BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC………………………………………
TIỂU LUẬN
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Sinh viên thực hiện: …………………
Lớp: ...................................................
Mã số SV: ……………………………
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS …………………
……., năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Tiểu luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của
PGS.TS …………….., được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Trường Đại
học………………
Nhân đây cho phép tơi được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS …………. người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua, tơi cũng xin chân
thành cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét q báu của các thầy cơ giáo
giúp tơi hồn thành bài tiểu luận của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, nhà lãnh đạo bè đã ln
động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận
……, tháng 11 năm 2020
Học viên
…………………………
LỜI NĨI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn vận hành thị trường ngân hàng cho thấy
hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động ẩn chứa nhiều rủi ro, có vai trị quan
trọng đối với phát triển kinh tế xã hội. Là chủ thể tham gia thị trường, các ngân hàng
thương mại cũng được Nhà nước bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động trong kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, được hợp tác và cạnh
tranh trong hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định
của pháp luật. Do vậy, hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cũng
chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.
Song hành với những bước phát triển và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới của thị trường ngân hàng Việt Nam càng làm cho hoạt động cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại gay gắt hơn. Để giành, giữ và vươn lên trên thị trường, mỗi
ngân hàng thương mại đã đang xây dựng chiến lược cạnh tranh, lựa chọn hướng
riêng phù hợp với quy định của pháp luật. Thực tiễn cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại cũng đã phát sinh nhiều hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có nguy
cơ gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an tồn của các tổ chức
tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Pháp
luật về chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của
các ngân hàng thương mại là công cụ hữu hiệu bảo vệ lợi ích chính đáng của các
ngân hàng thương mại, người sử dụng dịch vụ ngân hàng do các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra đồng thời bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống
các tổ chức tín dụng, góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt chính sách tiền tệ
quốc gia, bảo đảm kiểm soát được lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Việc làm rõ cơ sở khoa học của việc quy định về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh cũng như tìm kiếm các biện pháp chống cạnh tranh khơng lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
Từ những phân tích trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân” làm nội dung nghiên cứu cho tiểu
luận luật học.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và những biểu hiện không lành mạnh trong
hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng
2.2.Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết trên cơ sở Chủ nghĩa Mác Lê-Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
để thể chế chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Luận văn sử
dụng kết hợp các phương pháp như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp phân tích kết hợp
với phương pháp so sánh luật học để làm rõ nội dung của pháp luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
pháp luật cạnh tranh, từ đó đánh giá ưu điểm cũng như những hạn chế trong pháp
luật hiện hành nhằm đề xuất kiến nghị và giải pháp mang tính thực tiễn
3. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận gồm 2 chương.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
1.1 Khái quát về cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
1.2.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh khơng lành mạnh là do
việc xác định tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh lệ thuộc vào nhiều yếu
tố của quan hệ thị trường và luôn có xu hướng thay đổi do sự biến động khơng ngừng
của quan hệ thị trường cũng như khả năng sáng tạo trong hoạt động kinh doanh. Do
đó, tùy thuộc vào truyền thống pháp luật các nước mà có những quan niệm khác
nhau về cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh không lành mạnh là những hành
vi cụ thể, đơn phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh ln thể
hiện tính khơng lành mạnh (chứ khơng chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là
gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh sự bất lợi hay thiệt hại trong kinh doanh. Cạnh
tranh không lành mạnh được định nghĩa trong pháp luật cạnh tranh của Cộng đồng
các quốc gia độc lập (SNG) là hành vi của các Ngân hàng với mục đích thu lợi bất
chính trong khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, vi phạm nguyên tắc công
bằng được tôn trọng, vi phạm tập quán kinh doanh, vi phạm quy định của pháp luật
về cạnh tranh, gây ra thiệt hại cho các Ngân hàng khác là đối thủ cạnh tranh hoặc
gây ảnh hưởng uy tín kinh doanh của họ
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 20144, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh “là hành vi cạnh tranh của Ngân hàng trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
Ngân hàng khác hoặc người tiêu dùng”. Bên cạnh quy định khái quát về cạnh tranh
không lành mạnh, Luật Cạnh tranh năm 20144 cịn liệt kê các hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh cụ thể. Có thể khẳng định, quan niệm và cách thức ghi nhận về
cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam về cơ bản là
phù hợp với quan niệm và cách thức quy định của pháp luật các nước.
Hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng có vai trị quan trọng đối với sự
phát triển của thị trường ngân hàng nói riêng, thị trường tài chính nói chung. Cũng
như những chủ thể kinh doanh khác, các tổ chức tín dụng cũng phải “ganh đua, kình
địch” với các nhà kinh doanh khác trên thị trường để giành cùng một loại tài nguyên
sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình, nghĩa là phải cạnh tranh để
giành, giữ và vươn lên trên thị trường. Các ngân hàng thương mại là Ngân hàng,
kinh doanh và cạnh tranh trong thị trường hàng hóa đặc biệt là tiền tệ. Trong q
trình cạnh tranh, các ngân hàng thương mại có thể thực hiện các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh để giành ưu thế không công bằng trên thị trường đòi hỏi những
hành vi này cần phải được loại bỏ nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường..
Hiện nay, trong khoa học pháp lý ở Việt Nam chưa hình thành nhận thức thống
nhất về cạnh tranh khơng lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Nghị định Quy định
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử
lý các hành vi này của Ngân hàng Nhà nước công bố tháng 6/2011 cho rằng “Hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi cạnh tranh
của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi canh tranh khơng lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng vì q chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn
mực thơng thường về đạo đức kinh doanh, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại
đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an tồn của hệ thống các tổ chức tín
dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác”.
Với quan niệm này dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là “vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận” mà thực hiện các hành vi vi
phạm “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”, chúng tôi cho rằng, với
quy định này, Dự thảo Nghị định đã thu hẹp quá nhiều nội hàm khái niệm cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Thực tế cho thấy, việc thực hiện hành
vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể trên thị trường khơng phải lúc nào
cũng vì mục tiêu lợi nhuận. Trong thực tế, để gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh
tức là thực hiện hành vi nhằm mục đích khơng lành mạnh, các chủ thể kinh doanh
đã “hi sinh mục tiêu lợi nhuận” thì về bản chất các hành vi cạnh tranh khơng vì mục
đích lợi nhuận vẫn được coi là khơng lành mạnh. Bản chất của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là những thủ pháp/phương thức thực hiện hành vi cạnh tranh với
tính chất là khơng cơng bằng, khơng lành mạnh, trái với chuẩn mực thơng thường
về đạo đức kinh doanh có khả năng gây hại tới quyền lợi đối thủ cạnh tranh trên thị
trường.
Để đi đến thống nhất quan niệm về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng – một lĩnh vực kinh doanh cụ thể trong nền kinh tế mà thực chất là
quá trình đi tìm điểm khác biệt về thủ đoạn, phương thức thực hiện cạnh tranh trong
hoạt động ngân hàng. Điểm khác biệt cơ bản giữa cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng với các lĩnh vực khác là ở đối tượng bị hành vi cạnh tranh
không lành mạnh xâm phạm là các tổ chức tín dụng, người tiêu dùng cũng như yêu
cầu bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh trong hoạt động ngân hàng gắn liền với các dịch vụ
ngân hàng mà tổ chức tín dụng được phép cung ứng.
1.2.2 Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích của
Nhà nước, của các Ngân hàng khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại mà
hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có thể chỉ là tiềm năng (có
căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi).
Do đó, một số hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có cấu thành vật chất (thiệt hại
là dấu hiệu bắt buộc) như dèm pha Ngân hàng khác; một số hành vi có cấu thành
hình thức (thiệt hại khơng là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán nếu
hành vi tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo khơng trung thực….
Đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc độ lý
thuyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi
hạn chế cạnh tranh là những xử sự của Ngân hàng hoặc nhóm Ngân hàng làm thay
đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh
đối với thị trường. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số
đội tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch
cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh chỉ gây thiệt hại cho
các tổ chức, cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự
quản lý cạnh tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng
cạnh tranh của thị trường.
Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác nhau. Dưới
góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con người về tính
nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ.
