Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

TIẾNG VIỆT và PHƯƠNG PHÁP GIẢNG dạy TIẾNG VIỆT ở TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 144 trang )


1
ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA



HOÀNG TẤT THẮNG (Chủ biên)
NGUYỄN THỊ BẠCH NHẠN – NGUYỄN QUỐC DŨNG
LÊ THỊ HOÀI NAM – TRẦN THỊ QUỲNH NGA






TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VÀ THI TỐT NGHIỆP

Môn


TIẾNG VIỆT VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC












HUẾ - 2013





2

LỜI GIỚI THIỆU

Để phục vụ tốt cho việc ôn tập và thi tốt nghiệp môn Tiếng Việt và
phương pháp giảng dạy tiếng Việt của các học viên ngành Giáo dục tiểu
học, hệ Đại học từ xa, nhóm biên soạn xin giới thiệu tài liệu “Hướng dẫn
ôn tập và thi tốt nghiệp môn Tiếng Việt và phương pháp giảng dạy tiếng
Việt ở Tiểu học”.
Để biên sọan tài liệu này, nhóm biên soạn đã dựa vào nội dung chương
trình của các giáo trình “Tiếng Việt” và “Phương pháp giảng dạy tiếng
Việt ở tiểu học” dành cho học viên hệ Đào tạo từ xa, Đại học Huế, cùng
các giáo trình khác được lưu hành trong cả nước.
Đặc biệt, trong lần tái bản này, nhóm biên soạn có bổ sung, chỉnh sửa
một số nội dung trong tài liệu cho phù hợp với chương trình đào tạo mới và
nội dung các giáo trình mới biên soạn.
Nội dung cơ bản của tài liệu này gồm hai phần chính:
a. Hệ thống hóa những kiến thức cơ bản trong từng phân môn.
b. Hệ thống câu hỏi, bài tập và gợi ý trả lời các câu hỏi, bài tập thuộc
phần kiến thức cơ bản của từng phân môn.
Tài liệu này được phân công biên soạn như sau:

Phần Cơ sở ngôn ngữ học PGS.TS Hoàng Tất Thắng
Phần Ngữ âm tiếng Việt TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn
Phần Từ vựng tiếng Việt TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn
Phần Ngữ pháp tiếng Việt ThS. Nguyễn Quốc Dũng
Phần Phương pháp giảng dạy tiếng Việt ThS Trần Thị Quỳnh Nga
ở Tiểu học Ths. Nguyễn Thị Hoài Nam
Chúng tôi hi vọng rằng tài liệu “Hướng dẫn ôn tập và thi tốt nghiệp môn
Tiếng Việt và Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học” sẽ có tác
dụng tốt đối với học viên ngành Giáo dục tiểu học, hệ đào tạo từ xa, và
mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của đọc giả xa gần.

Nhóm biên soạn




3









PHẦN I

CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC
VÀ TIẾNG VIỆT




















4

A. CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC

I. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN HỌC VIÊN CẦN NẮM VỮNG
1. Những vấn đề chung
- Trên cơ sở phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói, cần nắm vững khái niệm ngôn
ngữ.
- Nắm vững đối tượng, nhiệm vụ và ứng dụng của ngôn ngữ học, đặc biệt là
những ứng dụng của ngôn ngữ học trong việc dạy và học tiếng mẹ đẻ.
- Hiểu được ý nghĩa của việc nghiên cứu những vấn đề đại cương về ngôn ngữ

học và ngôn ngữ học trong việc giảng dạy tiếng Việt nói chung và giảng dạy
tiếng Việt ở trường tiểu học nói riêng.
2. Bản chất của ngôn ngữ
- Nhận thức đúng và phân tích, lý giải bản chất xã hội của ngôn ngữ. Ngôn ngữ
không phải là một hiện tượng tự nhiên. Ngôn ngữ cũng không phải là một hiện
tượng tâm lý cá nhân. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ là sản
phẩm của một cộng đồng người được hình thành một cách lịch sử từ lâu đời.
- Mặc dù ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội nhưng nó không giống với các
hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng như văn học, chính trị, đạo đức,
pháp luật… Ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng cũng không thuộc cơ
sở hạ tầng. Ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp chung của toàn xã hội, không phân biệt tầng lớp, giai cấp, địa vị xã hội. Vì
vậy, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt.
- Ngôn ngữ mang bản chất tín hiệu. Do có bản chất tín hiệu mà ngôn ngữ mới
trở thành một phương tiện giao tiếp để truyền đạt thông tin. Muốn hiểu rõ bản
chất tín hiệu của ngôn ngữ cần nắm vững khái niệm tín hiệu (là một hình thức
vật chất có mang nội dung thông tin). Đồng thời, cần nắm vững các đặc điểm
chung của tín hiệu (tính vật chất, tính hai mặt, tính quy ước, tính hệ thống và
tính khái quát).
- Khác với các hệ thống tín hiệu thông thường, ngôn ngữ là một hệ thống tín
hiệu đặc biệt. Tính chất đặc biệt của tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở tính võ đoán,
tính hình tuyến, tính phức tạp, nhiều tầng bậc, tính đa trị và tính năng sản.
3. Chức năng của ngôn ngữ
- Nắm vững chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Cần nhấn mạnh vai trò của
ngôn ngữ trong giao tiếp, các chức năng của ngôn ngữ thể hiện trong giao tiếp
và vì sao người ta coi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con
người.

5
- Nắm vững chức năng tư duy của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ hình thành

và biểu đạt sản phẩm của tư duy. Ngôn ngữ vừa là phương tiện ghi lại sản phẩm
kết quả của quá trình tư duy, vừa tham gia vào quá trình tư duy, tạo điều kiện
cho tư duy phát triển.
4. Hệ thống và kết cấu của ngôn ngữ
- Nắm vững các khái niệm hệ thống và kết cấu. Ngôn ngữ cũng là một hệ
thống – kết cấu.
- Hệ thống – kết cấu của ngôn ngữ thể hiện trước hết ở sự tồn tại các đơn vị
đồng loại và khác loại. Các đơn vị đồng loại là những đơn vị trong cùng một cấp
độ, cùng một chức năng như các âm vị, các hình vị, các từ, các cấu trúc câu.
Các đơn vị khác loại là những đơn vị khác nhau về cấp độ và chức năng như âm
vị - hình vị - từ - câu.
- Hệ thống – kết cấu của ngôn ngữ còn thể hiện ở các mối quan hệ tồn tại giữa
các đơn vị trong cùng một cấp độ hoặc giữa các cấp độ, đặc biệt là những mối
quan hệ chung nhất, bao trùm lên toàn bộ hệ thống – kết cấu của ngôn ngữ: quan
hệ liên tưởng (quan hệ hệ hình, quan hệ dọc, quan hệ lựa chọn, quan hệ đối vị),
quan hệ ngữ đoạn (quan hệ tuyến tính, quan hệ ngang, quan hệ kết hợp, quan hệ
cú đoạn) và quan hệ tôn ti (quan hệ cấp bậc, quan hệ đơn vị).
5. Nguồn gốc và sự phát triển của ngôn ngữ
- Cần phân biệt sự khác nhau giữa việc nghiên cứu nguồn gốc của ngôn ngữ
loài người nói chung và nghiên cứu nguồn gốc của các ngôn ngữ cụ thể.
- Nắm vững nội dung cơ bản của một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn
ngữ: thuyết tượng thanh, thuyết cảm thán, thuyết tiếng kêu trong lao động,
thuyết ngôn ngữ cử chỉ và thuyết khế ước xã hội.
- Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của
ngôn ngữ. Quan điểm ấy đã phân tích và lý giải một cách khoa học về những
tiền đề tự nhiên và tiền đề xã hội cho sự hình thành ngôn ngữ thành tiếng ở con
người.
6. Về nguồn gốc và sự phát triển của tiếng Việt và chữ quốc ngữ
- Về nguồn gốc tiếng Việt, cần nắm vững nội dung của việc phân loại các ngôn
ngữ theo nguồn gốc và phương pháp so sánh – lịch sử, cần đặc biệt lưu ý đến

ngữ hệ của tiếng Việt: ngữ hệ Môn – Khmer và các dấu tích thời kỳ việt –
Mường trong tiếng Việt hiện nay.
- Nắm vững quá trình phát triển của tiếng Việt qua các thời kỳ, đặc biệt là thời
kỳ phong kiến, thời kỳ thuộc Pháp và từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
- Nắm vững sự hình thành và phát triển của chữ quốc ngữ? Đặc điểm của chữ
quốc ngữ, những ưu điểm và hạn chế của nó?

