Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

sáng kiến kinh nghiệm giảng dạy phần và tiết luyện tập ngữ văn 7 theo phương pháp dạy và học tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.78 KB, 8 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
KINH NGHIỆM
GIẢNG DẠY PHẦN VÀ TIẾT LUYỆN TẬP NGỮ VĂN 7
THEO PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC

A. MỞ ĐẦU
- Những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy và học đặc biệt là
tiết luyện tập trong nhà trường, đặt ra những yêu cầu mới cho giáo viên
đứng lớp.
- Nhằm đáp ứng một phần hiểu biết về phương pháp dạy tiết luyện tập
góp một phần nhở vào việc đổi mới phương pháp dạy Ngữ văn nói
chung.
- Phương pháp dạy phần và tiết luyện tập cũng là môn khoa học. Về nội
dung, nó là tiết tổng hợp kiến thức của từng phần trong các dạng bài của
chương trình. Vì thế đòi hỏi giáo viên cần phải có phương pháp dạy
riêng để học sinh hiểu và phù hợp theo phương pháp mới.
- Là giáo viên trẻ, tôi thấy mình có cần có nhiệm vụ nghiên cứu chỉ ra
biện pháp thích hợp, tránh lối dạy dàn trải, đem lại hiệu quả thấp cho
học sinh.
- Theo tôi, “Luyện tập” là tiết dạy khó nên tôi tìm cho mình một phương
pháp riêng. Để dạy tiết luyện tập thành công, đòi hỏi giáo viên nắm
vững kiến thức, tổng hợp mọi tình huống và tổ chức cho học sinh học
theo hướng học tập tích cực. Qua tiết luyện luyện tập học sinh hình
thành được phương pháp giải một dạng bài tập và đọng lại torng các em
những kiến thức đã học trước.
I. Nguyên nhân và mục đích:
- Giáo dục đã đổi mới, nội dung và phương pháp dạy học theo xu hướng
tích cực hóa. Hướng học sinh vào thực hành giao tiếp. Vì thế theo tôi,
tiết luyện tập cần được chú trọng hơn.
- Vấn đề được đặt ra cho tôi khi bắt đầu vào nghề là phải làm thế nào để
dạy tốt tiết luyện tập. Để các em hiểu lý thuyết bài học và vận dụng


một cách có hiệu quả vào thực tế. Đối với tôi, đây là một việc làm
không dễ. Tôi nghó rằng, giáo viên cần phải có một phương pháp riêng
cho từng kiểu bài tập.
- Chính những vấn đề trên nên tôi suy nghó và mạnh dạn tìm hướng đi,
phương pháp dạy học riêng cho tiết luyện tập.
II. Tình hình và thực trạng:
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 1
Sáng kiến kinh nghiệm
1. Thuận lợi:
- Bản thân tôi được nghe báo cáo kinh nghiệm của các giáo viên
dạy giỏi.
- Trực tiếp dực giờ, nghe rút kinh nghiệm của các bậc thầy cô đi
trước và các bạn đồng nghiệp.
- Ngoài ra tôi còn tham kho\ảo thêm một số sách về phương pháp
dạy học tích cực môn Ngữ văn ở Trường Trung học cơ sở.
- Vì là giáo viên trẻ nên tôi còn được rất nhiều sự vận động quan
tâm của phụ huynh học sinh. Các phụ huynh quan tâm nhắc nhở đến con
em mình học tập tốt, tích cực phát biểu trong giờ học.
- Các học sinh khối 7 năm học này là những học sinh tôi đã có
dạy và tiếp xúc các em ở lớp 6 nên sự gần gũi và gắn bó với các em
không ít. Các em cũng tỏ ra rất cố gắng trong học tập.
2. Khó khăn:
- Việc đổi mới về nội dung và phương pháp tích hợp rất hay
nhưng là giáo viên trẻ tôi còn lúng túng bỡ ngỡ trong khi thiết kế giáo
án, đặc biệt là còn theo một khuôn mẫu, bản thân chưa dám mạnh dạn
áp dụng những cách riêng trong giảng dạy.
- Trình độ của các học sinh không đồng đều (số học sinh yếu còn
nhiều) ảnh hưởng đến việc dạy và học.
- Các em còn nhúc nhát trong việc thực hành theo nhóm, theo tổ,
theo đôi bạn.

