Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

ƯU điểm và KHUYẾT điểm của cơ CHẾ THỊ TRƯỜNG LIÊN hệ THỰC TIỄN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.97 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC………………………………………

TIỂU LUẬN
ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM CỦA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện: …………………
Lớp: ...................................................
Mã số SV: ……………………………

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS …………………

……., năm 2020


LỜI CẢM ƠN
Tiểu luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình quý báu của
PGS.TS …………….., được sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của Trường Đại
học………………
Nhân đây cho phép tơi được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS ………….
- người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian qua, tơi cũng xin
chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp, những nhận xét q báu của các thầy
cơ giáo giúp tơi hồn thành bài tiểu luận của mình.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, nhà lãnh đạo bè đã
ln động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận
……, tháng 10 năm 2020
Học viên

…………………………



A. MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường thường được hiểu là một hệ thống thị trường tự do. Đối
với một người dân, tự do có nghĩa là khi bạn đi đến một thị trường, sẽ khơng có
giới hạn nào ở đó - bạn có thể mua bao nhiêu tùy thích hoặc bán ở bất kì mức giá
nào hoặc chọn khơng làm gì.
Cũng có thể hiểu cơ chế thị trường là q trình tương tác lẫn nhau giữa các
chủ thể (hoạt động) kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác
định khối lượng và cơ cấu sản xuất.
Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản
xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để quyết
định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
Trong cơ chế thị trường, bạn được tự do đưa ra quyết định liên quan đến
việc mua và bán. Adam Smith đã sử dụng sự tự do này để hình thành khái niệm về
bàn tay vơ hình.
Bàn tay vơ hình đề cập đến các hành động hay quyết định cá nhân của các
tác nhân kinh tế dẫn đến phúc lợi tối đa cho nền kinh tế. Các quyết định này hoạt
động về mặt cung và cầu cho một hàng hóa, được gọi chung là cơ chế thị trường.
Theo Adam Smith mọi hoạt động của các cá nhân trong xã hội chỉ nhằm
phục vụ lợi ích của chính các cá nhân đó, chứ khơng phải vì lợi ích cộng đồng.
Tuy nhiên, thơng qua phân công lao động, thông qua thị trường và cơ chế
giá cả, toàn bộ xã hội cũng sẽ được hưởng lợi từ hoạt động riêng lẻ của các cá
nhân, một "bàn tay vơ hình" sẽ dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho
mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể.
Để hiểu rõ về thực trạng của cơ chế thị trường. Tác giả quyết định lựa chọn
đề tài nghiên cứu: “Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường. Liên hệ thực
tiễn ở Việt Nam”


B.NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

1.1.

Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm thị trường

Khái niệm thị trường cho đến nay đã có rất nhiều trong q trình phát triển
của nó. Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau:
- Theo quan điểm của hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các lực
lượng trong đó người mua và người bán thực hiện cách quyết định chuyển giao
hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua".
- Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các cuộc
mua bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên.
- Thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại hàng hoá trên thị trường
vận động theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung
cầu, đây là định nghĩa mang nhiều tính lý thuyết.
- Ta cũng có thể nói rằng thị trường là nơi hàng hố thực hiện các chức năng
trao đổi của nó.
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch
sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên
con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát
triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc
thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến
trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái qt q trình phát triển của
lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một nấc thang tất
yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc

khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường.


Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập
hợp các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó tức là nơi khách hàng đang
mua và có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp vận dụng cho khái niệm thị
trường quốc tế của doanh nghiệp, ta có khái niệm “thị trường quốc tế của doanh
nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó“.
1.1.2. Cơ chế thị trường

Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể (hoạt
động) kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối
lượng và cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện
nhất định để nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị
trường để quyết định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho
ai. Ngược lại, hoạt động của các chủ thể tạo nên sự tương tác nói trên. Như vậy, cơ
chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động
lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và người tiêu dùng trong quá trình trao đổi.
Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học phúc lợi thì cơ chế thị trường là cách
thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế. Đó là vì, khi mỗi nhà
sản xuất đều căn cứ vào giá cả thị trường để có quyết định về sản xuất, sẽ khơng có
sản xuất thừa, cũng sẽ khơng có sản xuất thiếu. Phúc lợi kinh tế được đảm bảo do
khơng có tổn thất xã hội.
Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì
các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hồn hảo,
thơng tin đối xứng, khơng có các ảnh hưởng ngoại lai, v.v... Nếu không, cơ chế thị
trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế. Khi đó có thất bại thị
trường.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa
giữa người sản xuất và người tiêu dùng được vận hành do sự điều tiết của quan hệ

