách ép buộc để đối phó với kiểm tra thi cử. Cách học này chỉ đem lại hiệu quả tức thời nhưng không mấy
ai nghĩ đến hậu quả lâu dài của nó. Những cách học ấy làm cho ta khơng hiểu hết bản chất của vấn đề dẫn đến
việc mau chóng lãng qn mà lại cịn lãng phí thời gian và công sức. Những con người này nếu không biết
vươn lên tự học thì sẽ mãi bị bỏ lại phía sau mà thơi. Vậy để việc tự học có hiệu quả, ta cần phải nắm vững kiến
thức căn bản của thầy cô truyền thụ thật tốt, biết liên kết chúng thành một khối kiến thức đầy đủ và vững chắc
từ đó mới có thể áp dụng vào trong bài tập. Ta cũng cần phải soạn trước bài học ở nhà để nắm bắt được nội
dung chính và dễ dàng theo kịp bài giảng của thầy cơ trên lớp. Ta cịn có thể học nhóm cùng bạn bè trong lớp
sau giờ học để ôn lại bài giảng trên lớp, hãy cùng nhau giải quyết những bài tập khó. Nhưng quan trọng hơn hết
mỗi người cần phải có tinh thần tự giác học tập mọi lúc, mọi nơi. Như vậy việc học sẽ khơng bị nhàm chán,
khơng bị lệ thuộc gị bó từ đó khiến kiến thức sâu rộng hơn, in đậm trong trí nhớ. Tự học ln là phương pháp
học học tập hiệu quả, ít tốn kém và phù hợp cho mọi đối tượng. Vậy, là thế hệ tương lai của đất nước, mỗi học
sinh chúng ta hãy ra sức tự học nhiều hơn nữa để trau dồi kiến thức cho bản thân hành một hành trang vào đời
vững chắc mai sau đi xây dựng đất nước.
I. Đề số 8: Luyện Tập Văn Bản Hịch Tướng Sĩ.
1. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“… Nếu có giặc Mơng Thát tràn sang thì cựa gà trống khơng thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc
không thể dùng làm mưu lược nhà binh ; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân q nghìn vàng khơn
chuộc, vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi ; tiền của tuy nhiều khơn mua được đầu giặc, chó săn


tuy khỏe khôn đuổi được quân thù ; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể
làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp
của ta khơng cịn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất ; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các
ngươi cũng khốn ; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên ;
chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia
thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng

có được khơng?…”
(Trích Ngữ Văn 8, tập 2 – NXB GD Việt Nam 2016)
Câu 1: Đoạn văn trên trích từ tác phẩm nào? Tác giả là ai?Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm?
- Đoạn văn trên trích từ tác phẩm “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
- Hoàn cành ra đời: Nửa cuối thế kỉ XIII, chỉ trong ba mươi năm (1257 – 1287), giặc Mông – Nguyên đã ba
lần kéo quân sang xâm lược nước ta. Trần Quốc Tuấn đã viết bài “hịch tướng sĩ” trích từ “Binh thư yếu
lược” do chính ơng biên soạn này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc.
Câu 2: Xác định nội dung đoạn văn trên?
- Nội dung: Chỉ ra hậu quả của giặc ngoại xâm.
Câu 3: Các định kiểu câu của các câu (1); (2); (4)tỏng đoạn văn? Xác định mục đích nói của các câu đó?
- Câu (1): Kiểu câu trần thuật, hành động trình bày nhằm phê phán thói hưởng lạc của các binh sĩ.
- Câu (2): Kiểu câu cảm thán, hành động bộc lộ cảm xác thể hiện thái độ đau đớn, xót xa của tác giả.
- Câu (4): Kiểu câu nghi vấn, hành động bộc lộ cảm xúc nhằm khơi gợi sự đồng cảm với các tướng sĩ.
Câu 4: Khát vọng đánh thắng giặc ngoại xâm, giành độc lập – tự do cho Tổ Quốc của vị chủ tướng trong
đoạn văn trên đã trở thành hiện thực. Nhưng từ khát vọng, ước mơ đến hiện thực ấy là cả một chặng
đường dài. Hãy viết một đoạn văn (khoảng nữa trang giấy) để nêu lên khát vọng, ước mơ của em và cả
dự định để biến ước mơ ấy trở thành hiện thực.
Bài Làm: Suy nghĩ của con người từ khi sinh ra cho tới khi trưởng thành, chững chạc bước trên con đường đời,
ai cũng đều mang trong mình những hồi bão, ước mơ to lớn. Có ai thành cơng mà khơng có ước mơ. Bởi nếu
khơng có nó thì đâu sẽ là mục tiêu để chúng ta đạt đến. Mục tiêu ấy chính là đích của ước mơ hay thậm chí xa
hơn nữa. Mỗi người chỉ được sống một lần duy nhất, hãy trở thành người có ích cho xã hội, biết vươn phía
trước, sống có mục đích, ước mơ và lí tưởng. Khái niệm của ước mơ là như thế nào? Nó chính là những dự
định, khát khao mà mỗi chúng ta mong muốn đạt được trong thời gian ngắn hoặc dài. Ước mơ chính là động
lực để mỗi chúng ta vạch ra phương hướng đường đi để dẫn tới ước mơ. Còn định nghĩa của khát vọng có thể to
lớn hơn nhưng thực chất chúng có mối liên kết chặt chẽ với nhau, khát vọng là những mong ước, ước muốn lớn
lao, vĩ đại và tốt đẹp của con người với một sự thôi thúc mạnh mẽ từ đó có sự quyết tâm để đạt được những
mong muốn ấy. Và hiển nhiên những khát vọng ấy là những suy nghĩ tích cực, hướng đến những điều tốt đẹp
cho bản thân và xã hội. Vai trò và ý nghĩa của ước mơ trong cuộc sống của con người như thế nào? Ước mơ
chính là ngọn đuốc soi sáng trong tim mỗi chúng ta, nó hướng chúng ta tới những điều tốt đẹp. Ước mơ cũng

chính là mong muốn được cống hiến sức lực của mình cho xã hội và khi chúng ta đạt được ước mơ cũng là lúc
chúng ta được thừa nhận năng lực của mình. Nhưng để thực hiện ước mơ có dễ dàng khơng? T hực tế phải
nói là khơng, nhưng nếu chúng ta cố gắng chăm chỉ học tập và làm việc thì chắc chắc chúng ta tiến tới được
nhiều thành công trong cuộc sống, dần dần trái ngọt sẽ được gặt hái, chúng ta được hưởng những thành cơng do
mình đã thực hiện vất vả vừa qua cũng là phần thưởng vô cùng xứng đáng. Con đường dẫn tới ước mơ cũng vơ
cùng khó khăn, khơng phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được, nhưng với những người kiên trì, bền chí, thì ước mơ
sẽ giúp cho bạn định hướng cho tương lai của mình một cách tốt đẹp nhất. Nó là vì sao sáng soi những lối ta đi,
khi đi qua những khó khăn nhìn thấy ước mơ của mình lấp lánh ở phía xa xa, bạn sẽ nỗ lực bước tiếp. Những
ước mơ sẽ đưa con người đi tới những tương lai, không quản ngại những chông gai, nghiệt ngã, những khó
khăn trên con đường đi của mình. Điển hình như thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí đã bị liệt cả hai tay phải biết bằng
chân nhưng nhờ sự nỗ lực và cố gắng thực hiện ước mơ của mình là biết viết biết đọc. Cuối cùng, ông không
những biết đọc biết viết mà ơng cịn là một người thầy dẫn dắt thế học sinh đi đúng hướng. Hay danh họa kiệt
xuất Leonardo Davinci hàng ngày khổ luyện vẽ lên những quả trứng trịn trĩnh để rồi hồn thiện được kỹ năng
của mình hơn qua mỗi bức hình tưởng chừng như đơn giản đó, để giờ cả thế giới trầm trồ trước những bức họa
vơ giá. Nhìn vào những giọt mồ hơi của các vận động viên, để có được những tấm huy chương vàng, huy
chương bạc mang vinh danh cho đất nước họ đã ngày đêm luyện tập gian khổ từ khi còn rất nhỏ….Và tất cả họ,
đều đã thành cơng trên con đường mình đã chọn, trên con đường mà học hằng mơ ước. Thế nên, đừng biến việc
mơ ước bay cao lại trở thành những nỗi tuyệt vọng, dù cố gắng đến cùng để đạt được ước mơ khơng có nghĩa là
ta lại bất chấp tất cả để có được điều mà mình mong muốn. Chúng ta cần dựa vào chính sức mình, sự nỗ lực của


