Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2010 – 2014

ĐỀ TÀI:
PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG







Cần Thơ, tháng 12/2014
Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Mai Hân
Bộ môn Luật Thương Mại

Sinh viên thực hiện:


Huỳnh Thị Thảo Nguyên
MSSV: 3083427
Lớp: Luật Thương Mại- LK0864A1
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập tại trường Đại học Cần thơ là một chặng đường rất ý
nghĩa đối với em, được tiếp thu kiến thức từ thầy cô và trau dồi kỹ năng sống để làm
hành trang bước vào đời. Và giờ đây, luận văn tốt nghiệp là nấc thang cuối cùng đánh
dấu quá trình trưởng thành của một sinh viên dưới mái trường Đại học. Trong quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp, người viết nhận được rất nhiều sự quan tâm, hướng dẫn,
động viên từ phía gia đình, từ quý thầy cô và bạn bè để có thể hoàn thành luận văn được
đúng tiến độ. Lời đầu tiên người viết bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô Khoa Luật –
Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình truyền đạt những nền tảng kiến thức quý báu góp
phần để người viết hoàn thành luận văn này. Và hơn hết, người viết xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến Cô Nguyễn Mai Hân, giảng viên trực tiếp hướng dẫn luận văn. Cô
đã tận tình hướng dẫn, dạy bảo và giúp người viết giải quyết được các vấn đề phát sinh
trong lúc viết bài để hoàn thành được luận văn đúng kế hoạch đặt ra. Bên cạnh đó người
viết cũng xin cảm ơn các tác giả của những bài viết, giáo trình, sách, báo, tạp chí chuyên
ngành mà người viết đã sử dụng làm tài liệu trong quá trình nghiên cứu.
Với điều kiện thời gian cho phép, khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm thực tế
còn hạn chế, mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo tận tình của quý thầy cô và độc giả quan tâm
đến đề tài này để người viết có thể hoàn thiện luận văn tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày 20 tháng 11 năm 2014
Người viết


Huỳnh Thị Thảo Nguyên
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
































NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
































MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM 3
1.1 Khái quát chung về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam 3
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh 3
1.1.2 Phân loại cạnh tranh 4
1.1.3 Đặc điểm của cạnh tranh 6
1.1.4 Ý nghĩa của cạnh tranh 8
1.1.5 Sự ra đời của pháp luật cạnh tranh 9
1.2 Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh 11
1.2.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh 11
1.2.2 Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh 13
1.2.3 Mục đích và hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh 16
1.2.4 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh 2004 18
1.3 Khái quát về hoạt động ngân hàng 19
1.3.1 Khái niệm hoạt động ngân hàng 20
1.3.2 Đặc điểm hoạt động ngân hàng 23
1.3.3 Vai trò của hoạt động ngân hàng 24
1.4 Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng 24
1.4.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng . 25
1.4.2 Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng 25
1.4.3 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng 26
1.4.4 Bản chất pháp lí của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng 28
1.4.5 Ý nghĩa của việc ra đời pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng 29
CHƯƠNG 2. ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÀNH VI CẠNH

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 30
2.1 Nguyên tắc xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng 30
2.2 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng 31
2.2.1 Hành vi mang tính chất chỉ dẫn gây nhầm lẫn 31
2.2.2 Xâm phạm bí mật kinh doanh của ngân hàng khác 34
2.2.3 Ép buộc trong kinh doanh của ngân hàng 36
2.2.4 Gièm pha ngân hàng khác 38
2.2.5 Gây rối hoạt động kinh doanh của ngân hàng khác 39
2.2.6 Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 40
2.2.7 Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 42
2.3 Thủ tục và thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm 44
2.4 Hậu quả pháp lí đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động
ngân hàng 46
2.4.1 Trách nhiệm hành chính 46
2.4.2 Trách nhiệm dân sự 48
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG 50
3.1 Thực trạng về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng hiện
nay 50
3.1.1 Tình hình cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng hiện nay 50
3.1.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật cạnh tranh đối với cạnh tranh không lành mạnh
hiện nay 52
3.1.2 Mặt tích cực của pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng 54
3.1.2 Mặt hạn chế của pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng 55
3.2.1 Hoàn thiện cơ chế pháp lý đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng một cách có hệ thống và đồng bộ 58

3.2.2 Nâng cao năng lực của các tổ chức, cá nhân có chức năng trong việc quản lý
hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng 61
3.3.3 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh nhằm nâng cao ý thức pháp luật của các tổ chức tín dụng và người tiêu
dùng 63
KẾT LUẬN 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 1 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể mang lại những hậu quả xấu đối với nền kinh tế,
nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Cạnh tranh làm thay đổi cấu trúc xã hội, làm
phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh dùng các thủ đoạn vi phạm
pháp luật hay bất chấp pháp luật Do vậy, hoạt động cạnh tranh của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can
thiệp của nhà nước và tư duy cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi là xu hướng
tất yếu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang nhiều rủi ro, những hậu quả từ hành vi
cạnh tranh không lành mạnh phát sinh từ hoạt động ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến
luồng chu chuyển vốn trong nền kinh tế mà nó còn làm ảnh hưởng đến an toàn hệ thống
ngân hàng. Trong khi đó việc thực thi các cam kết quốc tế đã và đang tác động đến các
tổ chức tín dụng có hoạt động ngân hàng. Theo đó, hoạt động của các tổ chức này sẽ
mang tính cạnh tranh khốc liệt hơn. Trong cuộc cạnh tranh đó, những hành vi cạnh tranh