Ở thời kỳ đầu tiên, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành
mạnh xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự
đối đầu giữa các đối thủ trên thị trường, vì vậy những hành vi xâm hại lợi ích người
tiêu dùng khơng nằm trong khái niệm cạnh tranh không lành mạnh. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, những hành vi không lành mạnh được thực
hiện với khách hàng (người tiêu dùng), tưởng chừng như không liên quan đến các
đối thủ cạnh tranh nhưng thực tế cũng làm tổn hại và thậm chí phá vỡ trật tự và hệ
thống cạnh tranh hiện hành(Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật). Do đó, quan
niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã làm cho pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh mở rộng phạm vi sang cả những hành vi xâm hại lợi ích của khách
hàng, của người tiêu dùng.
Sự phát triển thị trường của Việt Nam cho thấy cạnh tranh không lành mạnh
đang diễn ra trong tất cả các ngành kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của các Ngân
hàng Nhà nước, ở các khu vực khác của thị trường Việt nam đã có sự tồn tại của
cạnh tranh ở những mức độ nhất định. Trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị
trường, ở đâu có cạnh tranh, ở đó có cạnh tranh khơng lành mạnh. Các biểu hiện
cạnh tranh không lành mạnh cũng diễn ra trên các thị trường hoá mỹ phẩm, nước
giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến mại, mua bán…. Các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh rất đa dạng và luôn thay đổi về hình thức thực hiện. Ví dụ
trong lĩnh vực quảng cáo, có thể nghi ngờ tính trung thực của thơng tin được cung
cấp (về khả năng tăng cường trí thơng minh của các lọai thuốc dinh dưỡng, về tác
động của các sản phẩm sữa cho trẻ em…), về sự so sánh của các Ngân hàng kinh
doanh hóa mỹ phẩm.
1.2.3 Các hành vi không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh có thể được phân thành nhiềuloại
khác nhau phụ thuộc vào tiêu chí cũng như mục đích phân loại. Nhưng xét một cách
khái quát các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh cùng có một bản chất là đều tạo
ra những lợi thế khơng chính đáng trong tương quan cạnh tranh trên thị trường và
có thể chia làm ba nhóm:
Nhóm 1: Nhóm c hành vi mang tính chất lợi dụng
Đây có thể coi là nhóm hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh mang tính chất
điển hình và được biết đến với nhiều dạng thức khác nhau như gây nhầm lẫn về
nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ, lợi dụng thành quả đầu tư của người khác, xâm phạm
bí mật kinh doanh… Bản chất của hành vi này là việc chiếm đoạt sử dụng trái phép
lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng khác. Dạng hành vi này được coi là phổ biến, điển
hình của cạnh tranh khơng lành mạnh. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt
Nam thì nhóm các hành vi mang tính chất lợi dụng lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng
khác bao gồm hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn và hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
được quy định tại Điều 40 và 41 Luật Cạnh tranh. Cả hai hành vi này đều có một số
đặc điểm mang tính đặc trưng về phương thức thực hiện hành vi cũng như về mục
đích và phương pháp xác định hành vi. Phương thức thực hiện hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn là chúng xâm hại đến tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý... được in trên sản phẩm hàng hóa, hay dịch vụ
của đối thủ cạnh tranh. Luật Cạnh tranh không chỉ ra dấu hiệu nhận dạng các đối
tượng bị xâm phạm này, do đó để có thể nhận dạng phương thức thực hiện phải sử
dụng phối hợp các quy phạm định nghĩa trong các văn bản pháp luật hiện hành khác
có liên quan để từ đó có cách hiểu thống nhất trong q trình áp dụng. Phương thức
thực hiện hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là tiếp nhận, thu thập, sử dụng, tiết
lộ hoặc vi phạm hợp đồng bảo mật, có hành vi lừa gạt hay lợi dụng người có nghĩa
vụ bảo mật để có được thơng tin thuộc bí mật kinh doanh của đối thủ cạnh tranh mà
khi chưa có sự đồng ý của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó. Mục đích của hành vi
chỉ dẫn gây nhầm lẫn là tạo nên sự nhầm lẫn của khách hàng về hàng hóa dịch vụ
của Ngân hàng là đối thủ cạnh tranh với hàng hóa, dịch vụ của chính Ngân hàng
mình. Cịn mục đích của hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là nhằm chiếm đoạt
bí mật kinh doanh của chính đối thủ cạnh tranh tạo lợi thế cho Ngân hàng mình.