bản thân, sự hồn thiện khơng ngừng. Đừng dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đạt được thành công. Lúc đó, dù đang
đứng trên đỉnh cao, nhưng tất cả chỉ là chông chênh, và dễ dàng vụt mất, thành công cũng giống như con người,
chỉ bền vững khi nó được làm từ chính sức lực và từ những hành động thiết thực của bản thân. Từ đó, chúng ta
sẽ cảm thấy vô cùng trân trọng những quảng thời gian mà mình đã bỏ ra để đạt được nguyện vọng ấy. Khơng có
ước mơ bạn sẽ khơng xác định được mục tiêu sống của mình là gì. Chính vì khơng xác định được phương
hướng sẽ dẫn tới bạn sẽ sống hoài sống phí, và trở thành người tụt hậu bị bạn bè, xã hội bỏ lại phía sau. Mở
rộng trong xã hội ngày nay bên cạnh những bạn trẻ sống có ước mơ có lý tưởng rất đáng trân trọng, thì bên
cạnh đó vẫn cịn nhiều bạn trẻ sống khơng có ước mơ. Chúng ta khơng hiểu mình muốn gì và khơng có ý chí
phấn đấu, các bạn đó cứ sống và bng bỏ đời mình theo số phận muốn tới đâu thì tới, thật đáng buồn. Gần

nhất thì xung quang chúng ta vẫn có những thành phần học sinh khơng có ước mơ và khát vọng sống, chỉ ỉ lại
vào cha mẹ, không nỗ lực cố gắng phấn đấu. Những người đó sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội trong
tương lai. Vì thế, ta chỉ có thể cố gắng, nỗ lực thật nhiều thì mới có thể mong cuộc sống sau này của mình được
an nhàn, hạnh phúc. Đặc biệt là học sinh, thế hệ trẻ tương lai của đất nước, các em cần xác định ước mơ của
bản thân và cố gắng hết mình vì ước mơ ấy. Hãy làm chủ cuộc đời mình và phấn đấu, nỗ lực hết mình cho
những mục tiêu, dự định đã đặt ra. Đó chính là cách ta theo đuổi ước mơ và kiến tạo cho mình một tương lai
tươi đẹp.
J. Đề số 9: Luyện Tập Văn Bản Hịch Tướng Sĩ.
I. Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi:
(...) Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt,
lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, ta
cũng vui lịng"
(Trích Ngữ Văn 8, tập 2 – NXB GD Việt Nam 2016)
Câu 1: Theo em có thể thay bằng các từ qn bằng khơng, chưa bằng chẳng được khơng? Vì sao?
- Trong đoạn trích, khơng thể thay thế các từ qn bằng khơng, chưa bằng chẳng được bởi vì nếu thay thế
sẽ làm thay đổi hẳn ý nghĩa của câu:
 Qn ở đây khơng có nghĩa là “khơng nghĩ đến, không để tâm đến”. Phải dùng từ này mới thể hiện được
chính xác ý của người viết: Căm thù giặc và đến mức không quan tâm tới ăn ướng, một hoạt động thiết yếu
diễn ra hằng ngày đối với tất cả mọi người.
 Chưa có nghĩa là trong tương lai sẽ thực hiện được, cịn nếu dựng từ chẳng thì sẽ không bao giờ thực hiện
được ý định trả thù.
 Trần Quốc Tuấn bày tỏ chí căm thù giặc Nguyên Mông và khát vọng diệt giặc một cách mạnh mẽ thông qua
thủ pháp cường điệu. Nếu viết ‘Ta thường tới bữa khơng ăn’ thì khơng thực tế và khó thuyết phục được. Mặt
khác, từ ‘chưa’ hàm ý điều bị định khơng có ấy sẽ có thể có sau một thời điểm nhất định cho nên câu văn
của Trần Quốc Tuấn khơng chỉ thể hiện sự căm thù giặc mà cịn bộc lộ một niềm tin vào khát vọng được
diệt giặc. Từ ‘chẳng’ khơng thể hiện được điều đó.
Câu 2: Trần Quốc Tuấn viết Hịch Tướng Sĩ nhằm mục đích gì? Hãy xác định mục đích của hành động
nói thể hiện ở một câu trong bài Hịch và vai trò của câu ấy đối với mục đích chung?
- Mục đích của bài Hịch: Khích lệ tướng sĩ học tập cuốn “Binh Thư Yếu Lược” do chính Trần Quốc Tuấn
biên soạn, đồng thời khích lệ lịng tự tơn dân tộc của tướng lĩnh.