không lành mạnh đang và sẽ xảy ra không những ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng,
lợi ích Nhà nước mà còn gây ảnh hưởng đến hệ thống tiền tệ của quốc gia. Nhằm từng
bước tạo lập môi trường cạnh tranh an toàn, lành mạnh, Nhà nước nghiêm cấm hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia thị trường; năm 2004 Quốc hội
khóa XI thông qua Luật cạnh tranh số 27/2004/QH11 nhằm nghiêm cấm, xử lý các hành
vi cạnh tranh bất hợp pháp, bảo vệ các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh
điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên tất cả các lĩnh vực chứ không dành
riêng cho lĩnh vực ngân hàng. Do đó, việc phát hiện, xử lý một cách chính xác hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể tham gia thị trường cần phải được dựa trên
hành lang pháp lý cụ thể, thống nhất. Với những lí do trên, người viết chọn đề tài “Pháp
luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng” làm đề tài nghiên cứu
luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này người viết mong muốn tìm hiểu sâu hơn những quy định
của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó
người viết cũng sẽ nghiên cứu những điểm bất cập, chưa hoàn thiện của pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng trong thực tiễn. Từ đó đề xuất
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 2 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
những kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lí về cạnh tranh không lành mạnh trong
hoạt động ngân hàng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài “Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng” người viết tập trung phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật cạnh tranh hiện hành về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường
hay xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng ở nước ta hiện nay. Ngoài hai luật chủ yếu điều
chỉnh vấn đề cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng hiện nay như Luật
cạnh tranh số 27/2004/QH11 có hiệu lực ngày 01/07/2005 cùng các văn bản hướng dẫn

thi hành cụ thể là Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 quy định chi tiết Luật
cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh và Luật các tổ chức tín
dụng số 47/2010/QH12 có hiệu lực ngày 01/01/2011, người viết còn tìm hiểu thêm các
văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số
46/2010/QH12, Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11, … các văn bản hướng dẫn thi
hành và một số bài viết của các chuyên gia về pháp luật cạnh tranh nhằm nghiên cứu đề
tài được hiệu quả hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Người viết sử dụng một số phương pháp trong quá trình nghiên cứu như: phương
pháp phân tích luật viết; phương pháp tổng hợp nhằm nhìn nhận vấn đề toàn diện;
phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các quy định pháp luật có liên quan với nhau, giữa
lý luận và thực tiễn trong quá trình áp dụng pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu
thành ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong hoạt động ngân hàng
Chương 3: Thực trạng và một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.


Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 3 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

1.1 Khái quát chung về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, số lượng các doanh nghiệp ngày càng nhiều, hoạt động kinh doanh, đầu
tư diễn ra càng mạnh mẽ. Theo đó, hoạt động cạnh tranh trở nên đa dạng, phức tạp và
gay gắt; xuất hiện ngày càng nhiều hoạt động, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị thế độc quyền làm tổn hại nền kinh tế, đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Tại
kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật cạnh tranh và Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7/2005
1
. Đây là một trong những
nỗ lực quan trọng nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích và
bảo vệ cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử dựa trên nền tảng của nguyên tắc
chung là tự do kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật.
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về cạnh tranh, vì vậy mà
có khá nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về khái niệm này.
Theo cách hiểu thông thường, cạnh tranh với nhau là các hoạt động đối nghịch
giữa các bên có thể là cá nhân, tổ chức, quốc gia để có một lợi ích mà không phải tất cả
mọi người đều có
2
. Hay, cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế như:
nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân… nhằm giành lấy
những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình. Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy
thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn
mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự

bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá
cả có thể giảm đi.
3


1
Vụ công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của luật cạnh tranh, nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, trang 5.
2
ThS. Nguyễn Văn Cương, Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số nước và một số bình luận về
luật cạnh tranh của Việt Nam, nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, trang 27.
3
TS. Dương Ngọc Dũng, Chiến lược cạnh tranh theo lý thuyết Michael E. Porter, nxb. Tổng hợp TPHCM, 2009,
trang 173.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 4 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
Theo từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng về
mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau. Bên
cạnh đó cạnh tranh còn được hiểu là “Chạy đua trong kinh tế, hành vi của các doanh
nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau, cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nhằm làm
thỏa mãn nhu cầu giống nhau với sự may rủi của mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo
được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường xuyên”
4
. Như vậy, cạnh tranh có
thể được hiểu là quá trình mà các chủ thể tìm mọi biện pháp để vượt lên so với các đối
thủ về một lĩnh vực nhất định.
Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là một trận chiến giữa các doanh nghiệp và các
ngành kinh doanh nhằm chiếm được sự chấp nhận và lòng trung thành của khách hàng.
Hệ thống doanh nghiệp tự do đảm bảo cho các ngành có thể tự mình đưa ra các quyết

định về mặt hàng cần sản xuất, phương thức sản xuất, và tự định giá cho sản phẩm hay
dịch vụ.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có
thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng
hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh
của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng
một ngành…
Tóm lại, cạnh tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải chấp nhận
cạnh tranh như là một sự lựa chọn duy nhất. Vì vậy, bên cạnh những hành vi cạnh tranh
lành mạnh, với những chiến lược cạnh tranh năng động, tích cực và có khả năng đem lại
những lợi ích to lớn cho chủ thể cạnh tranh thì ngược lại, trên thị trường cũng xuất hiện
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm làm giảm khả năng cạnh tranh hoặc
loại bỏ đối thủ cạnh tranh, làm tổn hại đến nền kinh tế và lợi ích chính đáng của người
tiêu dùng.
1.1.2 Phân loại cạnh tranh
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả như giảm giá hoặc cạnh tranh
phi giá cả như khuyến mại, quảng cáo. Cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành,
một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện về thị trường tự do và công bằng có
thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường,
đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập thực tế. Dựa vào các tiêu chí khác
nhau, cạnh tranh được phân ra thành nhiều loại.
 Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia thành ba loại

4
Vụ công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của luật cạnh tranh, nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, trang 55.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 5 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên

Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của
mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mức với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng
được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay
gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá cao để mua
được hàng hoá mà họ cần.
Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành
giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua.
Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép sẽ
phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
 Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế cạnh tranh được phân thành hai loại
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc
cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có sự
phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
 Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành ba loại
Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều
người bán trên thị trường trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên
thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không
khác nhau về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các
doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản
phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh tranh
giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm đều
mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành được ưu thế trong cạnh tranh,
người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp

dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Là trên thị trường chỉ có
một hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm
hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung
cầu.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 6 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
 Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh thành.
Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực
xã hội và được xã hội thừa nhận, nó thường diễn ra sòng phẳng, công bằng và công khai.
Cạnh tranh không lành mạnh: Cạnh tranh không lành mạnh là tất cả những
hành động trong hoạt động kinh tế dựa vào kẽ hở của luật pháp, trái với đạo đức nhằm
làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội
lên án.
1.1.3 Đặc điểm của cạnh tranh
Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu ở những góc độ khác nhau như trên,
song theo các lý thuyết về kinh tế, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị
trường, là động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được mô tả bởi
ba đặc trưng căn bản sau đây:
Thứ nhất, cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong môi trường mà tự do kinh doanh
được thừa nhận như là những quyền cơ bản của công dân. Cạnh tranh có thể diễn ra
trong một khoảng thời gian không cố định hoặc ngắn hoặc dài hoặc rộng hoặc hẹp; tuy
nhiên cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do hành xử trên thị
trường. Tự do khế ước, tự do lập hội và tự chịu trách nhiệm sẽ đảm bảo cho các doanh
nghiệp có thể chủ động tiến hành các cuộc tranh giành để tìm cơ hội phát triển trên
thương trường. Mọi kế hoạch để sắp đặt các hành vi ứng xử, cho dù được thực hiện với
mục đích gì đi nữa, đều hạn chế khả năng sáng tạo trong kinh doanh. Khi đó, sự độc lập
và tự chủ của các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm khả năng sinh tồn và phát triển

trên thương trường không được đảm bảo.
Thứ hai, có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và
các hình thức sở hữu khác nhau. Kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh là hoạt động của các
chủ thể kinh doanh nhằm tranh giành hoặc mở rộng thị trường, đòi hỏi phải có sự tồn tại
của nhiều doanh nghiệp trên thị trường. Một khi trong một thị trường nhất định nào đó
chỉ có một doanh nghiệp tồn tại thì chắc chắn nơi đó sẽ không có đất cho cạnh tranh nảy
sinh và phát triển. Mặt khác, khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp, song chúng chỉ
thuộc về một thành phần kinh tế duy nhất thì sự cạnh tranh chẳng còn ý nghĩa gì. Cạnh
tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn nếu
các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau với những lợi ích và tính
toán khác nhau
5
.

5
PGS. Nguyễn Như Phát, TS. Trần Đình Hảo, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam,
nxb Công an nhân dân, 2001, trang 71.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 7 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là vì lợi nhuận. Với
sự giục giã của lợi nhuận, nhà kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua để
có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trường. Với sự giúp đỡ của
người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao cho họ lợi ích mà họ
mong muốn. Dấu hiệu mục đích vì lợi nhuận và vì thị trường phản ánh bản chất kinh tế
của hiện tượng cạnh tranh. Từ đó có thể phân biệt cạnh tranh với các hiện tượng xã hội
khác có cùng biểu hiện của sự ganh đua như: thi đấu thể thao hay các cuộc thi đua để
tranh dành danh hiệu khác trong đời sống kinh tế – xã hội. Các bên trong cuộc thi đua
hay thi đấu tranh dành những phần thưởng, danh hiệu, người thắng cuộc được phần

thưởng và những người thua cuộc ra về tay không. Cạnh tranh đem về thị trường, khách
hàng và các yếu tố kinh tế của thị trường như vốn, nguyên vật liệu, lao động… của
doanh nghiệp yếu thế và kinh doanh kém hiệu quả hơn để trao cho những doanh nghiệp
thắng cuộc. Như thế, sẽ có kẻ mất và người được trong cuộc cạnh tranh. Người được sẽ
tiếp tục kinh doanh với những gì đã đạt được, còn doanh nghiệp thua cuộc phải thu hẹp
hoạt động kinh doanh, thậm chí phải rời bỏ thị trường. Có thể nói, với đặc trưng này,
cạnh tranh được mô tả như quy luật đào thải rất tự nhiên diễn ra trên thương trường.
Thứ tư, chỉ có thể nói tới cạnh tranh khi nào xác định được các doanh nghiệp
cùng trên một thị trường liên quan. Khi doanh nghiệp có chung khách hàng hoặc đối tác
để tranh giành, có chung một nguồn lợi ích để hướng đến mới có cơ sở để nảy sinh sự
ganh đua giữa họ với nhau. Trên thị trường, cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp
có chung lợi ích tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào hay gọi là cạnh tranh mua;
hoặc về thị trường đầu ra của sản phẩm là cạnh tranh bán của quá trình sản xuất. Việc có
cùng chung lợi ích để tranh giành làm cho các doanh nghiệp trở thành đối thủ của nhau.
Lý thuyết cạnh tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp theo
hướng xác định sự tồn tại của thị trường liên quan đối với các doanh nghiệp. Việc họ có
cùng một thị trường liên quan làm cho họ có cùng mục đích và trở thành đối thủ cạnh
tranh của nhau. Theo kinh nghiệm pháp lý của các nước và theo Luật Cạnh tranh Việt
Nam, thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm và thị trường địa lý. Việc xác
định thị trường liên quan suy cho cùng là xác định khả năng thay thế cho nhau giữa sản
phẩm của các doanh nghiệp trên một khu vực không gian nhất định. Trong đó, khả năng
thay thế của các sản phẩm thường được mô tả bằng tính năng sử dụng, tính chất lý hoá
và giá cả tương tự nhau. Mọi sự khác biệt của một trong ba dấu hiệu về tính năng sử
dụng, tính chất lý hóa và giá cả sẽ làm phân hoá nhóm khách hàng tiêu thụ và làm cho
các sản phẩm không thể thay thế cho nhau. Ví dụ, rượu Henessy ngoại nhập và rượu đế
gò đen cho dù cùng được tiêu thụ trên thị trường Việt Nam, cùng có mục đích sử dụng
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 8 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên

giống nhau nhưng không thể cùng thị trường liên quan do giá cả của chúng khác nhau
quá xa.
Nói tóm lại, cạnh tranh kinh tế là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá vì
nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách
biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến
sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu,
nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát
triển nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội
cần thiết để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì
còn có cạnh tranh. Cạnh tranh cũng là một nhu cầu tất yếu của hoạt động kinh tế trong
cơ chế thị trường, nhằm mục đích chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm
hàng hoá để đạt được lợi nhuận cao nhất.
1.1.4 Ý nghĩa của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng, và trong
lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào
sự phát triển kinh tế:
- Sự cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, nắm bắt tốt hơn
nhu cầu của người tiêu dùng, tích cực nâng cao tay nghề, thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
áp dụng những tiến bộ, các nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn
thiện cách thức tổ chức trong sản xuất, trong quản lý sản xuất để nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì
thường trì trệ và kém phát triển.
- Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng. Người sản xuất
phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ
hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn để đáp ứng với thị hiếu
của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh là tiền đề của hệ thống “kinh tế tự do kinh doanh” vì càng nhiều
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ
càng có chất lượng tốt hơn
6

. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách hàng giá
trị tối ưu nhất đối với những giá trị của họ bỏ ra.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về
mặt xã hội. Nó làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, phân hóa
mạnh mẽ giàu nghèo, có những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh, dùng

6
Viện nghiên cứu lập pháp, Một số ý kiến về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
có thể truy cập tại website

Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 9 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật. Cạnh tranh có những tác động
tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức
hay vi phạm pháp luật như tung tin phá hoại, quảng cáo không trung thực,… hoặc
những hành vi cạnh tranh làm phân hóa giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái. Vì lý
do trên cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự
can thiệp của nhà nước.
Trong xã hội, mỗi con người, xét về tổng thể, vừa là người sản xuất đồng thời
cũng là người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi
người và cho cộng đồng, xã hội. Như vậy, cạnh tranh kích thích sản xuất tạo ra các sản
phẩm ngày càng hiệu quả, an toàn phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống mọi người với một
giá cả hợp lí. Tạo ra cho mọi người nhiều sự lựa chọn với nhiều loại sản phẩm khác
nhau căn cứ vào nhu cầu và khả năng của mọi người. Có cạnh tranh thì mới thúc đẩy sản
xuất, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế là biểu hiện của nền kinh tế thị
trường ngày càng phát triển năng động.
1.1.5 Sự ra đời của pháp luật cạnh tranh
Từ đầu những năm 1990, khi nhà nước thi hành hàng loạt các chính sách xóa bỏ

bao cấp, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, số lượng
các doanh nghiệp ngày càng nhiều, quy mô doanh nghiệp ngày càng lớn và tham gia hầu
hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bắt đầu
diễn ra gay gắt. Chính phủ đã rất quan tâm đến việc nghiên cứu môi trường cạnh tranh
trong nước để tìm ra các giải pháp khắc phục những khuyết tật vốn có của thị trường.
Hàng loạt những nghiên cứu về môi trường cạnh tranh ở Việt nam đã được thực hiện,
trong đó có thể kể đến các nghiên cứu của Viện nghiên cứu Khoa học thị trường – giá cả
(năm 1996), Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (năm 2000 và năm 2002),
Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (năm 2001)
7
. Trên cơ sở các nghiên cứu đó,
về cơ bản, có ba yếu tố tác động đến việc phải xây dựng Luật cạnh tranh ở nước ta, bao
gồm:
- Một là, nhu cầu điều tiết nền kinh tế thị trường bằng một hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, trong đó, Luật cạnh tranh là một trong những luật cơ bản.
- Hai là, nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt khi mở cửa thị trường để hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Ba là, yêu cầu tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng.
Trên nền tảng đó, quan điểm và tư tưởng chỉ đạo việc ban hành Luật cạnh tranh
được vạch định:

7
LG. Trần Minh Sơn, Tìm hiểu về luật cạnh tranh, nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, trang 5.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 10 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc và thể chế hóa đầy đủ các đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng trong việc phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ “Cơ

chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp,
văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng
phí nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Nghị quyết lần thứ IX tiếp tục làm rõ hơn: “Phát huy
vai trò nòng cốt định hướng và điều tiết của kinh tế nhà nước trên thị trường… xác định
thời hạn bảo hộ hợp lí và có hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng, tích cực
chuẩn bị để mở rộng hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh”.
Thứ hai, kiểm soát độc quyền một cách hiệu quả. Trong nền kinh tế, việc một
doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường sẽ dẫn tới hạn chế cạnh
tranh và nếu để tồn tại doanh nghiệp có vị trí độc quyền thì chắc chắn sẽ dẫn đến thủ
tiêu cạnh tranh. Hơn nữa, với sự phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam, việc ngăn ngừa, xử lý các hành vi lợi dụng độc quyền là rất cần thiết. Vì vậy, Luật
cạnh tranh có tác dụng kiểm soát độc quyền, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp tham gia vào thị trường cạnh tranh lành mạnh.
Thứ ba, đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện
hành về cạnh tranh. Hiện tại, các quy định về cạnh tranh nằm rải rác trong một số văn
bản luật như: Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật các tổ chức tín
dụng, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật thương mại, Luật kinh doanh bảo
hiểm, Pháp lệnh giá, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam…Do đó, việc soạn thảo Luật cạnh tranh phải đảm bảo các quy định không mâu
thuẫn, không chồng chéo với các quy định hiện có trong các văn bản pháp luật hiện
hành.
Trên cơ sở các nguyên tắc chỉ đạo ban hành đó, thực hiện nghị quyết của Quốc
hội ngày 12/04/2000, Bộ Thương Mại đã ra quyết định thành lập ban soạn thảo Luật
cạnh tranh. Qua nghiên cứu các đề tài khoa học xung quanh vấn đề này, tham khảo Luật
cạnh tranh của chín nước và vùng lãnh thổ, Luật mẫu về cạnh tranh của một số Tổ chức
quốc tế học hỏi kinh nghiệm của các nước, ban soạn thảo đã hoàn thành chín dự thảo.
Ngày 6/1/2004 Bộ thương mại đã trình Chính phủ dự thảo chín phiên bản Luật cạnh
tranh. Ngày 5/2/2004 Chính phủ đã họp thảo luận và cho ý kiến về dự thảo này. Nội
dung kết cấu của dự thảo Luật cạnh tranh này gồm 9 chương với 93 điều. Bên cạnh đó,