Phương pháp xác định hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là so sánh giữa các dấu hiệu để
có thể nhận biết hàng hóa, dịch vụ của Ngân hàng bị xâm hại với đặc tính để nhận
biết hàng hóa, dịch vụ của Ngân hàng đang sử dụng bị coi là đã có hành vi sử dụng
những thơng tin gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Nhóm 2: Nhóm hành vi mang tính chất cơng kích
Đây là nhóm hành vi có chung bản chất là tấn công vào đối thủ cạnh tranh, triệt
tiêu hoặc làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh. Các hành vi cụ
thể rất đa dạng, phụ thuộc vào cách thức, mục tiêu cơng kích, có thể là những thơng
tin sai trái làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh hoặc lơi kéo, mua chuộc nhân viên
của đối thủ cạnh tranh. Mặc dù dạng hành vi cơng kích nói trên cũng tác động thẳng
tới đối thủ cạnh tranh của bên vi phạm, nhưng do tính chất trực diện của hành vi,
các bên liên quan thường có khuynh hướng sử dụng các quy định trực tiếp về gây
thiệt hại về bồi thường thiệt hại của pháp luật Dân sự để giải quyết tranh chấp một
cách triệt để, thay vì áp dụng các quy định riêng của pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh. Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam nhóm hành vi này gồm:
hành vi ép buộc trong kinh doanh; hành vi gièm pha Ngân hàng khác; hành vi gây
rối hoạt động kinh doanh của Ngân hàng khác được quy định tại các Điều 42,43 và
44 của Luật Cạnh tranh. Hành vi ép buộc trong kinh doanh được quy định tại Điều
42 Luật Cạnh tranh, theo đó phương thức thực hiện hành vi là dùng áp lực để đe dọa
hoặc thực hiện cưỡng ép khách hàng, đối tác kinh doanh không giao dịch hoặc ngừng
giao dịch với chính đối thủ cạnh tranh của mình. Mục đích thực hiện hành vi là nhằm
lơi kéo khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh để họ ngừng giao
dịch hoặc không thực hiện giao dịch với Ngân hàng đó, làm giảm lượng khách hàng
cũng như đối tác làm ăn của đối thủ cạnh tranh với mình. Hành vi gièm pha Ngân
hàng khác được quy định tại Điều 43 Luật Cạnh tranh, theo đó điều luật cấm gièm
pha Ngân hàng khác với mục đích nhằm ngăn chặn hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh giữa các Ngân hàng với nhau, qua đó bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh cũng như quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Phương thức
thực hiện hành vi là tạo ra những thông tin khơng trung thực, ảnh hưởng xấu tới uy
tín đối thủ, có thể hình thành dưới các dạng hình thức như nói xấu, bơi nhọ chất
lượng hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng, hay tiềm lực tài chính của đối thủ cạnh
tranh. Hành vi này có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp không nhất thiết
Ngân hàng này phải có hành vi trực tiếp thực hiện hành vi gièm pha. Hành vi gây
rối hoạt động kinh doanh của Ngân hàng khác được quy định tại Điều 44 Luật Cạnh
tranh. Đây là hành vi nhằm vào đối thủ cạnh tranh và xâm phạm trực tiếp đến đối
thủ cạnh tranh. Phương thức thực hiện hành vi được thực hiện dưới dạng quậy phá,
gây rối hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh. Hành vi này có thể do Ngân
hàng trực tiếp thực hiện hoặc thông qua một chủ thể khác thực hiện tác động đến
hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh với Ngân hàng mình và chính hành vi
này là tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh.
Mục đích của hành vi gây rối này là nhằm cản trở, gián đoạn hoạt động kinh doanh
gây ảnh hưởng đến hoạt động cũng như hiệu quả tính cạnh tranh của đối thủ trên
thương trường nói chung và trong việc cạnh tranh với Ngân hàng của mình nói riêng.