6
- Nắm vững những nội dung cơ bản về chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề giữ gìn và phát triển tiếng Việt hiện nay (nhất là vấn đề giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt).
7. Phân loại các ngôn ngữ
Học viên cần nắm vững hai phương pháp phân loại các ngôn ngữ.
- Phân loại theo nguồn gốc là cách phân loại sử dụng phương pháp so sánh –
lịch sử, nghĩa là so sánh các ngôn ngữ trong quá trình phát triển lịch sử của nó
dựa trên ngữ liệu hiện tại, các ngữ liệu trên các văn bia và các thư tịch cổ. người
ta so sánh vốn từ vựng cơ bản để tìm ra sự tương đồng về ngữ âm, về ý nghĩa, từ
đó xác định các họ, các dòng, các nhánh ngôn ngữ.
- Phân loại theo loại hình là cách phân loại sử dụng phương pháp so sánh –
loại hình, tức là so sánh ngôn ngữ trên diện đồng đại về cơ cấu của chúng.
Người ta so sánh cấu tạo từ và các phương thức hiển thị ý nghĩa ngữ pháp của từ
để tìm ra các phổ niệm, các đặc trưng loại hình, từ đó xác định các loại hình
ngôn ngữ.
8. Một số vấn đề về ngữ dụng học
- Nắm vững nội dung các khái niệm ý nghĩa tường minh, ý nghĩa hàm ẩn, hàm
ngôn và tiền giả định.
- Khi tìm hiểu ý nghĩa hàm ẩn, cần phải phân biệt sự giống nhay và khác nhau
giữa hàm ngôn và tiền giả định. Hai loại ý nghĩa này đều không được bộc lộ trưc
tiếp bằng câu chữ mà là kết quả của một quá trình suy luận.
- Cách nói có hàm ngôn là cách nói khá phức tạp, bị chi phối bởi nhiều yếu tố,

nhưng đặc biệt là các nhân tố như vi phạm quy tắc chiếu vật, dùng câu phân loại
theo mục đích giao tiếp, vi phạm nguyên tắc lập luận, vi phạm quy tắc hội thoại.


II. CÂU HỎI VÀ GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 01: Phân tích sự khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói.
Gợi ý:
- Về bản thể, ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị từ thấp đến cao (âm vị, hình
vị, từ và câu) và một hệ thống các quy tắc ngữ pháp.
- Lời nói là những phát ngôn cụ thể, do từng cá nhân cụ thể nói ra hoặc viết ra,
mang một nội dung tư tưởng, tình cảm cụ thể và có thể biểu thị những đặc
điểm tâm sinh lý của cá nhân người nói.
- Sự khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói thể hiện ở chỗ:
+ Ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng, khái quát. Trái lại, lời nói là những
phát ngôn cụ thể, vật chất.

7
+ Ngôn ngữ là một hiện tượng mang bản chất xã hội, vì nó là sản phẩm của tập
thể, được tập thể người nói sáng tạo từ lâu đời. Trái lại lời nói là hiện tượng
mang tính chất cá nhân, vì nó là sản phẩm của từng cá nhân.
+ Ngôn ngữ là một hiện tượng có tính ổn định, bất biến. Trái lại, lời nói là hiện
tượng mang tính lâm thời.
+ Ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị hữu hạn, trái lại, lời nói là những phát
ngôn vô hạn.

Câu 02: Một số người đã nêu ra những bằng chứng để chứng minh rằng ngôn
ngữ là một hiện tượng tự nhiên (như đồng nhất ngôn ngữ với cơ thể sinh vật, với
bản năng sinh vật của con người, với những nét đặc trưng về chủng tộc và với
tiếng kêu của loài vật) có đúng không?

Gợi ý:
- Nếu nhìn bề ngoài, dường như ngôn ngữ có liên quan với các hiện tượng nói
trên, bởi vì, cũng như ngôn ngữ, các hiện tượng ấy đều gắn liền với con người
(cơ thể sinh vật, đặc trưng bản năng, đặc trưng chủng tộc) hoặc liên quan đến
ngôn ngữ âm thanh của con người (tiếng kêu của loài vật). Nhưng xét về bản
chất thì ngôn ngữ không có mối liên hệ gì với chúng.
- Cơ thể sinh vật (các loài thực vật, động vật) cũng có quá trình hình thành, tồn
tại, phát triển, hưng thịnh và mất đi tương tự như ngôn ngữ. Nhưng các cơ thể
sinh vật khi đã chết đi, là mất đi hoàn toàn, không để lại dấu vết gì trong các cơ
thể mới. Trong khi đó, các ngôn ngữ cổ (các từ ngữ) cho dù ngày nay không
được dùng nữa, nhưng nó còn để lại nhiều dấu vết trong các ngôn ngữ mới, nhất
là về cơ cấu ngữ âm, từ vựng (như tiếng Latin, tiếng Phạn…).
- Các đặc trưng bản năng sinh vật của con người (như đi, đứng, ăn uống, khóc,
cười…) cũng có một quá trình hình thành đồng thời với sự hình thành và phát
triển ngôn ngữ ở mỗi người. Nhưng các đặc trưng bản năng là những hiện tượng
có thể nảy sinh và tồn tại ngay cả ở trạng thái đơn lập (bên ngoài xã hội loài
người). Trong khi ngôn ngữ không nảy sinh và tồn tại ở trạng thái ấy. Ngôn ngữ
hình thành trong mỗi cá nhân chỉ ở trong cộng đồng xã hội, do sự tác động của
ngôn ngữ cộng đồng.
- Những nét đặc trưng chủng tộc (như màu da, màu tóc, màu mắt, kích thước
xương sọ, ) về hình thức dường như có liên quan với cộng đồng ngôn ngữ
(dường như mỗi chủng tộc đều nói các thứ tiếng giống nhau). Nhưng, về bản
chất, các đặc trưng chủng tộc luôn luôn mang tính di truyền. Trái lại, ngôn ngữ
không mang tính di truyền. Mặt khác, có những ngôn ngữ được nhiều chủng tộc

8
khác nhau cùng sử dụng; lại có những chủng tộc sử dụng nhiều ngôn ngữ khác
nhau.
- Tiếng kêu của loài vật hoàn toàn khác về chất so với tiếng nói của loài người.
Tiếng kêu của các loài vật là những âm thanh có tính chất bản năng, vô nghĩa

thuộc hệ thống tín hiệu thứ nhất; tiếng nói của loài người là một hệ thống âm
thanh có nghĩa, được hình thành một cách có ý thức, là sản phẩm của tư duy và
mang tính xã hội.