cung cầu.
Đặc trưng cơ bản nhất của cơ chế thị trường là động lực lợi nhuận, nó chỉ
huy hoạt động của các chủ thể. Trong kinh tế thị trường, đặc điểm tự do lựa chọn
hình thức sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm: 'lãi hưởng lỗ chịu', chấp nhận
cạnh tranh, là những điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường. Sự tuân theo cơ


chế thị trường là điều không thể tránh khỏi đối với các doanh nghiệp, nếu khơng sẽ
bị đào thải.
1.1.3. Hình thức của cơ chế thị trường

Làm thế nào để giải quyết ba vấn đề cơ bản của Kinh tế học là sản xuất cái
gì? sản xuất như thế nào? và phân phối cho ai? Có ba cách cơ bản là: Cơ chế chỉ
huy tập trung, cơ chế thị trường tự do và cơ chế hỗn hợp.
-

Cơ chế chỉ huy tập trung

Thực chất là cơ chế mệnh lệnh, là một xã hội Chính phủ đề ra mọi quyết
định về sản xuất và tiêu dùng. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định sẽ sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Sau đó các hướng dẫn cụ thể sẽ
được phổ biến tới các hộ sản xuất gia đình, các doanh nghiệp.
Quá trình như vậy là một nhiệm vụ rất phức tạp và không tồn tại một nền
kinh tế mệnh lệnh hồn chỉnh, trong đó tất cả các quyết định về phân bổ nguồn lực
được tiến hành theo phương pháp này. Tất nhiên việc xây dựng một kế hoạch như
vậy, trong đó khơng chỉ xác định chính xác số lượng từng loại sản phẩm phải sản
xuất mà cịn ấn định cả giá cả, theo đó các sản phẩm này được bán cho người tiêu
dùng là một công việc khổng lồ. Chỉ cần nhà quản lý phạm sai lầm là có thể dẫn
đến tình trạng dư thừa hay thiếu hụt to lớn một loại sản phẩm nào đó. Trước năm
1986, Chính phủ Việt Nam đã áp dụng cơ chế này.

-

Cơ chế thị trường tự do

Cơ chế thị trường tự do, các đơn vị cá biệt được tự do tác động lẫn nhau trên
thị trường. Nó có thể mua sản phẩm từ các đơn vị kinh tế này hoặc bán sản phẩm
cho các đơn vị kinh tế khác. Trong một thị trường, các giao dịch có thể thơng qua
trao đổi bằng tiền hay trao đổi bằng hiện vật (hàng đổi hàng). Việc hàng đổi hàng
gặp khơng ít phức tạp, đơi khi khơng có hàng cần để trao đổi lẫn cho nhau; ví dụ,
có khi khó tìm ra người đổi xe máy lấy một cây đàn. Do đó việc đưa tiền tệ vào
làm vật trung gian cho sự trao đổi đã làm thuận lợi rất nhiều cho những cuộc giao
dịch. Trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, người ta mua hoặc bán các sản
phẩm và dịch vụ thông qua tiền tệ.


Trong cơ chế thị trường, vấn đề giá cả đã quyết định việc mua cái và bán cái
gì. Việc phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả. Quá trình điều chỉnh giá cả
sẽ khuyến khích xã hội phân bố lại các nguồn lực để phản ánh được sự khan hiếm
đã tăng lên của một loại hàng hóa nào đó.
Thị trường mà nhà nước khơng can thiệp vào gọi là thị trường tự do. Các cá
nhân trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của riêng mình bằng cách cố gắng
làm càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của mình, khơng có ai trợ
giúp hoặc can thiệp của Chính phủ. Với những động cơ cá nhân như vậy, nhưng
chính điều đó đã làm cho xã hội khá giả lên bằng cách tạo ra những việc làm và
những cơ hội mới. Chính vì vậy, mà đường giới hạn khả năng sản xuất dịch ra xa
hơn.
-