- VD: “Làm tướng mà phải hầu hạ quân giặc mà khơng biết tức..”
 Mục đích nói: Phủ định lịng tự tôn bị mất khi giặc vào cướp nước.
Câu 3: Hãy phân tích một số đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục đối với người đọc ở bài Hịch
Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn?
 Những đặc sắc nghệ thuật đã tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cả nhận thức và tình cảm ở bài
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn:
- Giọng văn biến đổi linh hoạt, đa dạng: khi bi thiết nghẹ ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu,
khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khốt khiến cho bài hịch vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng,
không rơi vào tình trạng giáo điều khơ cứng, cũng khơng phải là sự ủy mị, lãng mạn.
- Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén với hệ thống luận điểm, dẫn chứng rõ ràng, đầy thuyết phục: tác giả đi
từ những tấm gương trong sử sách - sự thực không ai có thể chối cãi-> giãi bày tấm lịng mình -> ân nghĩa
của chủ tưởng đối với binh sĩ -> những việc làm sai trái của họ -> những việc họ nên làm -> gợi ý sách nên
đọc -> kết luận
- Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả phân tích được rõ thiệt hơn, tình hình thực tế và trong tương lai
của những con người ấy.


-

Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại đặc biệt là tác giả sử dụng dày đặc các
câu văn biền ngẫu sóng đơi - một đặc trưng của văn học trung đại, tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả, giục
giã cho bài hịch.
- Sử dụng những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, thân thuộc, dễ hiểu nhưng lại vô cùng giàu sức gợi.
Câu 4: Viết đoạn văn từ 10 – 15 câu nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn
qua bài Hịch Tướng Sĩ.
Bài Làm: Trần Quốc Tuấn quả thực là một vị tướng tài ba, có lịng căm thù giặc sâu sắc. Trong bài Hịch Tướng
Sĩ Trần Quốc Tuấn đã nhiều lần trực tiếp bày tỏ những suy nghĩ và cảm xúc cá nhân trước tình hình đất nước
hiện tại và bày tỏ lịng căm thù giặc sâu sắc của mình. Cụ thể , tác giả viết: "ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm
vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu
cho trăm thân này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng". Những câu văn ấy đã

cho chúng ta thấy được tấm lịng uất hận, sự sục sơi căm thù, ốn hận và có phần khinh bỉ kẻ địch. Nợ nước,
thù nhà là vấn đề luôn canh cánh trong lịng vị chủ tướng. Lịng u nước là tình cảm thiêng liêng và vô giá của
con người. Nhờ thứ tình cảm ấy mà nhân dân ta đã trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm, đã từng phải đối mặt
với những kẻ thù mạnh nhất thế giới nhưng nhân dân ta chưa bao giờ nao núng.Chính vì thế, tác giả quyết định
phải đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, dù có liều mạng thì tác giả cũng cam lòng. Trần Quốc Tuấn đã trực
tiếp bày tỏ nỗi lòng, trực tiếp bày tỏ tâm tư rất chân thành và tha thiết của người chủ tướng. Mỗi câu chữ vang
lên như một lời thề nguyện thiêng liêng, sống chết vì đất nước, thể hiện một quyết tâm sắt đá, một khí phách
anh hùng dũng liệt. Nó cho thấy tinh thần yêu nước nồng nàn và và ý thức trách nhiệm của một vị chủ tướng
với non sông. Đây cũng là phẩm chất cao đẹp đáng nể phục ở người anh hùng này.
K. Đề số 10: Luyện Tập Thơ Cách Mạng: Tức Cảnh Pắc Bó – Hồ Chí Minh.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,..”
Câu 1: Câu thơ trên nằm trong bài thơ nào ? Em hãy chép liên tiếp ba câu thơ liền trước câu thơ này để
hoàn thiện bài thơ? Xác định thể thơ và PTBĐ của bài thơ?
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
- Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt.
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận kết hợp với tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Câu 2: Bài thơ được Bác sáng tác trong hoàn cảnh nào?
- 2/1941 khi Bác đang sống và làm việc hết sức vất vả và khó khăn ở hang Pắc Bó – sau 30 năm bơn ba hoạt
động ở nước ngồi.
Câu 3: Trong bài thơ này có câu thơ: “Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”. Em hiểu câu thơ này như thế
nào?
- Câu này kể chi tiết hơn về sự ăn: Cháo nấu bằng hạt bẹ (ngô), rau là măng rừng, riêng 3 chữ “Vẫn sẵn
sàng” có hai cách hiểu:
 Cách 1: Những thức ăn như bẹ và măng ở đây lúc nào cũng có, cũng “sẵn sàng”, lại cịn dư dả là đằng
khác.
 Cách 2: Dù phải ăn uống kham khổ nhưng người cách mạng vẫn sẵn sàng trước mọi tình huống để chớp lấy
thời cơ hoạt động.