Câu 03: Chứng minh rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, nó tồn tại và
phát triển theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng
cá nhân.
Gợi ý:
- Như được biết, ngôn ngữ do chính con người sáng tạo ra, nó nảy sinh, tồn tại
và phát triển luôn luôn phụ thuộc vào con người và xã hội loài người. Mọi biến
động trong xã hội dù lớn hay nhỏ đều tác động trực tiếp đến ngôn ngữ và làm
cho ngôn ngữ vận động, biến đổi (nhất là ở bộ phận từ vựng). Lấy tiếng Việt và
thực tiễn xã hội Việt Nam để chứng minh.
- Ngôn ngữ do con người sáng tạo ra là để làm phương tiện giao tiếp giữa các
thành viên trong xã hội. Vì thế ngôn ngữ là tài sản chung của cộng đồng, là một
hệ thống trừu tượng tồn tại tiềm tàng trong ký ức của các thành viên trong cộng
đồng.
- Ngôn ngữ không phải là hiện tượng tự nhiên. Ngôn ngữ khác về chất so với
các hiện tượng tự nhiên gắn liền hoặc liên quan đến con người như cơ thể sinh
vật, đặc trưng bản năng, đặc trưng chủng tộc, âm thanh của trẻ sơ sinh và âm
thanh các loài vật,…
- Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ ở mỗi cá nhân là hoàn toàn mang
tính khách quan, chịu ảnh hưởng các quy luật của xã hội, và không phải là một
hiện tượng có tính chất bẩm sinh, bản năng.

Câu 04: Tại sao nói ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt?
Gợi ý:
Khi so sánh ngôn ngữ với các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng
như pháp luật, văn học, chính trị, đạo đức…, ta thấy:
- Các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng luôn luôn phụ thuộc vào

cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng sinh ra. Vì vậy các hiện tượng xã hội nói trên sẽ
bị mất đi hoặc bị thay thế khi cơ sở hạ tầng tương ứng bị mất đi hoặc bị thay thế.
Trái lại, ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng, cũng không thuộc cơ sở

9
hạ tầng, vì vậy, khi cơ sở hạ tầng sụp đổ, ngôn ngữ cũng không bị mất đi hoặc
thay thế ngôn ngữ này bằng ngôn ngữ khác. Thực tiễn lịch sử xã hội Việt Nam
và tiếng Việt là một minh chứng.
- Các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng luôn luôn mang tính giai
cấp, luôn luôn phục vụ cho một giai cấp nhất định trong xã hội. Trái lại, ngôn
ngữ không mang tính giai cấp. Ngôn ngữ là tài sản chung của cộng đồng, của
mọi giai cấp trong xã hội. Ngôn ngữ là tiếng nói chung của mọi giai cấp, mọi
tầng lớp, mọi thành viên trong một cộng đồng.
- Cũng cần lưu ý rằng:
+ Mặc dù ngôn ngữ không mất đi hoặc không bị thay thế ngôn ngữ này bằng
ngôn ngữ khác khi cơ sở hạ tầng bị thay thế, nhưng trong nội bộ ngôn ngữ (nhất
là bộ phận từ vựng) vẫn luôn luôn diễn ra một quá trình vận động, biến đổi và
phát triển nhằm đáp ứng với nhu cầu giao tiếp của xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Lấy lịch sử tiếng Việt để chứng minh.
+ Mặc dù ngôn ngữ không mang tính giai cấp vì ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp chung của toàn xã hội, nhưng mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong xã hội khi sử
dụng ngôn ngữ không tỏ ra “vô can” đối với nó, luôn luôn có ý thức thể hiện
quan điểm, lập trường giai cấp của mình; luôn luôn “lợi dụng” ngôn ngữ để
phục vụ cho mục đích cá nhân của mình. Lấy thực tiễn vận dụng tiếng Việt để
chứng minh.

Câu 05: Phân tích và chứng minh rằng ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp.
Gợi ý:
- Trước hết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu và chức năng cơ bản của các
tín hiệu là chức năng giao tiếp.

- Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ được thể hiện trước hết, ngôn ngữ là
phương tiện để con người truyền đạt những tư tưởng, tình cảm, ý chí, nguyện
vọng của mình đối với cộng đồng một cách nhanh nhất, chính xác nhất và trực
tiếp nhất.
- Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người thiết lập và thể hiện một cách
chính xác các mối quan hệ giữa con người với con người.
- Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người thực hiện chức năng quản lý xã
hội, điều hành và phát triển xã hội.
- Lấy thực tiễn vận dụng tiếng Việt để chứng minh.

Câu 06: Vì sao nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và ưu việt
nhất của con người?

10
Gợi ý:
- Lênin đã định nghĩa rằng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong yếu nhất
của con người.
Trước hết, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp. Bởi vì, ngôn ngữ là một hệ
thống tín hiệu được con người dùng để truyền đạt tư tưởng, tình cảm, ý chí,
nguyện vọng… của mình đến người khác. Ngôn ngữ còn là phương tiện để tạo
lập và thể hiện các mối quan hệ. Đồng thời, ngôn ngữ là phương tiện để tổ chức,
quản lý xã hội, phát triển xã hội.
- Nếu so sánh ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp bổ sung khác như: động
tác, cử chỉ, công thức, ký hiệu, biểu đồ, các môn nghệ thuật đơn lập (âm nhạc,
hội họa, điêu khắc, múa)… thì ta thấy ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp đặc
biệt, vì:
a. Nội dung biểu đạt của các phương tiện giao tiếp bổ sung nói chung là nghèo
nàn, ít ỏi, đơn nghĩa. Trái lại, nội dung biểu đạt của phương tiện giao tiếp ngôn
ngữ hết sức phong phú và sâu sắc. Bởi vì, mối quan hệ giữa hai mặt trong các
phương tiện giao tiếp bổ sung là quan hệ 1/1. Trong khi đó, mối quan hệ giữa

hai mặt trong phương tiện giao tiếp ngôn ngữ là quan hệ 1/n và n/1, vì vậy, ngôn
ngữ luôn luôn tồn tại các hiện tượng đa nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng
âm…
b. Nội dung của các phương tiện giao tiếp bổ sung nói chung là khó hiểu,
không quen thuộc đối với tất cả mọi thành viên trong cộng đồng. trái lại, ý nghĩa
của các đơn vị ngôn ngữ rất quen thuộc và dễ hiểu đối với mọi người, đối với
mọi lứa tuổi, thành phần, tầng lớp trong xã hội.
c. Ngoại trừ các môn nghệ thuật đơn lập, các phương tiện giao tiếp bổ sung
khác không có khả năng biểu thị cảm xúc. Trái lại, ngôn ngữ luôn luôn có khả
năng biểu thị mọi cảm xúc, trạng thái tâm lý tinh tế và sâu kín nhất của con
người. Có thể nói, ngôn ngữ không bao giờ chịu “bó tay” trước bất kì một nhu
cầu biểu đạt nào của con người.
Lấy các dẫn chứng để phân tích, minh họa cho các luận điểm “a,b,c”.


Câu 07: Phân tích chức năng tư duy của ngôn ngữ.
Gợi ý:
a) Trước hết phải giải thích rõ khái niệm tư duy:
- Tư duy biểu thị quá trình nhận thức (quá trình hình thành ý tưởng).
- Tư duy còn thể hiện kết quả của nhận thức (biểu thị ý tưởng đã hình thành)
b) Vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy:

11
- Dù tư duy được hiểu theo nghĩa nào thì ngôn ngữ vẫn luôn luôn là “vỏ vật
chất” để diễn đạt tư duy, để tham gia vào quá trình hình thành ý tưởng, đồng
thời để định hình các ý tưởng.
- Nhờ ngôn ngữ mà các ý tưởng của tư duy trở nên rõ ràng hơn. Nếu không có
ngôn ngữ thì các ý tưởng cũng chỉ như là “những đám mây ngũ sắc”.