Cơ chế hỗn hợp


Thị trường tự do cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình mà
khơng có sự can thiệp khống chế nào của Chính phủ. Kinh tế mệnh lệnh để cho tự
do cá nhân về kinh tế một phạm vi rất hẹp, vì hầu hết các quyết định đều do Chính
phủ đưa ra. Giữa hai thái cực đó là khu vực kinh tế hỗn hợp.
Trong một nền kinh tế hỗn hợp, khu vực nhà nước và khu vực tư nhân tương
tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Chính phủ
kiểm sốt một phần đáng kể của sản lượng thơng qua việc đánh thuế, thanh toán
chuyển giao cung cấp các hàng hóa và dịch vụ như lực lượng vũ trang, cảnh sát.
Chính phủ cũng điều tiết mức độ theo đuổi lợi ích cá nhân.
Trong cơ chế hỗn hợp, Chính phủ cũng có thể đóng vai trị là nhà sản xuất
các hàng hóa tư nhân thơng qua các doanh nghiệp có vốn chi phối của nhà nước.
1.1.4. Đặc trưng của cơ chế thị trường
Việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên, nguyên liệu đầu vào về cơ bản
được giải quyết theo quy luật của kinh tế thị trường mà cốt lõi là quy luật cung
cầu.
-

Các mối quan hệ kinh tế thị trường đều được tiền tệ hố.

-

Động lực chính phát triển kinh tế là lợi nhuận thu được.

-

Việc sản xuất kinh doanh và tiêu dùng sản phẩm do hai phía cung và cầu
quyết định.


Môi trường, động lực, phương tiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát


-

triển là cạnh tranh.
Nhà sản xuất là nhân vật trung tâm và khách hàng chi phối người bán

-

trên thị trường.
Có sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.

-

Có bất cập cần có sự điều tiết của nhà nước như mơi trường, khủng

-

khoảng và nhiều vấn đề xã hội.
Có xu hướng phát triển kinh tế mang tính hội nhập khu vực và quốc tế.

-

1.1.5. Các mơ hình phát triển của cơ chế thị trường trong lịch sử
Cho đến cuối thế kỷ XX, kinh tế thị trường hầu như chỉ có một phương án
phát triển duy nhất là biến thành kinh tế TBCN. Song thực tế cho thấy kinh tế thị
trường khơng phát triển theo một mơ hình duy nhất mà được thực hiện dưới nhiều
mơ hình khác nhau (thị trường tự do, thị trường - xã hội, v.v).
Nhằm làm rõ những nét khái quát chung của quá trình phát triển kinh tế thị
trường, có thể trừu tượng hố một số đặc điểm cụ thể, phản ánh sự giao thoa,
chuyển tiếp và đan xen giữa các mơ hình để quy về ba mơ hình chủ yếu sau:



Mơ hình kinh tế thị trường tự do;



Mơ hình kinh tế thị trường - xã hội;



Mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam) hay kinh tế

thị trường XHCN (ở Trung Quốc).
Có thể nói ba mơ hình kinh tế thị trường nói trên đang bao trùm tất cả các
nền kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ như Bắc Triều tiên. Điều này xác
nhận kết luận của Mác: kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển tất yếu; là hình
thức phổ biến của mọi nền kinh tế ở một trình độ xác định.
Trong khn khổ CNTB, kinh tế thị trường phát triển trong 2 mơ hình là
kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội.
* Mơ hình kinh tế thị trường tự do
Kinh tế thị trường trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mơ hình
thị trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế TBCN ở Tây Âu và Bắc
Mỹ. Mơ hình này đề cao vai trị của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và
cạnh tranh tự do. Trong mơ hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp điều tiết của
nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển


kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết của “bàn tay vơ
hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Chức năng chính của nhà nước là bảo vệ chế
độ sở hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều

kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham
gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ thống phúc lợi xã hội nhằm
giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo lập cơng bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý
các thất bại thị trường tuy vẫn được coi trọng nhưng không nhiều như ở các mơ
hình khác. Trong mơ hình này, trong khi vai trị động lực phát triển của lợi ích tư
nhân, lợi ích cá nhân (lợi nhuận) được đề cao thì vai trị "bánh lái" của sự điều tiết,
định hướng phát triển của nhà nước (bàn tay hữu hình) lại tương đối bị xem nhẹ so
với các mơ hình khác.
* Mơ hình kinh tế thị trường - xã hội
Mơ hình này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước Tây - Bắc Âu,
điển hình là Đức (quê hương của mơ hình kinh tế thị trường - xã hội), Thuỵ Điển,
Na Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mơ hình này cịn có mặt ở một
số nước khác như Đan Mạch, Hà Lan, Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.
Về ngun tắc, mơ hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố cơ
bản phổ biến của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, so sánh với mơ hình kinh tế thị
trường tự do, mơ hình này có hai đặc trưng nổi bật.
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc
lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người
dân, v.v.) là mục tiêu của chính q trình phát triển kinh tế thị trường;
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục
tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên, tuy mơ hình kinh tế thị trường - xã hội là một biến
thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự phát triển.
Đó là: đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể, tự kinh
tế thị trường khơng thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển, nhất là
các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để định hướng “động cơ”
thúc đẩy phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt không chỉ nhiệm vụ tăng
trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người.