với nhiều ý kiến và góp ý đối với dự thảo Luật cạnh tranh như: tên gọi, phạm vi điều
chỉnh, vấn đề độc quyền…Và cuối cùng “Luật cạnh tranh được Quốc hội khóa XI kỳ
họp thứ 6 thông qua vào ngày 3 tháng 12 năm 2004, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 11 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
2005. Luật cạnh tranh bao gồm 6 chương, 123 điều quy định về hành vi hạn chế cạnh
tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh
tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh”
8
. Việc Luật cạnh tranh được
thông qua và có hiệu lực đã góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lí trong lĩnh vực pháp
luật về kinh tế nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung; đáp ứng yêu cầu của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
1.2 Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Quy định pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một trong những
nội dung quan trọng của Luật cạnh tranh Việt Nam. Pháp luật cạnh tranh của các quốc
gia trên thế giới có nhiều cách giải quyết khác nhau về vấn đề này. Một số quốc gia điều
chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong những văn bản quy phạm pháp luật
riêng biệt như: Nhật Bản, Thụy Sĩ, Đức, Trung Quốc… Một số quốc gia khác lại xây
dựng thành một chế định trong Luật cạnh tranh như: Hàn Quốc, Bungari, Cộng đồng các
quốc gia độc lập (SNG)… Ngoài ra còn có các quốc gia lại xem cạnh tranh không lành
mạnh là một lĩnh vực đặc biệt của luật dân sự như: Pháp, Italia…Tuy nhiên, dù điều
chỉnh của pháp luật ở hình thức nào thì mục đích của các quốc gia đều là nhằm bảo vệ
môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng.
1.2.1 Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Ở các quốc gia khác nhau có những khái niệm không giống nhau về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Tại điều 10 bis Công ước Paris về bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp năm 1883 quy định “Bất cứ hành vi nào trái với tập quán trung thực trong công

nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”.
Căn cứ vào khái niệm cạnh tranh không lành mạnh của công ước Paris, Luật cạnh
tranh của cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) cũng đưa ra định nghĩa về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh như sau “Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh
nghiệp với mục đích thu lợi bất chính trong khi tiến hành hoạt động sản xuất, kinh
doanh, vi phạm tập quán kinh doanh, quy phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh,
gây ra thiệt hại cho các doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh hoặc gây ảnh hưởng
uy tín kinh doanh của họ”
9
.
Quan điểm khác lại cho rằng “Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi
cạnh tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm
phạm đến lợi ích của chủ thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích

8
Vụ công tác lập pháp, Những nội dung cơ bản của luật cạnh tranh, nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, trang 6.
9
T.s Lê Hoàng Oanh, Bình luận khoa học Luật cạnh tranh, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, trang 35.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 12 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
chung của xã hội”
10
. Hay “Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cụ thể, đơn
phương, vì mục đích cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh luôn thể hiện tính không
lành mạnh (chứ không chỉ là bất hợp pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một
số đối thủ cạnh tranh cụ thể sự bất lợi hay gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh”
11
.

Theo Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam thì “Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người
tiêu dùng”
12
. Như vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các nước có những
cách diễn đạt không gống nhau nhưng nội dung chủ yếu đều gần giống, gồm hai nội
dung:
Thứ nhất, đây là hành vi cạnh tranh trong quá trình sản xuất, kinh doanh vi phạm
các nguyên tắc cơ bản của đạo đức kinh doanh hay những quy định của pháp luật về
cạnh tranh. Đó có thể là vi phạm những thỏa thuận trong kinh doanh, một tập quán kinh
doanh mà những nhà sản xuất kinh doanh đều hiểu và tuân theo. Hay đó là những hành
vi vi phạm những quy định rõ ràng trong pháp luật cạnh tranh để thu lợi bất chính, làm
giảm uy tính của đối thủ cạnh tranh hoặc có thể làm những đối thủ cạnh tranh bị phá
sản.
Thứ hai, đây là hành vi cạnh tranh gây thiệt hại cho nhà sản xuất chân chính,
người tiêu dùng hay gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước. Điều này có thể thấy được thông
qua những tác động trực tiếp của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra như:
làm cho đối thủ cạnh tranh rơi vào tình trạng khó khăn, sản phẩm không thể tiêu thụ
được, doanh thu giảm sút hoặc gây những thiệt hại không bằng vật chất như: làm uy tín
của doanh nghiệp bị bôi nhọa dẫn đến mất lòng tin của khách hàng vào sản phẩm, vào
hàng hóa của doanh nghiệp hoặc hành vi đó sẽ gây ra những thiệt hại đến lợi ích của nhà
nước, đến sự phát triển của nền kinh tế như độc quyền hàng hóa để nâng giá cao bất hợp
lý…
Luật cạnh tranh 2004 còn quy định rõ một số loại hành vi được coi là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh như: chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh,
ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động của doanh
nghiệp khác, quảng cáo và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, phân biệt đối
xử của hiệp hội, bán hàng đa cấp bất chính và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh


10
Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2004, tr.30,31.
11
Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2001, tr. 241.
12
Luật cạnh tranh năm 2004, số 23/2004/L-CTN, ngày 03/12/2004, Điều 3 khoản 4.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 13 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
khác thỏa mãn các tiêu chí là hành vi của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh trong
quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng do Chính phủ quy định
13
.
Trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên công nghiệp, các công ty, doanh nghiệp
thường xuyên phải cạnh tranh khốc liệt trong tình huống đối đầu để duy trì sự phát triển
và gia tăng lợi nhuận. Do đó các nhà kinh doanh cho rằng cạnh tranh thuộc phạm trù tư
bản nên quan điểm về cạnh tranh trước kia được hầu hết các nhà kinh doanh đều nhầm
tưởng "cạnh tranh" với nghĩa đơn thuần theo kiểu "thương trường là chiến trường".
Nhìn chung, cạnh tranh không lành mạnh là tất cả những hành động trong hoạt
động kinh tế trái với đạo đức gây thiệt hại cho các đối thủ kinh doanh hoặc khách hàng.
1.2.2 Đặc điểm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Từ những phân tích nêu trên, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được thể hiện qua những dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là những chủ thể kinh doanh trên thị trường.