- Cái nhìn của xã hội về môn Ngữ văn chưa được chú trọng trong
thời buổi kinh tế thò trường. Do đó các em học môn Ngữ văn qua loa, đại
khái.
- Trong chương trình, các tiết luyện tập còn hạn chế.
B. NỘI DUNG
 Các bước thực hiện:
1. Bước 1:Thống kê - Phân loại
- Trước tiên tôi làm công việc thống kế các phần và các tiết luyện
tập và phân loại chúng theo từng dạng bài tập cụ thể.
- Trong chương trình Ngữ văn 7, sau mỗi văn bản, mỗi phần lý
thuyết Tiếng Việt đều có phần luyện tập. Ngoài ra còn có 11 tiết luyện
tập dành cho phần Tập làm văn và Tiếng Việt.
• Ta có thể chia ra thành các dạng bài tập như sau:
a/ Luyện tập sau khi học xong một văn bản:
Gồm các dạng thường gặp:
+ Nhận xét
+ Nêu ý kiến riêng
+ Dựng đoạn văn
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 2
Sáng kiến kinh nghiệm
+ Sưu tầm.
b/ Luyện tập sau phần học lý thuyết Tiếng Việt và các tiết luyện
tập Tiếng Việt:
Gồm các dạng thường gặp:
+ Bài tập nhận diện
+ Bài tập chuyển đổi
+ Bài tập sáng tạo
c/ Luyện tập sau phần học lý thuyết Tập làm văn và các tiết luyện
tập Tập làm văn:
Gồm các dạng thường gặp:

+ Phân tích mẫu
+ Thực hành xen kẽ với lý
thuyết
+ Luyện nói
2. Bước 2: Chuẩn bò
- Tiết luyện tập, thực hành đóng vai trò quan trọng, quyết đònh
việc nắm vững kiến thức và hình thành kỹ năng nói, viết nâng cao trình
độ sử dụng Tiếng Việt đúng câu, đủ ý.Vì thế trong tiết học, tôi rất cẩn
trọng với bước dặn dò, bước này không thể sơ sài được. Tôi cho các em
những câu hỏi phụ hoặc ra trước đề bài đối với tiết “Luyện nói”, để khi
về nhà các em có thời gian chuẩn bò. Đồng thời tôi phân công cho các
em chuẩn bò bài mới theo tổ, nhóm. Bên cạnh đó tôi còn cho các em xếp
bàn theo nhóm để các em dễ dàng thảo luận.
3. Bước 3: Lên lớp
a/ Đối với phần luyện tập sau khi học xong một văn bản:
- Sau khi các em học xong một văn bản tác phẩm văn học,
mỗi cá nhân của các em đều có cảm nhận riêng. Vì thế khi thực
hành phần luyện tập đa số tôi cho các em làm vào phiếu học tập.
- Dựa vào phần thống kê từ đầu, nếu yêu cầu bài tập rơi
vào dạng nhận xét, nêu ý kiến riêng bằng cách dựng đoạn về tác
phẩm văn học thì hướng dẫn các cho các em làm theo cá nhân và
ghi vào phiếu học tập. Nếu yêu cầu luyện tập rơi vào dạng sưu
tầm thì phân công theo nhóm. Có thể cho các em về nhà hoặc có
thể cho các em thực hiện ngay trên lớp.
- Ngoài ra, tùy vào trường hợp, tôi cho các em chơi những
trò chơi góp sức, các nhóm sẽ thi nhau trình những đáp án của
mình. Đây cũng là dòp để các em co thể phát huy tính tích cực, rèn
luyện cho các em thêm dạn dó.
b/ Đối với phần luyện tập và tiết luyện tập Tiếng Việt:
- Học sinh thực hiện tốt được phần, tiết luyện tập này