Có thể khái qt rằng q trình phát triển kinh tế thị trường, để đạt hiệu
quả, cần hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển con người. Cách thức để đạt
mục tiêu đó khơng phải là phủ nhận thị trường, xoá bỏ cơ chế thị trường mà là đặt
nhà nước vào vai trò tham gia điều hành và định hướng sự phát triển của kinh tế
thị trường với tư cách là yếu tố cấu thành của cơ chế kinh tế.
Việc triển khai mơ hình kinh tế thị trường - xã hội trên thực tế đã mang lại
những kết quả phát triển tích cực, khơng chỉ ở một vài nước, tại một vài thời điểm
riêng lẻ mà ở hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập niên 1. Điều này xác nhận
tính tất yếu của xu hướng phát triển mơ hình kinh tế thị trường - xã hội. Tính tất
yếu đó cũng được thể hiện ở mơ hình kinh tế thị trường đang được triển khai ở
Trung Quốc và Việt Nam.
* Mơ hình kinh tế thị trường XHCN (hay định hướng XHCN)
Loại mơ hình kinh tế thị trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai nước
(Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh tế thị
trường XHCN). Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ thử nghiệm.
Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mơ hình có sức sống mạnh mẽ và
có triển vọng lịch sử to lớn.
Sự ra đời của mơ hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực, vốn
phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các nước nghèo,
lạc hậu tiến lên CNXH. Sự xuất hiện của mô hình này chứng minh sức sống mãnh
liệt của xu hướng tiến lên CNCS như một tất yếu khách quan của thời đại; đồng
thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường với tư cách là một
giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế.
Tuy nhiên, khác với hai mơ hình kinh tế thị trường nói trên, tồn tại trong
khung khổ CNTB, mơ hình này mới được xác lập chưa lâu và vẫn đang trong quá
trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Do vậy, chưa có căn cứ thực tiễn
để xác lập một hệ thống lý luận về nó với nội dung hồn chỉnh và logic chặt chẽ.

1



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

2.1. Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường
2.1.1.Ưu điểm
Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, ln tìm cách
để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất
bại để phát triển không ngừng.
Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý
kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả.
Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ trong kinh tế
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà khơng có cơ chế nào
hồn tồn thay thế được.
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng
động, có hiệu quả.
Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giã khối
lượng và cơ cấu của sản suất ( tổng cung )với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã
hội ( tổng cầu ). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng
vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiên
một số cơng việc rất lớn, có khi khơng thực hiện được và địi hỏi chi phí cao trong
q trình ra các quyết định.
Cơ chế thị trường kích thích đổi mới kĩ thuật, hợp lý hố sản xuất. Sức ép
của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến
mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất tốt nhất như không
ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức
sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.



Cơ chế thị trường thự hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu.
Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản
xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thi trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được
sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lự kinh tế được phân bố một cách
tối ưu
Sự điều tiết của của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ
quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước, những điều kiện kinh tế
biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được
những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản
xuất xã hội.Tuy nhiên, “sự thành cơng” của cơ chế đó là có điều kiện: Các yếu tố
sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng, giá cả thị trường có tính linh hoạt
thơng tin thị trường phải nhạy, và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ
thông tin liên quan
2.1.2.Khuyết điểm
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hóa. Dịch vụ
được mở rộng và coi như là hàng hố. Thị trường năng động, ln ln đổi mới
mặt hàng, cơng nghệ.
Song ngồi những ưu điểm nêu trên, kinh tế thị trường còn tồn tại một số
khuyết tật sau:
Kinh tế thị trường chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh tốn,
khơng chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có lãi thì làm, khơng
có lãi thì thơi nên nó khơng giải quyết được cái gọi là “hàng hố cơng cộng”
(đường xá, các cơng trình văn hố, y tế và giáo dục .v.v.)
Trong nền kinh tế thị trường có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo
nhiều, bất cơng xã hội.

Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy
nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.


Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm sốt của cạnh tranh
hồn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh khơng hồn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thị
trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm
sản lượng, tăng giá để thu lợi nhận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền thì
khơng có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kĩ thuật.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa, vì vậy họ có thể
lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó
hiệu quả kinh tế – xã hội khơng được đảm bảo.
Phân phối thu nhập khơng cơng bằng, có những mục tiêu xã hội chủ nghĩa
dù cơ chế thị trường có hoat động trơi trảy thì cũng khơng đạt được. Sự tác động
của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải, tác
động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó khơng tự
động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét
chua chát: “Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại
một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hố, trí não, tình người ”.
Một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi
những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
Người ta nhận thấy rằng, một nề kinh tế thị trường hiện đại đưng trước một
khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian dài
lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc làm
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong
thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của
nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế, như
người ta thường gọi, gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại khơng chỉ có tiến
bộ mà cịn cả suy thối, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có sự can

thiệp của Nhà nước.
Sự can thiệp của Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị
trường được ổn định, nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính
trị của sự phát triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh
tế thị trường, tạo ra những cơng cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô.


Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị
trường, đồng thời kính thích đối với sản xt thơng qua trao đổi hàng hố dưới
hình thức thương mại.
2.2 Liên hệ thực tiễn phát triển của cơ chế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế hiện được nhiều quốc gia lựa chọn để
thúc đẩy kinh tế phát triển. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Mặc dù vẫn mang
những đặc trưng của kinh tế thị trường nói chung nhưng kinh tế thị trường ở Việt
Nam có tính đặc thù riêng, là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khác
biệt về bản chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Nhân loại đã chứng kiến nhiều mơ hình kinh tế khác nhau như kinh tế tự
nhiên, kinh tế tập trung (kinh tế kế hoạch hóa) và kinh tế thị trường, trong đó kinh
tế thị trường là mơ hình được nhiều quốc gia lựa chọn cho q trình thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Có thể hiểu, kinh tế thị trường là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa trên các
nguyên tắc và tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là
mơ hình kinh tế mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều tiết
của thị trường, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, mở rộng giao lưu thương
mại, tạo cơ hội cho mọi chủ thể kinh tế tham gia thị trường, tìm kiếm lợi nhuận,...
Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại
hội VI khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên
phải đến Đại hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN)” mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng.
Đại hội Đảng XI đã đưa vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá

độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối”(1), “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân”(2), “Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng
bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa
bảo đảm tính định hướng XHCN”


Tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, tại Đại hội XI,
Đảng ta đã thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế,
tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng
cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết kinh tế,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội”.
Mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN khơng phải là sự gán ghép

chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế
vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay.
Thực tiễn đã cho thấy, những phương án và mơ hình phát triển kinh tế thị
trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định,
hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân tộc.
Một quốc gia đi sau không nhất thiết phải vận dụng cứng nhắc các nguyên lý
lý luận; cũng không nhất thiết phải rập khuôn các mơ hình kinh tế thị trường có
sẵn ở đâu đó, dù là mơ hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang
nhiều nét đặc thù của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của
thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới,
đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam để đưa ra chủ trương phát


triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để
thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH.
Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị
trường. Nếu nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, thì kinh tế thị trường định
hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
cụ thể của Việt Nam.
Từ quan điểm của Đảng có thể hiểu, tính đặc thù của kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đó làmơ hình kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ
chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà đó vẫn là
“nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực
hiện tự do hố thương mại,...
Các ngun tắc, thơng lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được
tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. “Thị trường đóng vai trị chủ yếu

trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; là động lực chủ
yếu để giải phóng sức sản xuất”
Thị trường cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả
của tăng trưởng kinh tế, trong đó thu nhập của mỗi người được hình thành trên cơ
sở và phù hợp với kết quả lao động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực
trong quá trình tạo ra của cải xã hội.
Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường đó khơng phải là kinh tế thị trường tự do
mà có sự điều tiết, quản lý của nhà nước XHCN Việt Nam, bảo đảm định hướng
XHCN nền kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước trên nguyên
tắc tuân thủ và tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế
nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hồn thiện
thể chế kinh tế; tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị
trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, tương


thích với thơng lệ của các nước; “sử dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn
lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển”
Thơng qua những chính sách kinh tế, những biện pháp tài chính cần thiết,
nhà nước phát huy cao độ những mặt tích cực, những ưu thế của nền kinh tế thị
trường, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho
thị trường phát triển mạnh mẽ hơn và lành mạnh hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
nhân dân.
Thứ hai, là mơ hình kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức sở hữu và
đa dạng các thành phần kinh tế; đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Kinh tế thị trường ở Việt Nam “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần

kinh tế”. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế quốc dân, “cùng bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển”, trong đó “kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của
nền kinh tế”.
“Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để
phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”(7). Các thành phần kinh tế đều hoạt
động theo cơ chế thị trường nhưng theo định hướng chung và khuôn khổ pháp luật
của nhà nước XHCN.
Sự lựa chọn đa dạng các hình thức sở hữu là phù hợp với trình độ phát triển
chưa đồng đều của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay nhằm khai thác tối đa
thế mạnh của mọi nguồn lực kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng.
Nhà nước coi trọng và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển tự
do, bình đẳng , “thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, khơng phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”(8).
Trong đó, kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then
chốt của nền kinh tế, ở lĩnh vực an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực dịch vụ xã hội
cần thiết... mà các thành phần kinh tế khác khơng có điều kiện hoặc khơng muốn
đầu tư.


Kinh tế nhà nước là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trị điều tiết vĩ mơ và
định hướng XHCN nền kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn cho nền kinh tế, kiểm soát
các nguồn tài nguyên chiến lược, phát triển các kết cấu hạ tầng và dịch vụ cơng có
vốn đầu tư lớn, ln chuyển chậm, lợi nhuận không cao, rất cần thiết cho nền kinh
tế - xã hội nhưng khu vực tư nhân không muốn đảm nhận;...
Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế và sẽ được tạo các
điều kiện phát triển, nhằm khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của thành phần kinh
tế này cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước cũng thực hiện quản
lý, định hướng thành phần kinh tế này theo những mục tiêu chung của đất nước,
đảm bảo hài hồ lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của dân tộc.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên chế độ công
hữu về những tư liệu sản xuất cơ bản, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
làm đại diện chủ sở hữu”, thực hiện “công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng
đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất
giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp, phục vụ cho mục đích chung của tồn
dân tộc và của nhân dân, “bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài
sản cơng và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ
thể trong nền kinh tế”(10).
Thứ ba, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam được thực hiện trên nguyên tắc “chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”(
Nền kinh tế thị trường ở nước ta với đa dạng hình thức sở hữu, đa dạng
thành phần kinh tế, đa dạng phương thức sản xuất kinh doanh… do đó cần đa dạng
các hình thức phân phối. Trong nền kinh tế đó, lao động trở thành cơ sở quyết định
địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người
Vì vậy, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là hình thức phân phối
căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất, phù hợp với quan hệ
sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta.


Bên cạnh đó, hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn nhằm huy động
tốt các nguồn lực cho mở rộng, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
cũng là rất cần thiết và công bằng đối với các chủ thể kinh tế.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN với mục tiêu không chỉ dừng ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà
cịn khơng ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt các vấn đề an sinh xã
hội,… vì vậy, phân phối lại thơng qua hệ thống phúc lợi xã hội cũng là rất đúng
đắn và hợp lý nhằm đảm bảo cơng bằng, bình đẳng trong xã hội, góp phần thực
hiện các mục tiêu của nhà nước XHCN Việt Nam.

Hơn nữa, phát triển kinh tế thị trường chúng ta cũng phải chấp nhận sự phân
hóa thu nhập, phân hố giàu nghèo ngày càng gia tăng, chấp nhận thực tế là sẽ có
những nhóm người yếu thế, khơng đủ sức cạnh tranh trong vịng xốy của cơ chế
thị trường, gặp rủi ro...
Vai trị của Chính phủ là phải quan tâm đến vấn đề đó, hạn chế phân hóa xã
hội sâu sắc… bằng cách thực hiện tái phân phối lại thu nhập xã hội. Đây chính là
nét ưu việt của chế độ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam.
Thứ tư, là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước XHCN Việt
Nam, được định hướng cao về mặt xã hội, có mục đích đảm bảo tối đa lợi ích của
đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước; tôn trọng và tạo điều
kiện cho các chủ thể kinh tế tự do phát triển đồng thời thực hiện các biện pháp hữu
hiệu để hạn chế những khuyết tật của tính tự phát thị trường.
Nền kinh tế đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế XHCN mà nội dung
căn bản là bảo đảm phúc lợi đầy đủ và sự phát triển tự do, toàn diện của mọi thành
viên trong xã hội, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, “bảo đảm mọi người đều được
bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và
hưởng lợi từ quá trình phát triển”


Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam luôn được định
hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”;
huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng
trưởng kinh tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi
giá, nóng vội mà phải được cân nhắc tính tốn cho phù hợp với điều kiện đất nước

theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả mà bền vững; gắn mục tiêu tăng tưởng kinh
tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường... Nói cách
khác, nền kinh tế thị trường đó khơng vì mục tiêu phát triển kinh tế mà hy sinh lợi
ích quốc gia, độc lập dân tộc, huỷ hoại tài nguyên, môi trường...
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển; Cơng bằng phải gắn với bình đẳng xã hội, cơng bằng
khơng chỉ dừng ở phân phối lợi ích cơng bằng mà phải là công bằng về cơ hội phát
triển - bảo đảm cho mọi thành viên trong cộng đồng đều có cơ hội như nhau để
phát triển, đều được thụ hưởng lợi ích chính đáng, cơng bằng từ những kết quả lao
động và cống hiến xã hội của mình, đồng thời có trách nhiệm đóng góp vào sự
phát triển thịnh vượng chung của dân tộc;... Đây chính là tính nhân văn, ưu việt
riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam.
Thứ năm, là“nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”
Đặc trưng này thể hiện nền kinh tế thị trường mà nước ta xây dựng không
phải là cái khác lạ so với kinh tế thị trường ở các nước, mà cũng là một bộ phận
hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới, “kế thừa có chọn lọc những thành tựu
phát triển kinh tế thị trường của nhân loại”, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách
và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt,
gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới”(14), tuân thủ các nguyên tắc,
quy ước, hiệp định, điều lệ, chuẩn mực chung của thế giới để phát triển, thực hiện
tự do hóa trên phạm vi quốc tế trong các lĩnh vực hợp tác thương mại, đầu tư, tài
chính, dịch vụ, lao động, việc làm, tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất
toàn cầu; thực hiện chuyển giao các thành tựu, phát minh, sáng chế khoa học công
nghệ hiện đại với các quốc gia…
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã và đang thực hiện quá trình hội nhập
quốc tế, mở rộng và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên


thế giới nhằm tranh thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước,
đặc biệt là các quốc gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả,

tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài
nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả
năng dự phịng của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến
trình hội nhập.
Như vậy kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam sẽ mang những
nét đặc thù và khác về bản chất với nền kinh tế thị trường TBCN.
Một là, kinh tế thị trường TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN, là
nền kinh tế thị trường phục vụ và bảo vệ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản.
Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu tồn dân và tập thể có mục tiêu
phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ áp
bức, bóc lột.
Hai là, việc phân phối trong nền kinh tế thị trường TBCN chủ yếu quan tâm
đến lợi ích của giới chủ tư bản, các tập đồn kinh tế lớn, chứ khơng phải hướng
đến lợi ích của đa số tầng lớp nhân dân lao động.
Ngay cả việc thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị
trường TBCN cũng trên cơ sở lợi ích của các “tầng lớp trên” đã được đảm bảo chứ
không phải là mục tiêu hướng đến của kinh tế thị trường TBCN. Trong sự phát
triển của kinh tế thị trường TBCN, vấn đề công bằng xã hội chỉ được đặt ra khi
mặt trái của cơ chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ
bùng nổ xã hội, đe dọa sự tồn tại của CNTB.
Việc thực hiện các chính sách phúc lợi, giải quyết các vấn đề xã hội của các
chính phủ tư sản chỉ giới hạn trong khn khổ TBCN, chỉ được xem là phương
tiện để duy trì chế độ TBCN. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà
nước chủ động ngay từ đầu việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để phát
triển nền kinh tế thị trường mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội mới.
Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN không chỉ quan tâm đến tốc độ
tăng trưởng cao mà còn chú ý mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được
nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu - nghèo được thu hẹp, đạo



đức, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường sinh thái
được bảo vệ, ổn định xã hội được bảo đảm...
Ba là, trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của nhà nước nếu có thì
cũng ln mang tính chất tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi trường kinh tế xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho sự bền vững của chế độ
bóc lột TBCN, kìm hãm những mâu thuẫn, xung đột xã hội ảnh hưởng trực tiếp
đến sự tồn vong của chế độ TBCN.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN, thì sự can thiệp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của tồn thể nhân dân lao động, bảo đảm cho mọi người dân
đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham
gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là mơ hình chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Song, với những đặc trưng ưu việt và mục đích tốt đẹp của nó, kinh tế thị
trường định hướng XHCN là một lựa chọn tất yếu, phù hợp với bối cảnh thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới hiện nay.
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ, quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là khơng đơn giản, đó là q trình lâu
dài và trải qua nhiều giai đoạn, vừa tìm tịi, phát triển khơng ngừng trong nhận
thức lý luận, vừa phải linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước mn
vàn khó khăn, thách thức, địi hỏi sự quyết tâm và đồng lòng của cả dân tộc cũng
như sự tích cực, nỗ lực thực hiện của các địa phương, ban ngành trong cả nước.