Nhưng dù hiểu theo cách nào đi nữa, câu thơ thứ hai hàm chứa trong nó một sự hóm hỉnh, hài hước, tốt lên
phong thái ung dung, thoải mái, tâm hồn thanh thản và một nụ cười hồn nhiên vượt lên gian khổ, khó khăn.
Câu 4: Kể tên một bài thơ có cùng thể loại với bài thơ “Tức cảnh Pắc Bó”mà em được học?
- Bài thơ “Vọng Nguyệt” (Ngắm Trăng) – Hồ Chí Minh.
Câu 5: Câu thơ sau thuộc kiểu câu gì:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”.
- Câu thơ trên thuộc kiểu câu trần thuật.
Câu 6: Cho chủ đề sau: “Bài thơ “Tức cảnh Pắc Bó” đã thể hiện phong thái ung dung của người chiến sĩ
cách mạng” Bằng đoạn văn tổng – phân – hợp khoảng 12 câu em hãy làm sáng tỏ chủ đề trên. Trong
đoạn văn có sử dụng câu cầu khiến (Gạch chân và chú thích rõ).
Bài Làm: Hồ Chí Minh – một người cha già vĩ đại của dân tộc Việt, người đã hi sinh cuộc đời để dành lại độc
lập cho Tổ Quốc, dành lại sự tự do vốn có của mảnh đất hình chữ S này. Trong quãng thời gian đó, những bài
thơ cũng được ra đời trong những hồn cảnh hết sức gian nan của Bác khi phải mất 30 năm bơn ba hoạt động ở
nước ngồi, rời xa đất mẹ. Suốt cả chặng đường dài ra đi tìm đường cứu nước, Người đã đi qua nhiều nơi, làm


nhiều nghề khác nhau. Ba mươi năm sau, mùa xuân năm 1941, Người trở về quê hương và nơi đầu tiên Người
đặt chân đến là Cao Bằng. Kể từ đấy, Người sống, làm việc tại hang Pác Bó (Cao Bằng), trực tiếp tham gia chỉ
đạo kháng chiến. Cũng tại nơi đây, Người đã sáng tác ra nhiều tác phẩm đặc sắc và bài thơ “Tức cảnh Pác Pó”
là một trong số những tác phẩm như thế. Thể hiện một thể hiện phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ
cách mạng cũng chính là điểm nổi bật của tác phẩm này. Trước hết, ba câu thơ mở đầu bài thơ như đã vẽ lên
trong lòng người đọc cuộc sống sinh hoạt và làm việc thường ngày của Bác nơi hang Pác Pó. Câu thơ đầu tiên
đã khái quát một cách rõ nét về cuộc sống sinh hoạt thường nhật mỗi ngày của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Cùng với giọng điệu thơ thật thoải mái, phơi phới. Cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành hai vế sóng đơi thật nhịp
nhàng, câu thơm đầu tiên đã cho ta thấy cảnh sống trong hang Pắc Bó cũng thật n bình, đơn giản. Với phép
đối chuẩn chỉnh và độc đáo “sáng” - “tối”, “ra” - “vào” câu thơ đã cho thấy nhịp sống thường nhật, cứ thế đều
đặn lặp đi lặp lại mỗi ngày của Bác trong những ngày sống ở hang Pác Pó. Cùng với đó, câu thơ cũng cho thấy
nơi sống và làm việc chủ yếu của Bác mỗi ngày đó chính là “hang” và “bờ suối”. Mỗi ngày, cứ thế, Bác ra suối