chứng tỏ các em đã nắm được cơ bản lý thuyết mà các em đã học
trước đó.
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 3
Sáng kiến kinh nghiệm
 Bài tập nhận diện: Đây là dạng bài tập thấp nhất giúp
học sinh nhớ lại kiến thức đã học. Để học sinh thực hành
tốt, tôi cho các em nhận diện và phân tích theo cá nhân.
* Ví dụ:
Yêu cầu: Tìm từ trái nghóa trong các câu ca dao, tục
ngữ sau đây:
- Chò em như chuối nhiều tàu,
Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nhiều lời
- Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ngày ba mươi Tết thòt treo trong nhà.
- Ba năm được một chuyến sai,
Áo ngắn đi mượn quần dài đi thuê.
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
- Bài tập này các em thực hiện cá nhân, một học sinh được
gọi lên sẽ trình bày đáp án của mình.
Đối với phần ôn tập cho bài tập dạng trên, tôi vẽ sẵn sơ đồ khung
vào bảng phụ và cho cá nhân các em lần lượt lên điền vào.
Ví dụ:
Yêu cầu: Gồm có mấy loại từ láy ? Kể ra và
cho ví dụ.
Học sinh sẽ điền vào sơ đồ khung như sau:

Từ láy



(Hình thức này thường dùng để ôn tập chuẩn bò vào kiểm tra
một tiết hoặc cuối học kỳ)
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 4
Sáng kiến kinh nghiệm
 Bài tập chuyển đổi:
Ở dạng bài tập này thường là chuyển đổi ngữ liệu về
một phương diện nào đó về thành phần cấu tạo, trật tự sắp
xếp.
Ví dụ: Yêu cầu: Thay các quen hệ từ dùng sai sau
đây thành những quan hệ từ thích hợp.
- Ngày nay, chúng ta cũng có quan niệm với cha ông ta ngày
xưa, lấy đạo đức, tài năng làm trọng.
- Tuy nước sơn có đẹp đến mấy mà chất gỗ không tốt thì đồ
vật cũng không bên được.
Để thực hiện dạng bài tập này, tôi cho học sinh làm
bài tập theo nhóm. Sau đó đại diện nhóm sẽ trình bày.
(Các nhóm được phân sẵn từ đầu năm học, các em sẽ luân
phiên nhau làm nhóm trưởng và thư ký.
Để kích thích hưng phấn học tập của các em, tôi
lồng vào đấy phần thi đua giữa các nhóm. Sau khi trình bày
kết quả, giáo viên sẽ chấm điểm nhưng kh6ong lấy điểm
chính thức vào sổ mà nhóm nào làm bài tốt sẽ đạt điểm
cộng. Như vậy 5 lần đạt điểm cộng thì các em sẽ đạt một
cột điểm 10. Có như thế, các em sẽ phấn đấu nhiều hơn
trong tiết, phần luyện tập.
 Bài tập dạng sáng tạo:
- Bài tập này thường là yêu cầu học sinh mình tạo
ra sản phẩm ngôn ngữ.
Ví dụ: Yêu cầu: Viết một đoạn văn trong đó có sử
dụng quan hệ từ. Gạch dưới các quan hệ từ trong đoạn văn