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

3.1. Quan điểm hoàn thiện cơ chế thị trường
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát

triển nhanh và bền vững; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo
đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát triển văn
hóa, bảo vệ mơi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh.
- Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là q
trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường
của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền
quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
- Hoàn thiện thể chế kinh tế đi đơi với hồn thiện thể chế chính trị mà trọng
tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy và cán
bộ. Có bước đi phù hợp, vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp
tục hoàn thiện. Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối
quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trị lãnh đạo của
Ðảng.
- Hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Ðổi mới


phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý
của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của tồn xã hội
trong q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2. Các giải pháp chủ yếu hoàn thiện cơ chế thị trường hiện nay
Thứ nhất, về tiếp tục triển khai các Nghị quyết, Chương trình hành động của

Chính phủ về đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Chính phủ giao các Bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tiếp tục triển khai tồn diện, quyết liệt, thực chất, có hiệu quả
Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21/2/2017 của Chính phủ về ban hành chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 1/11/2016 của Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và Nghị quyết số 24/2016/QH14
ngày 8/11/2016 của Quốc hội; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính
phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết số 192017/NQ-CP ngày 6/2/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 và các Nghị quyết, chương trình
hành động có liên quan của Chính phủ.
Đối với những nhiệm vụ rõ ràng, cấp thiết, phù hợp với nội dung của Nghị
quyết số 11-NQ/TW, không xây dựng thêm đề án, cần tổ chức triển khai ngay, bảo
đảm thực hiện kịp thời và có hiệu quả.
Thứ hai, về tổ chức nghiên cứu, quán triệt, thống nhất nhận thức về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ giao các Bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp chặt chẽ với tổ chức đảng và cấp ủy tổ chức
triển khai, nghiên cứu, quán triệt các nội dung của Nghị quyết số 11-NQ/TW trong
toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc thẩm quyền
quản lý...
Thứ ba, về tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ
trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan khẩn trương nghiên cứu, ban hành và
trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong năm 2017 - 2018; xây dựng chính sách hỗ trợ các


doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn
nhân lực, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường; xây dựng Đề án

hồn thiện thể chế quản lý đầu tư cơng;...
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện thể
chế, cơ chế thúc đẩy thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp;
tập trung rà soát, kiến nghị sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật về ngân
sách nhà nước, nợ công, quản lý tài sản công, bảo đảm quản lý chặt chẽ và sử dụng
hiệu quả tài sản công...
Bộ Tài nguyên và Mơi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan
rà soát, điều chỉnh xây dựng khung giá đất trình Chính phủ ban hành trong q
II/2019. Xây dựng Đề án hồn thiện thể chế quản lý đất cơng theo hướng cơng
khai, minh bạch, hiệu quả, trình Chính phủ trong quý I/2019.
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, hoàn
thiện Đề án đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức sắp xếp lại hệ thống các đơn vị sự
nghiệp công lập.
Thứ tư, về hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và vận
hành thơng suốt các loại hình thị trường, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ,
ngành liên quan nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả hoạt
động của các thị trường: vốn, chứng khoán, mua bán nợ, bảo hiểm, dịch vụ kế
toán, kiểm toán, tư vấn thuế, thẩm định giá; hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá;
nghiên cứu xây dựng và hồn thiện chính sách pháp luật về thuế tài sản, nhất là về
bất động sản; chính sách tài chính về đất đai theo hướng ổn định, cơng khai, minh
bạch và cơng bằng...
Thứ năm, về hồn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
phát triển bền vững, tiến bộ công bằng xã hội, bảo vệ mơi trường và ứng phó với
biến đổi khí hậu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên
quan nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách gắn phát triển kinh tế - xã hội với
phát triển bền vững, triển khai chiến lược tăng trưởng xanh. Hoàn thiện thể chế về
quy hoạch, hoàn thiện dự án Luật Quy hoạch và trình Quốc hội thơng qua năm
2017. Nghiên cứu xây dựng Đề án về thể chế liên kết vùng, dự kiến trình Chính



×