Câu 08: Giải thích và chứng minh câu nói của Mác:“Ngôn ngữ là hiện thực

trực tiếp của tư tưởng”?
Gợi ý:
Câu nói này khẳng định vai trò và mối quan hệ của ngôn ngữ đối với tư duy.
- Về vai trò của ngôn ngữ: ngôn ngữ như là mặt hình thức, là cái “vỏ vật chất”
của tư duy. Nó vừa là phương tiện ghi lại sản phẩm, kết quả của quá trình tư
duy, vừa tạo điều kiện cho tư duy phát triển. Nói cách khác, dù tư duy được theo
nghĩa nào thì ngôn ngữ luôn luôn là phương tiện vừa tham gia vào quá trình hình
thành ý tưởng, vừa định hình các ý tưởng đã hình thành.
- Về quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy: Đó là mối quan hệ có tính biện chứng,
thống nhất và hữu cơ. Quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy được ví như hai mặt của
một tờ giấy, không thể cắt bỏ mặt này mà không đồng thời cắt bỏ cả mặt bên
kia. Ở đâu có ngôn ngữ thì ở đó có tư duy, và ngược lại, ở đâu có tư duy thì ở đó
phải có ngôn ngữ để diễn đạt. Ngôn ngữ và tư duy là hai đối tượng tồn tại khách
quan, chúng thống nhất nhưng không đồng nhất và chúng khác nhau nhưng
không tách rời. Các đơn vị của tư duy được diễn đạt bởi các đơn vị của ngôn
ngữ (lấy ví dụ để phân tích và minh họa).

Câu 09: Trình bày nội dung một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ.
Gợi ý:
- Các giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ (thuyết tượng thanh, thuyết cảm
thán, thuyết tiếng kêu trong lao động, thuyết ngôn ngữ cử chỉ và thuyết khế ước
xã hội) là những giả thuyết thể hiện quan điểm của các nhà duy vật siêu hình:
lấy cái hiện tượng quy thành cái bản chất, lấy cái cá biệt quy thành cái phổ biến,
phi lý và mâu thuẫn.
- Thuyết tượng thanh cho rằng ngôn ngữ ra đời là do con người dùng cơ quan
phát âm của mình để mô phỏng những âm thanh của tự nhiên như tiếng chim
kêu, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy…, hoặc dùng đặc điểm của tư thế bộ máy
phát âm để mô phỏng đặc điểm của sự vật khách quan. Cơ sở của giả thuyết trên
là ở sự tồn tại của các từ tượng thanh và từ mô phỏng trong các ngôn ngữ (lấy ví
dụ để minh họa, phân tích).


12
- Thuyết cảm thán cho rằng ngôn ngữ loài người bắt nguồn từ những âm thanh
để biểu thị cảm xúc như mừng, giận, vui, buồn, đau đớn… Cơ sở của giả thuyết
này là sự tồn tại trong các ngôn ngữ những thán từ và những từ phát sinh thán từ
(lấy ví dụ để minh họa, phân tích).
- Thuyết tiếng kêu trong lao động cho rằng ngôn ngữ xuất hiện từ những tiếng
kêu trong lao động tập thể theo nhịp lao động. Những âm thanh này về sau trở
thành tên gọi của động tác lao động. Cơ sở của giả thuyết này là ở sự tồn tại của
một số từ được dùng để thống nhất hành động chung trong các ngôn ngữ (lấy ví
dụ minh họa).
- Thuyết khế ước xã hội cho rằng, ngôn ngữ ra đời là do con người thỏa thuận
với nhau mà quy định ra (lấy ví dụ minh họa).
- Thuyết ngôn ngữ cử chỉ cho rằng ban đầu con người chưa có ngôn ngữ thành
tiếng. Để giao tiếp với nhau, người ta dùng tư thế một số bộ phận của thân thể
như đầu, lưng và tay để truyền đạt thông tin (lấy ví dụ minh họa).

Câu 10: Trình bày quan điểm của Ăng ghen về nguồn gốc của ngôn ngữ.
Gợi ý:
- Khác với các nhà duy vật siêu hình, các nhà duy vật biện chứng đã dựa vào
những thành tựu của các khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội nhân văn
để phân tích và chứng minh quá trình hình thành ngôn ngữ thành tiếng ở con
người. Một trong những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
chứng minh một cách duy nhất đúng sự hình thành ngôn ngữ ở con người là
Ph. Ăng ghen với luận văn khoa học “Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người”.
- Trong tác phẩm “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn
thành người”, khi phân tích quá trình tiến hóa tự nhiên để trở thành con người
trên trái đất, Ăng ghen đồng thời đã phân tích và lý giải một cách khoa học điều
kiện tự nhiên và điều kiện xã hội cho sự hình thành ngôn ngữ âm thanh ở con

người.
- Về điều kiện tự nhiên, Ăng ghen đã chỉ rõ bước quyết định trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người là sự kiện chuyển từ dáng đi khom sang dáng
đi thằng đứng cùng với đôi tay được giải phóng. Nhờ có dáng đi thẳng đứng mà
khí quản của bộ máy phát âm được hình thành và hoàn thiện dần. Nhờ có đôi tay
được giải phóng, con người có thể tạo ra công cụ lao động, điều mà bất cứ một
loài vượn nào cũng không thể làm được. Nhờ công cụ lao động mà lao động của
con người trở nên có sáng tạo, khác hẳn với lao động bản năng của loài vật. Nhờ
lao động mà bộ óc con người được hình thành và phát triền, tư duy trừu tượng ra

13
đời. “Dần dần với sự phát triển của bàn tay và với quá trình lao động, con người
bắt đầu thống trị giới tự nhiên và sự thống trị đó, cứ mỗi lần tiến lên một bước
và nó mở rộng thêm tầm mắt của con người” [3,60]. Như vậy, theo Ăng ghen, sự
phát triển của lao động đã đưa đến kết quả tất yếu là thắt chặt thêm những mối
quan hệ giữa các thành viên của xã hội, bằng cách tạo ra rất nhiều trường hợp để
con người giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau và làm cho mỗi cá nhân ngày càng
có ý thức rõ rệt đối với lợi ích của sự hợp tác ấy. Tóm lại, những con người đang
được hình thành đó đạt đến mức độ với nhau là họ có những điều kiện cần phải
nói mới được. Như vậy, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do sự cần thiết phải
giao tiếp. Nhưng nhu cầu giao tiếp ấy của con người cũng lại do lao động quyết
định.

Câu 11: Hãy phân tích và chứng minh: sự phát triển không đồng đều giữa các
mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ?
Gợi ý:
- Trong ba bộ phận tạo thành một ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) thì
bộ phận từ vựng biến đổi và phát triển nhanh nhất và nhiều nhất, sau đó bộ phận
ngữ âm và cuối cùng là bộ phận ngữ pháp.
- Bộ phận từ vựng biến đổi nhanh nhất và nhiều nhất vì từ vựng trực tiếp phản

ánh đời sống xã hội. Mọi biến đổi trong xã hội đều được ngôn ngữ trực tiếp
phản ánh. Cũng cần phân biệt từ vựng nói chung và từ vựng cơ bản. Từ vựng
nói chung biến đổi không ngừng, ngày càng phong phú. Những từ gốc, từ vựng
cơ bản ổn định, có tính bất biến.
- Bộ phận ngữ âm của ngôn ngữ biến đổi chậm và không đều vì nếu biến đổi
nhanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giao tiếp bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, ngữ
âm biến đổi dẫn đến tồn tại các cách phát âm địa phương.
- Bộ phận ngữ pháp biến đổi chậm nhất, vì cùng với bộ phận từ vựng cơ bản,
ngữ pháp là cơ sở của ngôn ngữ. Sự biến đổi nhanh của quy tắc ngữ pháp sẽ dẫn
đến khó khăn trong việc giao tiếp. Tuy nhiên, trong thời gian dài, hệ thống ngữ
pháp cũng có biến đổi, cải tiến, bổ sung thêm các quy tắc mới.