để làm việc và vào hang để nghỉ ngơi, sinh hoạt sau một ngày làm việc. Như vậy, có thể thấy, câu thơ đầu tiên
đã giúp chúng ta cảm nhận rõ cuộc sống hằng ngày của Bác, tuy có khó khăn, thiếu thốn song ở Bác, chúng ta
vẫn thấy luôn hiện lên sự ung dung, quy củ và ln hịa mình với thiên nhiên. Không chỉ tái hiện lại cuộc sống
thường nhật, câu thơ thứ hai còn thể hiện rõ nét chuyện ăn uống giản dị của Bác.
"Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Trong câu thơ, “cháo bẹ”, “rau măng” là những món ăn chính trong bữa cơm hằng ngày của Bác. Dẫu bữa ăn
chỉ có thế, đạm bạc và thiếu thốn nhưng tinh thần của Người thật khiến chúng ta ngưỡng mộ - “vẫn sẵn sàng”.
Dường như, với mình, Bác xem việc ăn những món ăn dân dã, đời thường ấy là một thú vui, là sự thích nghi và
vượt lên trên sự khó khăn, thiếu thốn của hồn cảnh. Nhưng có lẽ, hơn tất cả, ẩn sau đó chính là tư thế chủ
động, tinh thần lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ của Bác. Giọng điệu trong câu thơ thứ hai này cũng
có nét hóm hỉnh, vui đùa, đây chính là để thể hiện một tinh thần lạc quan cho dù cuộc sống có thiếu thốn, gian
khổ, hãy nở nụ cười thật tươi cho dù có khó khăn như nào đi chăng nữa. Và nếu như hai câu thơ mở đầu đã
thể hiện rõ nét cuộc sống thường ngày của Bác thì câu thơ thứ ba cho người đọc thấy được những công việc
hằng ngày Bác làm.
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”.
Với từ láy “chông chênh” giàu sức gợi được đặt sau danh từ “bàn đá” đã cho thấy điều kiện làm việc tạm bợ,
thiếu thốn của Bác. Không chỉ làm việc ở nơi bàn đá mà hơn thế cịn là “bàn đá chơng chênh” nó tạo cảm giác
bấp bênh, không bằng phẳng, không vững vàng và vì vậy càng khắc sâu thêm sự khó khăn. Thế nhưng, dẫu khó
khăn như thế nào đi nữa, Bác vẫn ngồi đấy, kiên trì với cơng việc “dịch sử Đảng” của mình - cơng việc với ý
nghĩa to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tất cả những điều đó đã cho thấy sự tập trung cao độ, sự
kiên trì, nỗ lực khơng ngừng nghỉ của Bác vì sự nghiệp cách mạng, vì cuộc chiến vĩ đại của nhân dân ta. Để rồi,
sau tất cả, vị lãnh tụ tồn tài ấy có những cảm nhận thật sâu sắc về cuộc đời hoạt động cách mạng.
“Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác đã phải trải qua bao khó khăn, gian nan và vất vả nhưng
có lẽ với Bác, được mang lại hạnh phúc, bình yên cho nhân dân, độc lập cho đất nước là niềm hạnh phúc lớn
lao, thiêng liêng nhất. Phải chăng vì thế mà với Bác cuộc đời cách mạng ấy thật là “sang”, thật giàu có biết bao.
Từ “sang” như nhãn tự của bài thơ, từ đó làm bật lên phong thái ung dung, tinh thần lạc quan và cả sự vững
vàng, niềm tin vào cách mạng Việt Nam. Tóm lại, bài thơ “Tức cảnh Pác Pó” với thể thơ thất ngơn tứ tuyệt
cùng ngơn từ, hình ảnh thơ giản dị, tự nhiên và giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh đã thể hiện một cách rõ nét
phong thái ung dung, tinh thần lạc quan, tư thế của động của Bác trên con đường hoạt động cách mạng. Đối với