Ở đây, khái niệm chủ thể kinh doanh được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức
hay cá nhân tham gia hoạt động thương mại, có đăng kí kinh doanh và cả không có đăng
kí kinh doanh; hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên. Trên một phạm vi
rộng hơn, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành
vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức như hiệp hội và các cá nhân hành
nghề tự do như bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư Có thể thấy là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong kinh doanh diễn ra ở mọi ngành, mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế,
mọi công đoạn của quá trình kinh doanh. Trong diễn biến của thị trường cạnh tranh, các
hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong mối
tương quan với các doanh nghiệp khác. Vì thế mỗi hoạt động của doanh nghiệp xét thấy
đều phải được xem xét, đánh giá về tính chính đáng, phù hợp với pháp luật và các chuẩn
mực đạo đức kinh doanh. Điều này dẫn đến thực tế là pháp luật về cạnh tranh tham gia
điều chỉnh rất nhiều các khía cạnh khác nhau của đời sống kinh tế. Do đó mà pháp luật
về cạnh tranh không lành mạnh ở các quốc gia có thể quy định phạm vi áp dụng rất rộng
và điều chỉnh các hành vi đa dạng. Ví dụ như Luật chống cạnh tranh không lành mạnh
của Nhật Bản quy định hành vi hối lộ cũng là một hình thức cạnh tranh không lành
mạnh.
Thứ hai, hành vi này phải nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định
được trên cùng một phân khúc thị trường. Mục đích doanh nghiệp thực hiện hành vi

13
Luật cạnh tranh năm 2004, số 23/2004/L-CTN, ngày 03/12/2004, Điều 39.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 14 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
cạnh tranh không lành mạnh suy cho cùng cũng là vì lợi nhuận, bởi vậy, khi có sự xuất
hiện của một doanh nghiệp có thực nào đó tồn tại trên cùng thị trường liên quan làm
giảm hoặc đe dọa làm giảm doanh thu của doanh nghiệp thì hành vi cạnh tranh không
lành mạnh xuất hiện.

Thứ ba, là hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc
trái với pháp luật. Tuy nhiên, “trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh” là thuật ngữ trừu tượng cả về pháp lý lẫn lý thuyết, hiện chưa có một định nghĩa
pháp lý nào quy định về chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh. Nói đến “các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh”, thực tiễn pháp luật và kinh nghiệm của các nước
cho thấy có thể xác định theo hai căn cứ sau:
 Căn cứ vào các quy định của pháp luật, một hành vi một khi đi ngược lại những
nguyên tắc luật định sẽ trở thành không lành mạnh. Trong trường hợp này, hành vi cạnh
tranh không lành mạnh đồng nghĩa với hành vi cạnh tranh bất hợp pháp. Theo đó, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh có thể là hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi
phạm điều cấm của pháp luật, bao gồm các quy định cấm của Luật Cạnh tranh và các
văn bản pháp luật khác như pháp luật thương mại, pháp luật về quản lý giá, pháp luật về
sở hữu trí tuệ… hoặc là hành vi vi phạm các tiêu chuẩn lành mạnh được pháp luật quy
định như pháp luật khuyến mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại như sau: “Mức
giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50%
giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại”
14
.
 Căn cứ vào các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi
trong đời sống thị trường. Trong đời sống thị trường, các hành vi cạnh tranh là luôn
được biến đổi không ngừng cả về hình thức và nội dung, kéo theo các hình thức cạnh
tranh không lành mạnh cũng biến hóa không ngừng. Cũng vì lẽ đó, cho đến nay pháp
luật Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới vẫn chưa đưa ra một định nghĩa cụ
thể đâu là các chuẩn mực đạo đức kinh doanh thông thường. Thêm nữa, quan niệm về
tính lành mạnh của cạnh tranh ở mỗi quốc gia, ở mỗi lĩnh vực, mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau là không như nhau nên có thể xảy ra hiện tượng xung đột về việc đánh giá
tính lành mạnh của một hành vi cạnh tranh từ các yếu tố khác nhau đó. Mức độ nhận
thức cũng như mức độ đánh giá ảnh hưởng của các hành vi luôn thay đổi và phát triển.
Vì vậy người ta thường chủ yếu dựa vào việc phân tích các hậu quả của hành vi cạnh
tranh đối với đời sống kinh tế xã hội để xác định tính lành mạnh và mức độ biểu hiện

của chúng.

14
Nghị định số 37/2006/NĐ-CP, ngày 04/04/2006 về hoạt động xúc tiến thương mại, Điều 6.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 15 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
Thứ tư, có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, Nhà nước
hoặc các lợi ích xã hội khác. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng xâm hại
cụ thể là lợi ích của Nhà nước, của các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh
đó, thiệt hại mà hành vi gây ra có thể là hiện thực nhưng cũng có thể chỉ là tiềm năng
tức là có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn
hành vi. Do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có cấu thành vật chất (thiệt
hại là dấu hiệu bắt buộc) như gièm pha doanh nghiệp khác; một số hành vi có cấu thành
hình thức (thiệt hại không là dấu hiệu bắt buộc mà có thể chỉ là sự suy đoán nếu hành vi
tiếp tục được thực hiện), ví dụ hành vi quảng cáo không trung thực….
Thứ năm, đặc điểm về hậu quả của hành vi giúp cho chúng ta phân biệt dưới góc
độ lý thuyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi
hạn chế cạnh tranh là những xử sự của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp làm thay
đổi một cách tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh đối
với thị trường. Hành vi hạn chế cạnh tranh có thể gây thiệt hại cho một, một số đối
tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm cản trở, làm suy giảm hoặc sai lệch cạnh
tranh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho các tổ chức,
cá nhân kinh doanh khác hoặc cho người tiêu dùng, xâm hại đến trật tự quản lý cạnh
tranh của nhà nước mà không cản trở, sai lệch hay làm giảm tình trạng cạnh tranh của
thị trường. Vì vậy, cách thức và mức độ xử lý đối với hai loại hành vi này khác
nhau. Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con người về tính
nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Ở