Câu 12: Tóm tắt quá trình phát triển của tiếng Việt qua các thời kỳ: thời kỳ
phong kiến, thời kỳ thuộc Pháp và từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Gợi ý:
- Tiếng Việt thời phong kiến: Do tiếng Việt và tiếng Hán gần nhau về mặt loại
hình, nghĩa là cả hai đều thuộc loại ngôn ngữ đơn lập – âm tiết tính, nên tiếng
Việt đã vay mượn rất nhiều từ ngữ tiếng Hán theo chiều hướng chủ đạo là Việt

14
hóa trước hết về mặt âm đọc, sau đó về mặt ý nghĩa và phạm vi sử dụng. Có một
số từ Hán vào tiếng Việt qua con đường khẩu ngữ ở một thời điểm xa xưa, dưới
các vỏ ngữ âm cổ và dần dần đã hòa đồng vào vốn từ vựng tiếng Việt khiến
người ta khó nhận ra đó là từ Việt gốc Hán như: đầu, gan, ghế, cưới…
Từ thế kỷ XI về sau, Nho học dần dần được đề cao và giữ vị trí độc tôn. Một
nền văn chương chữ Hán mang sắc thái Việt Nam hình thành và phát triển. Nhờ
vậy, con đường Việt hóa văn tự Hán được đẩy mạnh và tiếng Việt ngày càng
thêm phong phú, đa dạng, tinh tế, uyển chuyển.
Chữ Nôm ra đời bằng cách vay mượn một số yếu tố văn tự Hán (hoặc từng bộ
phận chữ, hoặc cả chữ trọn vẹn) để ghi lại tiếng Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết.

Chữ Nôm góp phần phản ánh diện mạo hệ thống ngôn ngữ văn học của tiếng
Việt lúc bấy giờ (qua những bài phú Nôm thời Trần, thơ Nôm và truyện Nôm
thời Lê, Nguyễn…).
- Tiếng Việt thời thuộc Pháp: Thời kỳ này, chữ quốc ngữ trở nên thông dụng
cùng với sự ảnh hưởng của ngôn ngữ - văn hóa Pháp, làm cho tiếng Việt được
phát triển thêm một bước. Báo chí, sách vở tiếng Việt (chữ quốc ngữ) ra đời
ngày càng nhiều. Nhiều từ ngữ, thuật ngữ mới được sử dụng, tuy chủ yếu vẫn là
từ Hán Việt. Nhiều hoạt động văn chương, báo chí sôi nổi cùng với sự hình
thành nhiều thể loại mới làm cho tiếng Việt ngày càng thêm phong phú, tinh tế,
đa dạng.
- Tiếng Việt từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay: Với bản “Tuyên ngôn độc
lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước đồng bào cả nước và nhân dân toàn thế
giới vào ngày 2.9.1945, tiếng Việt thực sự đã giành lại địa vị độc tôn.
Chức năng xã hội của tiếng Việt ngày càng được mở rộng, được sử dụng trong
các lĩnh vực giao tiếp khác nhau của xã hội (từ sáng tác văn học đến giao soạn
thảo công văn hành chính; từ lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục đến giao
tiếp thông tin đại chúng…).
Tiếng Việt còn có vai trò là ngôn ngữ quốc gia, dùng chung cho cả khối cộng
đồng nhiều dân tộc trên đất nước Việt Nam.


Câu 13: Tại sao nói ngôn ngữ là một hệ thống cấu trúc?
Gợi ý:
- Cũng như mọi đối tượng trong hiện thực, ngôn ngữ là một thực thể bao gồm
các yếu tố, các bộ phận bên trong và các mối quan hệ giữa các yếu tố, các bộ
phận ấy. Chỉ có điều các đối tượng trong hiện thực là các đối tượng vật chất, cụ

15
thể; trái lại, ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng khái quát, là sản phẩm của
nhận thức, được trừu tượng hóa khỏi các đối tượng vật chất, cụ thể (lời nói).

- Các yếu tố trong hệ thống – cấu trúc ngôn ngữ chính là các loại đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ (âm vị, hình vị, từ và câu). Bên cạnh các loại đơn vị cơ bản là một
tập hợp gồm nhiều đơn vị đồng loại (cùng cấp độ, cùng chức năng) tạo thành
một hệ thống. Chẳng hạn: hệ thống âm vị, hệ thống hình vị, hệ thống từ vựng, hệ
thống cú pháp. Các đơn vị trong cùng một hệ thống tạo thành một cấp độ (bậc),
chẳng hạn: cấp độ ngữ âm, cấp độ từ vựng, cấp độ cú pháp…
Các đơn vị trong cùng một cấp độ hoặc giữa các cấp độ luôn luôn nằm trong
các mối quan hệ chằng chịt, ràng buộc, chi phối lẫn nhau. Trong hệ thống cấu
trúc ngôn ngữ vừa tồn tại các quan hệ chung nhất, bao trùm như quan hệ liên
tưởng, quan hệ ngữ đoạn, quan hệ tôn ti; vừa tồn tại các quan hệ riêng, đặc thù
như quan hệ ngữ pháp (quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ, quan hệ chủ vị),
quan hệ ngữ nghĩa (quan hệ đồng nghĩa, quan hệ đa nghĩa, quan hệ trái
nghĩa…)…
Học viên lấy ví dụ tiếng Việt để phân tích và chứng minh.

Câu 14: Phân tích các đơn vị đồng loại và khác loại trong hệ thống – cấu trúc
của ngôn ngữ.
Gợi ý:
a) Các đơn vị đồng loại là những đơn vị giống nhau về cấp độ và chức năng.
Chẳng hạn, các âm vị đều cùng cấp độ ngữ âm và đều có cùng chức năng phân
biệt nghĩa, cấu tạo hình vị, các hình vị đều cùng cấp độ hình thái và cùng chức
năng biểu thị ý nghĩa và cấu tạo từ, các từ đều cùng cấp độ từ vựng và cùng
chức năng định danh, biểu thị khái niệm và cấu tạo câu, các câu đều cùng cấp độ
cú pháp và cùng chức năng thông báo, cấu tạo đoạn.
b) Các đơn vị khác loại là những đơn vị khác nhau về cấp độ và chức năng. Đó
là các loại đơn vị từ thấp đến cao: âm vị, hình vị, từ và câu.
Học viên lấy ví dụ tiếng Việt để phân tích và chứng minh.

Câu 15. Phân tích nội dung, vai trò và tác dụng của hai quan hệ - quan hệ
ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng trong hệ thống cấu trúc của ngôn ngữ.

Gợi ý:
a) Về quan hệ liên tưởng
- Quan hệ liên tưởng là mối quan hệ giữa các đơn vị đồng loại, tồn tại tiềm
tàng trong kí ức của người nói và có thể thay thế cho nhau ở cùng một vị trí
trong chuỗi lời nói.

16
- Quan hệ liên tưởng liên quan trực tiếp đến vốn ngôn ngữ của người nói, là
tiền đề, cơ sở cho thao tác lựa chọn của tư duy.
- Quan hệ liên tưởng có tác dụng giúp người nói tạo lập được những lời nói
sinh động, gợi cảm, chính xác, giàu hình ảnh và hàm súc về ý nghĩa.
- Học viên cần nêu ra các dẫn chứng để phân tích và chứng minh.
b) Về quan hệ ngữ đoạn
- Quan hệ ngữ đoạn là mối quan hệ giữa các đơn vị cùng tồn tại hiện thực trên
lời nói, được sắp xếp theo một trật tự nhất định, phù hợp với các quy tắc về lô
gích, ngữ pháp và ngữ nghĩa của ngôn ngữ.
- Quan hệ ngữ đoạn liên quan trực tiếp đến năng lực ngôn ngữ của người nói,
là tiền đề, cơ sở cho thao tác kết hợp của tư duy.
- Quan hệ liên tưởng có tác dụng giúp người nói tạo lập được những lời nói rõ
ràng, lô gích và dễ hiểu.
- Học viên cần nêu ra các dẫn chứng để phân tích và chứng minh.

Câu 16: Hãy phân tích và chứng minh ngôn ngữ mang bản chất tín hiệu?
Gợi ý:
Cũng như mọi tín hiệu thông thường trong cuộc sống quanh ta, ngôn ngữ cũng
mang những đặc điểm cơ bản của tín hiệu như sau:
- Ngôn ngữ cũng có hai mặt – mặt biểu đạt và mặt được biểu đạt (còn gọi là
cái biểu đạt và cái được biểu đạt). Mặt biểu đạt là vỏ vật chất âm thanh, mặt
được biểu đạt là nội dung sự vật, hiện tượng. Hai mặt này luôn tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất.