Nhóm 3: Nhóm hành vi lơi kéo bất chính khách hàng
Bản chất của hành vi này là tạo ra một lợi thế cạnh tranh gian dối để lôi kéo
khách hàng (chủ yếu là người tiêu dùng). Đối tượng chịu tác động trực tiếp của nhóm
hành vi này là khách hàng, cịn các Ngân hàng cạnh tranh chỉ chịu ảnh hưởng gián
tiếp từ hành vi vi phạm thông qua việc mất khách hàng. Trong nhiều trường hợp,
việc lôi kéo khách hàng tham gia giao dịch bằng các biện pháp bất chính vi phạm
tới nguyên tắc căn bản của giao dịch dân sự là tự do ý chí nên cịn chịu sự điều chỉnh
của cả pháp luật dân sự, pháp luật thương mại. Theo quy định của Luật Cạnh tranh
Việt Nam, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh và bán hàng đa cấp bất chính thuộc nhóm hành vi này
và được quy định tại các Điều 45,46 và 48 Luật Cạnh tranh. Điều 45 Luật Cạnh tranh
quy định những nhóm hành vi sau đây bị coi là quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh và cấm thực hiện: “So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng
hóa, dịch vụ cùng loại của Ngân hàng khác; Bắt chước một sản phẩm quảng cáo
khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng; Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn
cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây: giá, số lượng, chất lượng, cơng
dụng, kiểu dáng, chủng loại bao bì, ngày sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi
gia công; Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; Các thông
tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác và các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật
có quy định cấm”. Như vậy, có thể hiểu hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi quảng cáo trái pháp luật, trái với hiện thực, thực chất của hàng
hóa, dịch vụ được thực hiện bằng cách quảng cáo theo kiểu so sánh hàng hóa, dịch
vụ, bắt chước sản phẩm quảng cáo khác, đưa thông tin gian dối cho khách hàng...
Đây là hành vi cạnh tranh xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh, quyền và lợi ích
hợp pháp của người tiêu dùng. Điều 46 Luật Cạnh tranh quy định 4 nhóm hành vi
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bao gồm: “Tổ chức khuyến mại mà
gian dối về giải thưởng; Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng
hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng; Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như
nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình
khuyến mại; Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng
đổi hàng hóa cùng loại do Ngân hàng khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng
để dùng hàng hóa của mình”. Các hành vi này có thể do Ngân hàng trực tiếp thực
hiện hoặc được tiến hành thông qua thương nhân kinh doanh thực hiện dịch vụ
khuyến mại của mình. Hành vi bán hàng đa cấp bất chính được quy định tại Điều 48
Luật Cạnh tranh. Bán hàng đa cấp được hiểu là hình thức bán hàng trực tiếp hàng
hóa từ nhà phân phối độc lập đến thẳng người tiêu dùng và không nhất thiết phải
thông qua các kênh bán lẻ cố định. Ngân hàng là chủ sở hữu đối với hàng hóa, nhà
phân phối nhận tiền thù lao từ Ngân hàng. Pháp luật ngăn cấm Ngân hàng thực hiện
các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển dụng người tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp: “Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số
lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp; Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng
hóa đã bán cho người tham gia để bán lại; Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng,
tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp; Cung cấp thơng tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng
lưới bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, cơng dụng của hàng hóa để dụ
dỗ người khác tham gia”. Những quy định ngăn cấm này của pháp luật chính là
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của những người tham gia mạng lưới bán hàng đa
cấp, cũng như hạn chế việc tổn hại về kinh tế cho những người tham gia mạng lưới
bán hàng đa cấp bất chính.
1.3 Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng
1.3.1 Khái niệm về hoạt động của ngân hàng
Hoạt động ngân hàng trong tiếng Anh tạm dịch là: Banking Activities.
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
- Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền
gửi khơng kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi,
kì phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo ngun tắc có hồn trả
đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
- Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hồn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho th tài chính, bao thanh tốn, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện
thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy
nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh tốn khác cho khách
hàng thơng qua tài khoản của khách hàng.