thời kỳ đầu tiên, pháp luật cạnh tranh chỉ nhằm chống lại các biểu hiện không lành mạnh
xâm phạm lợi ích của đối thủ cạnh tranh theo quan niệm cạnh tranh phải là sự đối đầu
giữa các đối thủ trên thị trường, vì vậy những hành vi xâm hại lợi ích người tiêu dùng
không nằm trong khái niệm cạnh tranh không lành mạnh. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, những hành vi không lành mạnh được thực hiện với khách hàng
(người tiêu dùng) tưởng chừng như không liên quan đến các đối thủ cạnh tranh nhưng
thực tế cũng làm tổn hại và thậm chí phá vỡ trật tự và hệ thống cạnh tranh hiện hành. Do
đó, quan niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã làm cho pháp luật chống cạnh
tranh không lành mạnh mở rộng phạm vi sang cả những hành vi xâm hại lợi ích của
khách hàng, của người tiêu dùng.
Hơn hai mươi năm phát triển thị trường của Việt Nam cho thấy cạnh tranh không
lành mạnh đang diễn ra trong tất cả các ngành kinh tế. Ngoài khu vực độc quyền của các
doanh nghiệp Nhà nước, ở các khu vực khác của thị trường Việt nam đã có sự tồn tại
của cạnh tranh ở những mức độ nhất định. Trong bối cảnh thực hiện nền kinh tế thị
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 16 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
trường, ở đâu có cạnh tranh, ở đó có cạnh tranh không lành mạnh. Các biểu hiện cạnh
tranh không lành mạnh cũng diễn ra rất đa dạng và luôn thay đổi về hình thức thực hiện
trên các thị trường hoá mỹ phẩm, nước giải khát và trong lĩnh vực quảng cáo, khuyến
mại, mua bán… Ví dụ trong lĩnh vực quảng cáo, có thể nghi ngờ tính trung thực của
thông tin được cung cấp như: về khả năng tăng cường trí thông minh của các loại thuốc
dinh dưỡng, về tác động của các sản phẩm sữa cho trẻ em…, về sự so sánh của các
doanh nghiệp kinh doanh hóa mỹ phẩm.
1.2.3 Mục đích và hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
 Mục đích của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được các doanh nghiệp thực hiện nhằm các
mục đích sau đây:
- Tìm kiếm lợi nhuận. Đây là mục đích phải kể đến trước hết đối với các doanh

nghiệp. Hiển nhiên đã sản xuất, kinh doanh thì phải hướng đến lợi nhuận, và chính sức
hút của đồng tiền mà các doanh nghiệp sử dụng cả những thủ đoạn để cạnh tranh. Và khi
tồn tại trong nền kinh tế thì điều đó không thể tránh khỏi và càng xuất hiện rõ nét hơn.
- Chiếm lĩnh thị trường, thu hút khách hàng. Muốn thu lợi nhuận nhiều doanh
nghiệp cần phải có khách hàng mua sản phẩm của mình, muốn bán được nhiều hàng hóa
thì phải có một thị trường rộng lớn không có ai cạnh tranh. Nhưng trên thực tế, đa số thị
trường tiêu thụ một loại sản phẩm thì có nhiều hãng sản xuất giống nhau. Vì lẽ đó,
người tiêu dùng luôn có rất nhiều sự lưa chọn và để giảm bớt sự lựa chọn để chiếm lĩnh
thị trường thì ngoài những biện pháp cạnh tranh hợp pháp, doanh nghiệp phải sử dụng
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh để giữ vững và lấy thêm thị trường về phần
mình.
- Loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Cũng xuất phát từ nhu cầu lợi
nhuận mà nhiều lúc sản phẩm của doanh nghiệp đã là độc quyền, không ai cạnh tranh thì
bên ngoài các doanh nghiệp kinh doanh trong không gian bình đẳng nhưng tồn tại trong
họ những kế hoạch lật đổ đối thủ với nhiều hình thức khác nhau và cả là những hành vi
cạnh tranh không đẹp, không lành mạnh.
- Cuối cùng, một mục đích có lẽ không phổ biến nhưng nó vẫn có thể xảy ra đối
với nền kinh tế cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp nhỏ vì không đủ
tiềm lực về tài chính mà không đủ sức cạnh tranh bình đẳng thì có thể dùng những thủ
đoạn trong cạnh tranh nhằm tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách. Đây là vấn đề mà các
doanh nghiệp lớn khá lo ngại khi hoạt động trong cơ chế thị trường mà không có quy
định chặt chẽ về cạnh tranh, ở đó hàng hóa của họ có thể bị làm giả, làm nháy tên gọi
hoặc sản phẩm…Việc này có thể làm cho các doanh nghiệp lớn bị mất uy tín làm giảm
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 17 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
doanh thu của họ. Và khi đó cần sự can thiệp của pháp luật để đưa các hành vi đó vào
một khuôn khổ cạnh tranh lành mạnh.
 Hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn tới những hậu quả mà chúng ta không thể
lường trước được, vì chúng ta không thể xác định chính xác phạm vi ảnh hưởng của nó,
mà ta chỉ có thể xác định một cách khái quát về khả năng có thể xảy ra hoặc bị ảnh
hưởng tới. Bởi vì, ngay cả những người tiến hành thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh
cũng không thể tính toán được chính xác phạm vi ảnh hưởng hoặc cũng có thể họ chẳng
quan tâm hậu quả xảy ra mà mục đích của họ là lợi nhuận càng nhiều càng tốt và tìm
mọi cách hạ gục đối thủ. Bất chấp lợi ích người tiêu dùng, hàng loạt vụ cạnh tranh nhằm
triệt hạ uy tín của đối thủ vẫn được các doanh nghiệp áp dụng.
Như ta thấy hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất lớn, chỉ cần
dùng vài thủ đoạn có thể nói là rất nhẹ nhàng như tung tin đồn là kém chất lượng về một
loại hàng hóa nào đó đang được kinh doanh trong thị trường…là đối thủ cạnh tranh hay
chính loại hàng hóa đó sẽ rất khó tồn tại tiếp tục trên thị trường. Từ đó có thể rút ra vài
khía cạnh mà hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng tới:
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến lợi ích của người
tiêu dùng. Khi một sản phẩm của một doanh nghiệp A trở nên chiếm lĩnh thị trường,
được người tiêu dùng ưa chuộng thì không bao lâu sau hàng tá cơ sở khác cũng tung ra
sản phẩm giống hệt từ kiểu dáng, màu sắc và mang chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
với nhãn hiệu đã đăng kí. Nhưng những sản phẩm cố ý gây nhầm lẫn tồn tại trên thị
trường thường luôn mang một màu sắc chung đó là có giá thành có thể rẻ hơn và không
chất lượng như sản phẩm bị gây nhầm lẫn. Do đó, người tiêu dùng bị nhầm lẫn giữa các
sản phẩm, kết quả có thể phải mua sản phẩm mang nhãn hiệu mà mình không mong
muốn mua cũng như không hài lòng về chất lượng sản phẩm.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến sự cạnh tranh công
bằng trong kinh doanh. Đã là không lành mạnh, nên các hành vi của doanh nghiệp nhằm
cạnh tranh không lành mạnh thường diễn ra dưới những hình thức khó nhận biết, không
công khai. Vì vậy, việc doanh nghiệp nhận ra một khi bị doanh nghiệp khác dùng thủ
đoạn không minh bạch thì là khi sự việc đã diễn ra. Doanh nghiệp lúc đó hoặc phải gánh
chịu tổn thất về mặt vật chất như nguyên vật liệu ứ đọng bị hư hỏng, hàng hóa tồn
kho…hoặc những tổn hại phi vật chất như uy tín của doanh nghiệp với đối tác và với
người tiêu dùng. Dù là thiệt hại loại nào đi nữa, khi môi trường cạnh tranh không đảm