Bác, được hoạt động cách mạng, được mang lại hạnh phúc, tự cho cho nhân dân, đất nước là niềm hạnh phúc
lớn lao và là sự giàu có tuyệt vời nhất.
 Chú thích: Câu cầu khiến (In đậm).
Câu 7: Viết đoạn văn khoảng ½ trang giấy trình bày suy nghĩ của em về tình yêu nước của thế hệ trẻ?
Bài Làm: Nhắc đến các vẻ đẹp truyền thống của những người con đất Việt, ta không thể khơng kể đến lịng u
nước nồng nàn. u nước khơng phải một khái niệm xa xơi, trừu tượng. Đó là tình cảm giản dị, gần gũi nhưng
vơ cùng thiêng liêng bắt nguồn từ sự trân trọng, nâng niu mà ta dành cho những sự vật quanh mình, cho những
con người ta u thương, gắn bó. Biểu hiện của lịng u nước cũng nằm ngay trong ý thức, hành động hàng
ngày của mỗi chúng ta. Trong thời chiến, nó sục sơi và cuộn trào cùng các cuộc khởi nghĩa, cùng lớp lớp thanh
niên sẵn sàng hi sinh tính mạng khi lên đường nhập ngũ. Trong thời bình, mỗi người thể hiện tình yêu nước
bằng cách chăm chỉ trau dồi tri thức, cần cù lao động và rèn luyện đạo đức với ước mong đem đến cuộc sống
tươi đẹp hơn cho bản thân, gia đình và dân tộc mình. Cứ như vậy, lòng yêu nước đã truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, trở thành nguồn sức mạnh vô giá, thành sợi dây nối kết trái tim của những “con Lạc cháu Hồng”,


giúp ta có thể lập nên những chiến cơng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chính tình u nước của thế
hệ đi trước đã tạo dựng niềm tin cho thế hệ mai sau. Dù thế hệ trẻ có lập nghiệp nơi đâu trên địa cầu rộng lớn,
những con người Việt Nam ta vẫn luôn giữ trong trái tim mình tình yêu nước nồng nàn, để nhớ, để ngưỡng
vọng và cũng để khao khát được làm điều gì đó cho mảnh đất hình chữ S thân thương Việt Nam.
Câu 8: Hãy viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ của em về tinh thần lạc quan trong cuộc sống?
Bài Làm: Trong cuộc sống ai cũng có lúc gặp phải những khó khăn thử thách, những con người biết vươn lên,
sống lạc quan tin tưởng vào bản thân chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành tựu. Sống lạc quan là một lối sống tốt
đẹp trong cuộc sống mà con người ai cũng nên học hỏi và phát huy. Sống lạc quan là người có thái độ an nhiên,
điềm tĩnh trước những tình huống, sự việc khơng mong muốn xảy ra. Con người lạc quan là người sống luôn
tươi cười dù có chuyện gì xảy ra. Đây là một thái độ sống tích cực mà mỗi người cần phải có dù sống trong xã
hội nào đi nữa. Hay khi gặp chuyện khơng tốt đối với bản thân, chúng ta nên bình tĩnh giải quyết vấn đề, nhìn
nhận vấn đề theo hướng tích. Lạc quan nhìn nhận vấn đề sẽ giúp vấn đề được giải quyết nhanh hơn là chỉ biết
đổ lỗi cho người khác hay hối hận vì những việc đã xảy ra. Biểu hiện của tinh thần lạc quan rất đa dạng và tùy
theo cảm nhận của mỗi người. Nó là luôn tươi cười vui vẻ trong cuộc sống hằng ngày. Thức dậy với một cảm
giác vui vẻ, thoải mái thì sinh hoạt và cơng việc của con người ngày đó cũng trở nên sn sẻ và dễ dàng hơn.