1.3.2 Khái niệm và đặc trưng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng
Theo Từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh được hiểu là cố gắng giành phần hơn,
phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích
như nhau. Theo Từ điển Cornu của Pháp thì cạnh tranh được hiểu là hành vi của
hoanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng hàng hoá, dịch vụ
nhằm làm thoả mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua
việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên3. Cạnh
tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Để tồn tại trong nền
kinh tế thị trường, các Ngân hàng phải chấp nhận cạnh tranh như là lựa chọn duy
nhất. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, nơi có sự cung ứng hàng
hố, dịch vụ của ít nhất của hai Ngân hàng (người kinh doanh) trong cùng một điều
kiện giống nhau. Trong bối cảnh đó, các Ngân hàng phải bằng mọi biện pháp khác
nhau để sử dụng tối đa các nguồn lực mà mình có để vượt lên trên đối thủ cạnh tranh
cùng loại để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế.
Trong hoạt động ngân hàng, các TCTD cũng phải cạnh tranh với nhau để tồn
tại. Hiện nay, ở nước ta có 6 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, 25 NHTM
cổ phần đô thị, 8 NHTM cổ phần nông thôn, 4 ngân hàng liên doanh, 29 chi nhánh
ngân hàng của 14 quốc gia và vũng lãnh thổ tại Việt Nam, 15 TCTD phi ngân hàng,
46 văn phòng đại diện TCTD nước ngồi. Với một số lượng đơng đảo các TCTD
hoạt động tại Việt Nam thì hoạt động cạnh tranh của các TCTD cũng sẽ ngày càng
gay gắt hơn. Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng của các TCTD là việc các TCTD
sử dụng tối đa các nguồn lực của mình để giành và vượt lên các đối thủ cạnh tranh
khẳng định vị trí của mình trong thị trường tiền tệ.
Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng của các TCTD có những đặc trưng
cơ bản sau đây:
Một là, hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra trong bối cảnh
chúng ta đang hội nhập ngày càng mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, những tác động
của tiến trình tồn cầu hố đến nền kinh tế Việt Nam ngày càng rõ rệt. Những tác
động và ảnh hưởng to lớn của tồn cầu hố đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội
cũng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm luận giải không chỉ ở những khía cạnh
chung nhất của vấn đề, mà cịn ở từng lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Trong các phiên đàm phán song phương và đa phương về việc Việt Nam gia nhập
WTO, vấn đề mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng cũng là đề tài được tranh
luận gay gắt. Luận giải vấn đề này phải chăng là chúng ta đang tiếp cận từng bước
để làm quen với việc quản lý hoạt động của các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng trong bối cảnh toàn cầu hố
Trước thực trạng đó, vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý trong lĩnh vực ngân
hàng là điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các TCTD theo những hướng nào, mức
độ kiểm sốt của nhà nước có thì ở mức độ nào để bảo vệ trật tự công cộng. Các
cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề thị trường tài chính và ngân hàng
là mở rộng tối đa, nhưng thiết chế bảo đảm thực thi thì chúng ta mới đang trong tiến
trình hồn thiện. Điều này cũng ảnh hưởng khơng nhỏ tới hoạt động kinh doanh
ngân hàng của các TCTD.
Hai là, hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra trong điều kiện
có sự tham gia ngày càng nhiều của các NHTM nước ngoài tại Việt Nam. Ưu thế
của các NHTM nước ngoài khi cạnh tranh với các NHTM trong nước đó chính là
cơng nghệ hiện đại, vốn lớn, trình độ quản trị điều hành của họ mạnh hơn chúng ta
rất nhiều. Nhiều dịch vụ ngân hàng mà các NHTM nước ngoài cung cấp như Internet
Bank, Mobile Bank, Home Bank... Với đội ngũ nhân viên dày dạn kinh nghiệm, am
hiểu thị trường thì trong một tương lai khơng xa, các NHTM nước ngoài sẽ chiếm
thị phần ngày càng lớn trên thị trường. Các chi nhánh NHTM nước ngoài hiện nay
đang dần tìm cách mở rộng địa bàn hoạt động của mình về các tỉnh lân cận các thành
phố lớn, tức là họ đang dần mở rộng thị phần của mình khơng chỉ trong phạm vi các
thành phố lớn.