bảo yếu tố lành mạnh, công bằng đều là mối nguy hại lớn đối với doanh nghiệp trong
môi trường kinh doanh, sản xuất nhất là đối với các doanh nghiệp kinh doanh chân
chính.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 18 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
Thứ ba, nhận xét theo góc độ vĩ mô, hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh
hưởng đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Thực tế hiện nay, để tồn tại được trên
thị trường, các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh rất lớn. Nếu không có sự
điều chỉnh của pháp luật để đưa các hoạt động này vào khuôn khổ thì thật không khó để
hình dung cảnh tượng các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh bằng mọi cách, bằng mọi thủ
đoạn để hạ gục đối thủ cạnh tranh nhằm chi phối và chiếm lĩnh thị trường sẽ dẫn đến
độc quyền, giá cả không kiểm soát được. Khi đó, các doanh nghiệp chân chính vì không
kinh doanh được cũng sẽ tìm cách trả đũa đối thủ bằng nhiều cách khác nhau. Hậu quả
cuối cùng là nền kinh tế mất ổn định, xã hội, cuộc sống bình thường của người dân có
thể bị đảo lộn trước sức ảnh hưởng của hoạt động cạnh tranh không lành mạnh như: giá
cả hàng hóa, các sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ đều tăng lên; các doanh nghiệp dùng nhiều
thủ đoạn để triệt hạ đối thủ, doanh nghiệp không cạnh tranh được sẽ bị phá sản, cùng với
đó là tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên, thiệt hại là không thể xác định được.
1.2.4 Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh 2004
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh,
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Nhằm ngăn chặn những biện pháp
cạnh tranh không lành mạnh đang có trên thị trường, xâm hại trật tự kinh doanh và có
khả năng gây ra những xáo trộn xã hội nhất định, Luật cạnh tranh quy định các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thành mười nhóm hành vi. Theo đó, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có thể được phân chia dưới góc độ xem xét lợi ích của các chủ thể bị
xâm hại, như sau: Hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh: xâm phạm bí mật kinh

doanh, gièm pha đối thủ cạnh tranh,… Hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng: khuyến
mại không trung thực, quảng cáo sai lệch, chỉ dẫn gây nhầm lẫn,…
Tại Điều 39 Luật cạnh tranh 2004, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được
quy định trong điều luật khá cụ thể và bao quát, có thể xem là tương đồng với các quy
định của pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
được quy định bao gồm:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- Xâm phạm bí mật kinh doanh;
- Ép buộc trong kinh doanh;
- Gièm pha doanh nghiệp khác
- Gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác;
- Quảng cáo và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng


GVHD: ThS. Nguyễn Mai Hân 19 SVTH: Huỳnh Thị Thảo Nguyên
- Phân biệt đối xử của hiệp hội;
- Bán hàng đa cấp bất chính;
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác do Chính phủ quy định thỏa mãn các
tiêu chí quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật cạnh tranh. Theo đó, các tiêu chí đó là: hành vi
của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh trong quá trình kinh doanh trái với các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người
tiêu dùng do Chính phủ quy định.
Điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nghĩa là khuyến khích các
hành vi cạnh tranh lành mạnh. Mục đích cuối cùng của doanh nghiệp cũng là lợi nhuận,
muốn tăng lợi nhuận doanh nghiệp phải bán được nhiều hàng hóa, phải thực hiện nhiều
biện pháp nhằm cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Những biện pháp cạnh tranh lành
mạnh phải nhằm mục đích không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành sản xuất, hạ giá bán sản phẩm, tăng cường chất lượng dịch vụ chăm

sóc khách hàng, nhằm chiếm lòng tin khách hàng. Có như vậy, người tiêu dùng mới có
nhiều sự lựa chọn phong phú hơn. Các doanh nghiệp qua đó mà có môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công bằng với nhau để thỏa mãn người tiêu dùng; an tâm sản xuất,
kinh doanh được nhiều hàng hóa hơn và thu nhiều lợi nhuận hơn. Nền kinh tế cũng như
xã hội vì thế mà được ổn định và phát triển hơn.
1.3 Khái quát về hoạt động ngân hàng
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho
những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho người cầm
giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền
ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp
tiền cho những người cần tiền. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy
động vốn nhàn rỗi trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại,
và rất hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến lấy hết tiền gửi ở ngân
hàng, đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Hoạt động
ngân hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển trong thế kỷ XIV tại các thành phố
giàu có của Ý thời Phục hưng, nhưng trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý
tưởng và khái niệm của tín dụng và cho vay.
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010 có định nghĩa như sau “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này.

×