- Ngôn ngữ cũng mang tính vật chất, vì có tính vật chất thì con người mới tiếp
nhận trực tiếp bằng giác quan của mình. Mặc dù ngôn ngữ là một thực tế trừu
tượng, khái quát, nhưng ngôn ngữ phải tồn tại trong một đối tượng cụ thể vật
chất là lời nói thì chúng ta mới nhận biết được ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ cũng mang tính hệ thống. Mỗi tín hiệu ngôn ngữ chỉ có giá trị nhất
định khi nằm trong cùng một hệ thống ngôn ngữ nào đó.
- Ngôn ngữ bao giờ cũng mang tính khái quát. Chẳng hạn, mỗi từ của ngôn
ngữ không biểu thị một đối tượng vật chất cụ thể nào trong hiện thực mà biểu thị
một lớp sự vật có những đặc điểm chung nào đó.
Học viên lấy ví dụ tiếng Việt để phân tích.

Câu 17: Tại sao nói ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt?
Gợi ý:
Tính chất đặc biệt của hệ thống ngôn ngữ thể hiện ở các đặc trưng sau:

17
- Tính võ đoán. Đối với các tín hiện thông thường, mối quan hệ giữa hình thức
vật chất và nội dung thông tin mang tính quy ước. Tín hiệu ngôn ngữ cũng có
nguồn gốc quy ước, nhưng vì quá lâu đời nên mang tính võ đoán. Tính võ đoán
của tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở chỗ mối quan hệ giữa CBĐ và CĐBĐ là không
có lý do, không giải thích được.
- Tính hình tuyến. Các tín hiệu ngôn ngữ khi hoạt động giao tiếp không bao giờ
xuất hiện tại một thời điểm hoặc một vị trí từ hai tín hiệu trở lên mà xuất hiện
kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Nhờ tính hình tuyến mà người ta có thể
phân tích và nhận diện được các quy tắc kết hợp với các yếu tố để tạo thành các
đơn vị ngôn ngữ khác nhau.
- Tính phức tạp, nhiều tầng bậc. Trước hết, hệ thống tín hiệu ngôn ngữ bao
gồm một số lượng đơn vị rất lớn, khó có thể thống kê hết số lượng từ, câu trong
một ngôn ngữ. Mặt khác, bên cạnh các tín hiệu ngôn ngữ đồng loại còn tồn tại
các tín hiệu ngôn ngữ khác loại, đó là các đơn vị của ngôn ngữ thuộc nhiều cấp

độ khác nhau có quan hệ cấp bậc (tức là các đơn vị bậc thấp nằm trong các đơn
vị bậc cao hơn, các đơn vị bậc cao, bao hàm các đơn vị bậc thấp hơn). Do vậy,
hệ thống tín hiệu ngôn ngữ là một hệ thống của nhiều hệ thống (hệ thống âm vị,
hệ thống hình vị, hệ thống từ vựng, hệ thống câu).
- Tính đa trị. Trong hệ thống tín hiệu ngôn ngữ, mối quan hệ giữa CBĐ và
CĐBĐ không phải bao giờ cũng tương ứng 1/1; mà cùng một CBĐ có thể tương
ứng với nhiều CĐBĐ như hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, hoặc cùng một CĐBĐ
có thể tương ứng với nhiều CBĐ như hiện tượng đồng nghĩa… Đồng thời, ngoài
chức năng truyền tin, tín hiệu ngôn ngữ còn có nhiều chức năng như biểu thị
khái niệm, biểu cảm…
- Tính năng sản. Các tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn tiềm tàng khả năng sản sinh
các tín hiệu mới từ những tín hiệu ban đầu.
Học viên tự lấy dẫn chứng để phân tích, minh họa.


Câu 18: Phân tích sự khác nhau giữa phương pháp so sánh – lịch sử và
phương pháp so sánh – loại hình?
Gợi ý: Sự khác nhau giữa hai phương pháp này thể hiện ở các mặt sau đây:
- Nếu phương pháp so sánh – lịch sử hướng vào sự so sánh các ngôn ngữ trong
lịch sử phát triển của nó thì phương pháp so sánh – loại hình lại hướng vào tình
trạng hiện có của ngôn ngữ.
- Nếu nội dung của phương pháp so sánh – lịch sử là so sánh các từ, các dạng
thức của từ tương tự nhau về ý nghĩa và âm thanh trong các ngôn ngữ khác

18
nhau dựa vào tư liệu ngôn ngữ sống cũng như những tài liệu được ghi trên văn
bia và thư tịch cổ thì nội dung của phương pháp so sánh – loại hình là so sánh
đồng đại giữa các ngôn ngữ về kết cấu (có thể về mặt ngữ âm, từ vựng, hình
thái, cú pháp hoặc ngữ nghĩa) của chúng để tìm ra những điểm giống nhau và
khác nhau giữa chúng. Từ những điểm giống nhau, người ta rút ra các phổ niệm,

tập hợp một số phổ niệm cho ta một loại hình ngôn ngữ.
- Nếu kết quả của phương pháp so sánh – lịch sử là xác định nguồn gốc lịch sử
các ngôn ngữ (hình thành các ngữ hệ (họ), các dòng, các nhánh ngôn ngữ…) thì
kết quả của phương pháp so sánh – loại hình là khái quát thành các phổ niệm và
các loại hình ngôn ngữ.
Học viên tự lấy dẫn chứng để phân tích, minh họa.

Câu 19: Vị trí của tiếng Việt trong kết quả phân loại các ngôn ngữ theo nguồn
gốc và theo loại hình? Tóm tắt giả thuyết về nguồn gốc của tiếng Việt?
Gợi ý:
- Khi phân loại các ngôn ngữ về nguồn gốc, tiếng Việt thuộc họ Môn – Khmer,
gần gũi với các ngôn ngữ Mường, Khmer, Bana, Ktu.
- Khi phân loại các ngôn ngữ về loại hình, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ
đơn lập, gần gũi với các ngôn ngữ Hán, Thái, Mường, Khmer.
- Giả thuyết có nhiều sức thuyết phục về nguồn gốc của tiếng Việt: tiếng Việt
bắt nguồn từ một ngữ hệ lớn sinh thành trong khung cảnh Đông Nam Á thời tiền
sử (gọi là ngữ hệ Nam Á) từ bờ sông Dương Tử (Trung Quốc) cho tới vùng
Atsam (Mianma), bao gồm cả Thái, Lào, Việt Nam, Campuchia… và lan tỏa tới
các bán đảo, đảo phía Nam giáp Châu Đại Dương. Về sau, ngữ hệ này phân chia
thành nhiều dòng, trong đó có dòng Môn – Khmer phân bổ ở vùng Nam Đông
Dương và vùng phụ cận vùng núi Bắc Đông Dương. Tiếng Việt từ chỗ là một
ngôn ngữ thuộc dòng Môn – Khmer (gọi là ngôn ngữ tiền Việt – Mường), đã
chuyển thành tiếng Việt Mường chung (hoặc tiếng Việt cổ) và cuối cùng tách
thành tiếng Việt và tiếng Mường.

Câu 20: Phân tích các khái niệm ý nghĩa tường minh, ý nghĩa hàm ẩn, tiền giả
định, hàm ngôn.
Gợi ý:
- Ý nghĩa tường minh là phần ý nghĩa của câu nói được bộc lộ một cách trực
tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại.

- Ý nghĩa hàm ẩn là phần ý nghĩa không bộc lộ trực tiếp do các yếu tố ngôn
ngữ đem lại mà nhờ suy ý mới nắm bắt được.