đó.
- Tôi cho học sinh thực hiện cá nhân để rèn luyện kỹ
năng dùng từ, đặt câu, phương thức diễn đạt. Các em sẽ
làm vào phiếu học tập và gọi 2->3 học sinh lên bảng trình
bày. Sau đó giáo sửa và thu các phiếu học tập về nhà
chấm.
c/ Đối với luyện tập sau phần học lý thuyết Tập làm văn và các
tiết luyện tập Tập làm văn:
- Ở phần Tập làm văn theo tôi đây là phần luyện tập hay
nhất đó là luyện nói.
- Giáo viên cho các em chủ đề trước. Các em sẽ chuẩn bò
theo nhóm trước, 1->3 ngày.
- Khi luyện nói, tôi cho các em lần lượt trình bày các ý mà
các em đã chuẩn bò.
- Nhóm này trình bày thì nhóm khác nhận xét và ngược lại.
- Nếu gặp dạng bài phân tích mẫu:
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 5
Sáng kiến kinh nghiệm
Ví dụ: Yêu cầu: Đọc đoạn văn sau và trả lời câu
hỏi.
Mẹ ơi ! Con khổ quá mẹ ơi ! Sao mẹ đi lâu
thế ? Mãi không về ! Ngưới ta đánh con vì con dám
cướp lại đồ chơi của con mà con người ta giằng lấy.
Người ta lại còn chửi con, chừi cả mẹ nữa ! Mẹ xa
con, mẹ có biết không ?
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
Câu hỏi: Đoạn văn biểu hiện tình cảm gì ?
Tình cảm ở đây được biểu hiện trực tiếp hay gián
tiếp? Em dựa vào dấu hiệu nào để đưa ra nhận xét
của mình ?

- Vì đây là chính là vấn đề trực quan ngôn ngữ dựa vào
mẫu, giáo viên diễn dắt học sinh nắm phương phân tích phong
cách vận dụng vào việc xây dựng bài viết.
- Nếu gặp dạng bài thực hành xen kẽ với lý thyết: dạng bài
tập này mang tính tổng hợp, vừa luyện vừa ôn. Tôi cho các em
thực hành ngay sau khi học lý thuyết.
C. PHẦN KẾT
* Kết quả đạt được:
- Bắt đầu học kỳ 2 năm học 2005 – 2006 tôi áp dụng nhiều lần cách
luyện tập mà tôi đã trình ở trên đến cuối học kỳ đạt được kết quả
như sau: (Môn Ngữ Văn)
Tổng số
học sinh
Học lực
Giỏi Khá
Trung
bình
Yếu
Đầu năm 35 04 10 15 06
Tỉ lệ 11,4% 28,6 % 42,9% 17,1%
Cuối năm 35 06 14 13 02
Tỉ lệ 17,14% 40% 37,14% 5,72%
- Tuy nhiên đây chỉ là bước đầu thử nghiệm. Tôi nghó rằng trong những
năm gần đây cần phải có hướng giảng dạy tốt hơn nữa. Vì trong giai
đoạn hiện nay, việc tìm ra các biện pháp dạy học theo hướng tích hợp là
cần thiết trong công tác giảng dạy ở Trường THCS.
- Qua những gì mà tôi trình trên đây đó chỉ là một chút ít mà tôi học được
từ rất nhiều Thầy, cô đi trước và các đồng nghiệp của tôi. Có một điều
mà tôi thấy cần thiết trong giảng dạy Ngữ văn 7 nói riêng và Ngữ văn ở
Trường THCs nói chung là: “Dạy văn ngoài việc giảng sâu, bình thấu

Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 6
Sáng kiến kinh nghiệm
mà còn phải phân loại các dạng bài và để cho các em thực hành, chính
các em chủ động, để các em nói. Có như thế bài học sẽ dễ khắc sâu vào
tâm trí các em hơn.
- Trên đây là một tổng kết kinh nghiệm nhỏ mà tôi thực hiện sau 1 năm
giảng dạy. Tôi hy vọng kinh nghiệm này góp một phần nhỏ vào việc dạy
và học hiện nay. Từ đó bắt kòp được tình hình đổi mới phương pháp và
nội dung theo kiểu hiện đại hóa giáo dục.
- Tôi rất mong được q Thầy, cô đi trước cùng các đồng nghiệp chia sẻ.
Chân thành cảm ơn !
Bình Hòa Phước , ngày 12 tháng 11 năm 2006
Người viết
Trương Thò Thùy Trinh
DUYỆT CỦA TỔ DUYỆT CỦA BAN GIÁM
HIỆU
ĐÁNH GIÁ CỦA PHÒNG GIÁO DỤC
HUYỆN LONG HỒ
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 7
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên thực hiện: Trương Thò Thùy Trinh 8

×