Hiện nay, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đang gặp phải trở
ngại lớn trong huy động vốn do tâm lý của người dân Việt Nam là không mấy tin
tưởng các NHTM nước ngoài. Họ sợ mất tiền khi gửi tại các NHTM này, bởi trong
quan niệm của họ, nếu các NHTM nhà nước phá sản thì họ sẽ được nhà nước bồi
thường lại khoản tiền gửi cho họ. Tuy nhiên, với những tiện ích mà họ cung cấp,
chắc chắn rằng những trở ngại trên sẽ dần được xoá bỏ. Một cuộc điều tra của tổ
chức phát triển Liên Hợp quốc nửa cuối năm 2018 tổng kết: 45% khách hàng được
hỏi, kể cả Ngân hàng và cá nhân đều trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước
ngoài chứ không vay vốn của các ngân hàng trong nước. 50% số người được hỏi sẽ
lựa chọn dịch vụ ngân hàng nước ngồi thay thế. 50% cịn lại lựa chọn ngân hàng
nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ.
Như vậy, tự do hoá sẽ tác động mạnh đến các ngân hàng Việt Nam vì họ sẽ mất
đi một nửa hoạt động kinh doanh của mình. Ngồi ra, hơn một nửa khách hàng lựa
chọn gửi tiền vào ngân hàng nước ngoài nên các ngân hàng trong nước sẽ huy động
được ít hơn và như vậy các ngân hàng Việt Nam sẽ phải đi vay trên thị trường tiền
tệ với chi phí đắt hơn để có thể đáp ứng cho nhu cầu vay của mình. Nghiên cứu này
cũng chỉ ra các Ngân hàng lớn lại là những người ít có khả năng nhất chuyển sang
vay vốn ngân hàng nước ngoài khi tự do hố vì mất nhiều chi phí giao dịch, nhưng
họ sẽ chuyển sang sử dụng các dịch vụ ngân hàng nước ngồi vì thủ tục đơn giản
hơn, chất lượng dịch vụ cũng như tính chuyên nghiệp hơn hẳn so với các ngân hàng
trong nước.
Cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của ngân hàng nước ngồi cũng đã
được cải thiện. Ngày 28/02/2016, Chính phủ ban hành Nghị định 22/2016/NĐ-CP
về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngồi, văn phịng đại diện TCTD nước ngoài tại Việt
Nam (gọi chung là Nghị định 22/2016/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định 13/1999/NĐCP ngày 17/03/1999 về tổ chức và hoạt động của TCTD nước ngoài, văn phịng đại
diện của TCTD nước ngồi tại Việt Nam và Nghị định 189/HĐBT ngày 15/06/1991
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành quy chế chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam. Các quy định của Nghị
định 26/2016/NĐ-CP đã quy định theo hướng khuyến khích hoạt động đầu tư của
nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực ngân hàng, phù hợp với các cam kết quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia; trình tự thủ tục thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngồi, văn phịng đại diện TCTD
nước ngồi tại Việt Nam quy định thơng thống hơn rất nhiều so với các quy định
trước đây… Với quy định pháp lý thông thống như vậy, trong một tương lai khơng
xa, số lượng các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng sẽ ngày
càng gia tăng, và như vậy tính cạnh tranh trên thị trường cung ứng các dịch vụ ngân
hàng sẽ ngày càng gay gắt hơn.
Ba là, hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra trong sự lớn mạnh
của các NHTM cổ phần trong nước và tiến trình cơ cấu lại hệ thống NHTM nhà
nước hiện nay càng làm cho hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng thêm
phức tạp. Đề án cơ cấu lại hệ thống NHTM nhà nước đang được triển khai và đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ. Hệ thống các văn bản pháp luật về cổ phần hoá
NHTM nhà nước đã được ban hành tương đối đầy đủ như Nghị định 187/20144/NĐCP ngày 16/11/20144 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần,
Thông tư 126/20144/TT-BTC ngày24/12/20144 hướng dẫn thực hiện Nghị định
187/20144/NĐ-CP, Chỉ thị 04/2015/CT-TTg ngày 17/03/2015của Thủ tướng Chính
phủ về đẩy nhanh tiến độ cổ phần hố các cơng ty nhà nước cũng đã có những quy
định cụ thể đối với các NHTM nhà nước. Các NHTM trong nước cũng đã và đang
có những thay đổi mang tính cơ bản để bảo đảm cho vị thế của mình trong việc cung
ứng vốn cho nền kinh tế, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên
thường trường, đặc biệt là đơn giản hoá thủ tục giúp cho khách hàng tiếp cận nhanh
với các thủ tục vay vốn của các NHTM cũng như các dịch vụ mà các NHTM cung
cấp, như Quyết định 127/2015/QĐ-NHNN ngày 03/02/2015của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc sửa đổi Quyết định 1627/2011/QĐ-NHNN ngày
31/12/2011về việc ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng, Quyết
định 1498/20015/QĐ-NHNN ngày 13/10/2015của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
ban hành quy chế giao dịch một cửa áp dụng đối với các TCTD… Các NHTM cổ
phần cũng đã và đang cải tiến phương thức hoạt động của mình, các dịch vụ họ
cung cấp ngày càng đa dạng, chạy nhanh hơn so với các NHTM nhà nước.