19
- Tiền giả định là những căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường
minh trong câu nói của mình.
- Hàm ngôn là những nội dung có thể suy ra từ một câu nói cụ thể nào đấy từ ý
nghĩa tường minh và tiền giả định.
Học viên tự tìm dẫn chứng để phân tích và chứng minh.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
2. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1992.
3. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Dẫn luận
ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
4. Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng – Quyển I, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1991.
5. Hoàng Tất Thắng, Giáo trình Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2003.
6. Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1989.
7. N. V. Xtankêvich, Loại hình ngôn ngữ, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1982.
8. Lê A, Đỗ Xuân Thảo, Giáo trình tiếng Việt 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.


20


B. NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT

I. NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN HỌC VIÊN CẦN NẮM VỮNG
1. Cơ sở ngữ âm
1.1. Cơ sở tự nhiên: Cơ sở cấu âm bao gồm hoạt động của bộ máy cấu âm để
sản sinh các âm thanh ngôn ngữ và cơ sở âm học bao gồm những cơ sở âm
thanh mà tai người có thể phân biệt được trong âm thanh ngôn ngữ như sự phân
biệt giữa tiếng thanh và tiếng động, độ cao, độ mạnh, độ dài và âm sắc của âm
thanh ngôn ngữ.
1.2. Cơ sở xã hội: Cách tổ chức hệ thống ngữ âm của các ngôn ngữ cụ thể,
cách xử lý ngữ âm và cách phối hợp các đơn vị ngữ âm.
2. Đơn vị ngữ âm
2.1. Đơn vị đoạn tính:
- Âm tiết (khái niệm, phân loại)
- Âm tố (khái niệm, phân loại âm tố: nguyên âm - phụ âm, các tiêu chí phân
loại nguyên âm, các tiêu chí phân loại phụ âm)
- Âm vị (khái niệm khu biệt - khái niệm âm vị - âm vị và biến thể âm vị)
2.2. Đơn vị siêu đoạn tính:
- Thanh điệu (khái niệm, phân loại)
- Trọng âm (khái niệm, phân loại)
- Ngữ điệu (khái niệm, phân loại)

3. Ngữ âm tiếng Việt
3.1. Âm tiết tiếng Việt
- Đặc điểm ngữ âm - đặc điểm chức năng – đặc điểm cấu tạo.
- Phân loại âm tiết (phân loại dựa vào số lượng thành tố - phân loại dựa vào
yếu tố kết thúc)

3.2. Hệ thống âm vị tiếng Việt.
3.2.1. Hệ thống âm đầu (đặc điểm, sự hiện thể chữ viết, biến thể âm đầu)
3.2.2. Âm đệm (đặc điểm, sự thể hiện bằng chữ viết, quan hệ giữa âm đầu và
âm đệm, quan hệ giữa âm đệm và âm chính).
3.2.3. Hệ thống âm chính (đặc điểm, sự thể hiện chữ viết, khả năng phân bố
của âm chính, biến thể của âm chính).
3.2.4. Hệ thống âm cuối (đặc điểm, sự thể hiện chữ viết, khả năng phân bố của
âm cuối, biến thể của âm cuối).

21
3.2.5. Hệ thống thanh điệu ( khả năng phân bố).
3.3. Chữ viết và chính tả.
3.3.1. Chữ viết tiếng Việt
3.3.2. Vấn đề chính tả tiếng Việt.

II. CÂU HỎI VÀ GỢI Ý
Câu 1: Trình bày về tính đơn lập của âm tiết tiếng Việt.
Gợi ý:
+ Ranh giới âm tiết rõ ràng:
- Các âm tiết tách biệt nhau rất rõ
- Âm tiết tiếng Việt không có hình thức đọc nối như trong các ngôn ngữ Ấn
Âu. (có thể dẫn một số ví dụ để so sánh)
- Lưu ý một số trường hợp 2 âm tiết tiếng Việt nhập lại thành một âm tiết.
+ Ranh giới âm tiết trùng với ranh giới hình vị:
- Âm tiết tiếng Việt có vai trò quan trọng vì ranh giới âm tiết trùng với ranh
giới hình vị (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa) cần lưu ý trong ngôn ngữ Ấn Âu đơn vị
hình vị có thể thể hiện các loại đơn vị ngữ âm khác nhau hoặc bằng môt âm vị
hoặc một số tập hợp âm vị (nhỏ hơn âm tiết), một âm tiết hoặc một tổ hợp âm
tiết (lớn hơn âm tiết). Trong tiếng Việt đơn vị có nghĩa nhỏ nhất là một âm tiết.
Trong ngôn ngữ Ấn Âu có trường hợp hình vị trùng với âm tiết nhưng đó không

phải là hình thức điển hình. Ngược lại trong tiếng Việt cũng có một số hình vị
gồm nhiều âm tiết nhưng đây là hiện tượng lẻ tẻ. Về cơ bản một âm tiết tiếng
Việt đồng thời cũng là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa và là đơn vị cơ bản để cấu tạo
từ tiếng Việt. Hơn thế nữa, trong tiếng Việt còn có sự trùng hợp một cách phổ
biến 3 đơn vị: âm tiết – hình vị - từ. Đây là cơ chế đơn tiết và là đặc điểm cơ bản
để tiếng Việt được xếp vào loại hình ngôn ngữ đơn lập.

Câu 2: Trình bày về đặc điểm cấu tạo của âm tiết tiếng Việt.
Gợi ý:
- Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ đơn tiết tính điển hình như tiếng Việt là cấu
tạo âm tiết hết sức chặt chẽ.
- Dựa vào thực tế sử dụng tiếng Việt (như cấu tạo từ láy, cấu tạo từ theo
phương thức iếc hóa, nói lái, hiệp vần thơ…) có thể phân xuất âm tiết tiếng Việt
thành 5 thành tố cấu tạo nhỏ hơn.
- Mỗi thành tố trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt có đặc điểm riêng và giữ chức
năng riêng không thể thay thế cho nhau.
1. Thanh điệu: là thành phần siêu đoạn tính, giữ chức năng khu biệt dựa vào sự
thay đổi độ cao của âm tiết.

22
2. Âm đầu: tất cả đều là phụ âm đơn, giữ chức năng mở đầu âm tiết
3. Âm đệm: khu biệt dựa vào sự thay đổi âm sắc của âm tiết (trầm hóa/ không
có hiện tượng trầm hóa)
4. Âm chính: giữ chức năng quy định âm sắc của âm tiết. Đây là âm vị âm tiết
tính.
5. Âm cuối: giữ chức năng kết thúc âm tiết.
Sơ đồ cấu tạo âm tiết tiếng Việt
Thanh điệu
F1
Vần

w
NA
F2

Cần lưu ý đến vai trò quan trọng của nguyên âm chính và thanh điệu trong cấu
tạo âm tiết tiếng Việt vì đây là 2 yếu tố không thể thiếu trong cấu tạo âm tiết
tiếng Việt. Các thành tố khác có thể có, có thể không có.
Học viên có thể vẽ sơ đồ cấu tạo âm tiết và các phân bố thành phần trong cấu
tạo để dễ hình dung hơn.

Câu 3: Sự phân bậc trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt.
Gợi ý:
- Các thành phần trong cấu tạo âm tiết được tổ chức theo các kiểu quan hệ nhất
định tạo thành các tầng bậc.
- Có thể dựa vào 2 loại quan hệ để phân bậc:
+ Dựa vào khả năng phân tách các thành tố của âm tiết theo ranh giới hình thái
học hay theo ranh giới ngữ âm học có thể phân cấu tạo âm tiết thanh hai bậc:
Bậc I: là bậc của các thành tố có ranh giới hình thái học (đường ranh giới liên
quan đến vấn đề cấu tạo từ, cấu tạo hình thái của từ). Đó là 3 thành tố: Phụ âm
đầu/ vần/ thanh điệu.
Bậc II: là bậc của các thành tố được phân chia ra trong phần vần. Đối với bậc
này ranh giới giữa các thành tố mờ nhạt hơn (ranh giới ngữ âm học). Ranh giới
này được xác đinh dựa vào thực tế của một số từ láy, đặc biệt dựa vào một số
hình thức hiệp vần thường cũng dựa vào các cách nói lái không bình thường để
tách phần vần ra thành ba thành tố nhỏ hơn: Âm đệm/ âm chính/ và âm cuối.
+ Dựa vào quan hệ thuần túy ngữ âm học theo hình thức lưỡng phân (mức độ
chặt chẽ và ít chặt chẽ) người ta chia cấu tạo âm tiết thành các bậc.
Bậc I: bậc lưỡng phân giữa hai loại đơn vị siêu đoạn và chiết đoạn.