Chăm chỉ dậy sớm tập thể dục, tự tay làm bữa sáng cho mình và bắt đầu một ngày làm việc mới cũng là một
biểu hiện của tinh thần lạc quan mà ai cũng nên học tập. Cơng việc có khó khăn đến mấy, chỉ cần con người yêu
đời, vui vẻ làm việc thì những khó khăn đó cũng khơng thể làm ảnh hưởng đến người đó được. Con người lạc
quan cũng là người rất biết quý trọng bản thân mình và yêu thương những người xung quanh, biết lan tỏa sự lạc
quan yêu đời của mình đến với người khác, khiến cho mọi người xung quanh trở nên lạc quan và u đời hơn.
Người lạc quan ln nỗ lực hồn thành cơng việc của mình, nỗ lực đạt được những mục tiêu mà bản thân đã đề
ra trong cả công việc lẫn cuộc sống. Con người sống có tinh thần lạc quan thì trong cuộc sống hay trong cơng
việc đều trở nên dễ dàng hơn, giảm căng thẳng mệt mỏi. Qua đó con người cũng có thể truyền những năng
lượng tích cực này đến với mọi người xung quanh, giúp cho công việc tập thể trở nên thú vị hơn, và hồn thành
nó tốt hơn. Lạc quan khiến con người trở nên kiên cường hơn vì khi gặp khó khăn trong cuộc sống, con người
lạc quan luôn vui vẻ đối mặt với những khó khăn đó với tinh thần đầy quyết tâm và mạnh mẽ. Điển hình như
những người khi phát hiện mình bị bệnh khơng thể chữa khỏi, họ vẫn lạc quan để sống tiếp và phải sống thật có
ý nghĩa để khi họ khơng cịn nữa thì cũng không phải hối tiếc về cuộc sống này. Ta vẫn thường thấy những tấm
gương học sinh bị bệnh hiểm nghèo không thể chữa được nhưng các em vẫn cố gắng sống tốt, học giỏi, sống
lạc quan yêu đời. Các em đã bị bệnh như vậy mà tinh thần vẫn rất lạc quan. Tinh thần lạc quan khơng phải ai
cũng có nhưng nó có thể rèn luyện được. Khi gặp khó khăn thì khơng được bỏ cuộc mà phải cố gắng kiên trì
giải quyết khó khăn đó. Mỗi người hãy tập cho mình thói quen dậy sớm bắt đầu một ngày mới và tự tạo cho
mình động lực vươn lên, tình thần vui vẻ để bắt đầu ngày mới thật hiệu quả. Hãy yêu thương người thân nhiều
hơn, truyền cho họ những năng lượng tích cực và tinh thần lạc quan yêu đời để mọi người cùng nhau sống và
làm việc thật có hiệu quả. Ln mỉm cười trước các sự việc xảy ra khiến cho những vấn đề trở nên đơn giản
hơn, tạo nguồn năng lượng tốt để con người giải quyết vấn đề tốt hơn, làm tâm lí của con người cũng thoải mái
hơn. Bên cạnh đó, thường xuyên tiếp xúc làm việc với những người lạc quan cũng khiến con người cảm nhận
được sự lạc quan yêu đời hơn, cũng giống như khi ta truyền năng lượng đến với người khác vậy. Trong xã hội
này, lạc quan là một cách sống tốt đẹp cần được học tập và phát huy. Nhưng bên cạnh đó vẫn cịn rất nhiều
người sống rất bi quan. Khi gặp một biến cố hay khó khăn nhỏ thơi thì họ đã từ bỏ, họ không cố gắng để giải
quyết vấn đề mà chỉ biết sợ sệt, bỏ trốn. Là một con người sống trong xã hội, con người ai cũng nên rèn luyện
cho mình tinh thần lạc quan yêu đời, khi gặp khó khăn phải tự tin đương đầu với nó. Vượt qua được những biến
cố trong cuộc sống sẽ khiến con người trở nên mạnh mẽ hơn, có thêm can đảm để đương đầu với nhiều khó
khăn hơn. Rèn luyện được tinh thần lạc quan thì con người sẽ trở nên yêu đời hơn, cuộc sống hạnh phúc hơn.
Mỗi người sống trong xã hội đều có những tính cách khác nhau. Lạc quan là một trong những truyền thống quý

báu của dân tộc ta từ xa xưa. Vì vậy con người sống nên rèn luyện cho mình tinh thần lạc quan yêu đời, yêu
nước để góp phần tạo nên một xã hội văn minh hơn.



×