Nhìn một cách tổng thể, các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh ngân hàng
tăng về số lượng và chất lượng ngày càng được cải thiện rất nhiều. Nếu như trước
đây, chủ thể này chỉ là các NHTM nhà nước (các NHTM nhà nước chiếm khoảng
80% thị phần), thì nay mối tương quan đó đã có sự thay đổi rất rõ ràng, các NHTM
cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng liên
doanh đang ngày càng vươn lên cạnh tranh mạnh mẽ so với các NHTM nhà nước,
điều này buộc Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về ngân
hàng và là Ngân hàng Trung ương của nước ta cần có những thay đổi trong quản lý,
điều hành, bảo đảm cho các NHTM trong nước cũng như nước ngoài hoạt động cạnh
tranh được với nhau một cách an toàn.
Bốn là, hoạt động cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng khơng phải là cuộc
chiến một mất một cịn, mà trong quá trình hoạt động cạnh tranh, các ngân hàng
thương mại cịn có mối liên hệ mật thiết với nhau trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Sự liên kết này là tất yếu, bởi lẽ khơng một TCTD nào có thể hoạt động bình
thường trong thị trường nếu khơng có sự liên kết bình đẳng, thân thiện và minh bạch
với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong hoạt động kinh doanh, các NHTM cịn thường
xun chia sẻ thơng tin, kinh nghiệm kinh doanh, kinh nghiệm quản trị đIều hành,
tìm hiểu khách hàng, hoặc có hoạt động tương hỗ khác khi một trong các đối thủ
cạnh tranh gặp khó khăn trên thị trường liên ngân hàng. Nếu trong hoạt động, có
một NHTM nào gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng phá sản thì ngay lập tức nó ảnh
hưởng đến các đối thủ cạnh tranh khác. Không những thế, sự lớn mạnh của đối thủ
cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng không đồng nghĩa với nhất thiết triệt hạ các
đối thủ cạnh tranh còn lại mà ngược lại, sự lớn mạnh của đối thủ cạnh tranh lại tạo
điều kiện cho đối tác phát triển.
Năm là, hoạt động cạnh tranh của các TCTD trong hoạt động ngân hàng chịu
sự quản lý rất chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng, đó chính là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chúng ta đều biết, Ngân hàng
Trung ương được xác định là một chủ thể công cộng và điều hành lưu thông tiền tệ
với nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là ổn định giá cả, cịn về lâu dài, là góp phần bảo
đảm cho nền kinh tế tăng trưởng thực tế với lạm phát thấp nhất một cách ổn định
bền vững. Và để thực hiện mục tiêu này, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn có quyền
xác lập các biện pháp tác động đến thị trường tiền tệ bằng các cơng cụ của chính
sách tiền tệ4 thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, công cụ tái cấp vốn, lãi suất,
tỷ giá hối đối, cơng cụ dự trữ bắt buộc, kiểm soát hoạt động của các TCTD trong
những trường hợp đặc biệt như tình trạng kiểm sốt đặc biệt, tình trạng phá sản…
Và như vậy, khi Ngân hàng Nhà nước có bất cứ động thái nào tác động đến thị
trường tiền tệ thì ngay lập tức nó ảnh hưởng đến hoạt động cạnh tranh của các TCTD
trên thị trường tiền tệ.