23

Bậc II: lưỡng phân lần thứ hai trong thành phần chiết đoạn giữa âm đầu và
phần vần.
Bậc III: lưỡng phân trong cấu tạo phần vần giữa âm đệm và vần cái (vần chứa
âm chính và âm cuối) bậc lưỡng phân cuối cùng trong phần vần cái giữa âm
chính và âm cuối. Có thể hình dung như sau:


Âm tiết

Siêu đoạn chiết đoạn

Âm đầu vần

Âm điệu vần cái

Âm chính âm cuối

Ở bậc đầu tiên là bậc quan hệ giữa các thành tố lỏng lẻo nhất. Ở bậc lưỡng
phân cuối cùng là bậc của hai thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Câu 4: Dựa vào cách kết thúc âm tiết có thể phân loại âm tiết như thế nào?
Hãy thử phân loại các âm tiết trong đoạn thơ sau đây:
Nếu nhắm mắt trong vườn lộng gió
Sẽ được nghe nhiều tiếng chim hay
Tiếng lích rích chim sâu trong lá
Con chìa vôi vừa hót vừa bay.
(Trích “Nói với em”-Vũ Quần Phương)
Gợi ý:
Có 4 loại âm tiết:
- Âm tiết mở: kết thúc bằng nguyên âm (âm tiết không có âm cuối). Ví dụ: lá,
nghe, vừa…

- Âm tiết nửa mở: kết thúc bằng các bán âm (-w và –j). Ví dụ: nếu, nhiều,
hay,…
- Âm tiết nửa khép: kết thúc bằng các phụ âm vang (m, n, η). Ví dụ: nhắm,
vườn,…
- Âm tiết khép: kết thúc bằng phụ âm tắc vô thanh (p, t, k,…). Ví dụ: mắt, hót,
lích rích,… (các ví dụ lấy từ đoạn thơ).


24
Câu 5: Trình bày sự khác nhau giữa phụ âm và nguyên âm tiếng Việt về cấu
âm và về chức năng cấu tạo âm tiết.
Gợi ý:
- Sự khác nhau giữa phụ âm và nguyên âm tiếng Việt về mặt cấu tạo âm âm
học.
+ Về mặt cấu âm:
Khi phát âm nguyên âm luồng hơi thóat ra tự do, khi phát âm phụ âm luồng
hơi bị chặn ở một điểm nào đó trong bộ máy cấu âm. Vì vậy phụ âm có tiêu
điểm cấu âm còn nguyên âm thì không có.
Khi phát ra nguyên âm luồng hơi đi ra yếu còn khi phát ra phụ âm luôngd hơi
đi ra mạnh.
Khi phát âm nguyên âm bộ máy cấu âm căng đều còn khi phát âm phụ âm độ
căng thường tập trung ở tiêu điểm cấu âm (điểm chặn khi cấu âm).
+ Về mặt âm học:
Nguyên âm chủ yếu đợc tạo ra bởi tiếng thanh còn phụ âm chủ yếu được tạo ra
bởi tiếng động.
+ Về chức năng cấu tạo âm tiết:
Nguyên âm gĩ vai trò âm chính (âm vị âm tiết tính) còn phụ âm vẫn giữ vai trò
âm phụ (cần lưu ý trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt nguyên âm luôn luôn giữ vai
trò âm chính (đỉnh âm tiết), trong một số ngôn ngữ các phụ âm vang / l, r / cũng
có thể giữ vai trò âm chính trong âm tiết).

Nguyên âm là yếu tố không thể thiếu trong cấu tạo âm tiết tiếng Việt (âm tiết
đơn giản nhất gồm 2 thành tố nguyên âm và thanh điệu) còn phụ âm có thể có
hoặc không.
Lưu ý: Học viên có thể trình bày thêm đặc điểm lưỡng khả của các bán âm
(bán âm đệm và bán âm cuối) trong tiếng Việt.

Câu 6: Trình bày về sự thể hiện chữ viết các âm đầu tiếng Việt.
Gợi ý:
- Nêu nhận xét chung về nguyên tắc chữ viết tiếng Việt: chữ viết ghi âm tố,
mỗi âm được thể hiện bằng một ký hiệu chữ viết.
- Tuy nhiên trong thực tế tình hình phức tạp hơn. Một số âm được thể hiện
bằng tổ hợp con chữ, ví dụ: / t / - th; / c / - ch; một số âm khác có nhiều cách thể
hiện bằng chữ viết khác nhau, ví dụ: / k / thể hiện bằng 3 hình thức c , k , q ,
ngược lại một con chữ có thể lại có nhiều âm trị khác nhau, ví dụ: con chữ g ghi
2 âm / j / và /z/

25
- Cần lưu ý trong các âm vị có nhiều hình thức chữ viết, trừ trường hợp của âm
/z/ ra, các trường hợp còn lại đều có quy luật phân bố chặt chẽ. Cần phải giúp
học sinh nắm vững điều này để có thể viết đúng chính tả.

Câu 7: Trình bày về quan hệ giữa âm chính và âm đệm / - w - / và hai bán
nguyên âm cuối / -w - / và / -j / (trình bày khả năng phân bố giữa các âm chính
với âm đệm / - w - / và hai bán âm cuối / -w / và / -j / )
Gợi ý:
Giữa âm chính với âm đệm và 2 bán âm cuối có những hạn chế trong điều kiện
phân bố như sau:
- Nguyên âm dòng sau tròn môi / u, o, □, uo/ không kết hợp với âm đệm / -w-/
và bán âm cuối / -w /. Đây là quy luật dị hóa trong phân bố (các nguyên âm có
tính chất giống nhau (cùng là dòng sau tròn môi) không kết hợp với nhau)

- Nguyên âm / / và // không kết hợp với âm đệm.
- Nguyên âm /  / ít kết hợp với bán âm cuối / -w /
- Nguyên âm dòng trước / i, e, ε, ie / không kết hợp với bán âm cuối / -j / (cũng
theo quy luật dị hóa như trên).
- Các nguyên âm dòng giữa (trừ / /và // như trên) đều có thể kết hợp với
âm đệm và 2 bán âm cuối / -w /, / -j /

Câu 8: Trình bày sự thể hiện chữ viết của các âm chính trong tiếng Việt.
Gợi ý:
- Cũng như phụ âm, các nguyên âm tiếng Việt ngoài những trường hợp tuân thủ
nguyên tắc một âm một chữ còn có những trường hợp phức tạp khác như :
- Nguyên âm đôi ie có 4 cách viết, iê, yê, ya, ia, nguyên âm đôi /uo/ có 2 cách
viết uô và ua, // có 2 cách viết ươ, ưa theo những điều kiện phân bố khác
nhau.
- Nguyên âm / / có hai cách thể hiện bằng chữ viết e và a
- Nguyên âm /i/ có hai cách thể hiện bằng chữ viết : i và y
- Nguyên âm /ă / có hai cách thể hiện bằng chữ viết ă và a

Câu 9: Trình bày những hiểu biết của anh chị về thanh điệu và thanh điệu tiếng
Việt.
Gợi ý:
- Nêu khái niệm thanh điệu.
- Đặc điểm cấu âm của thanh điệu: Sự thay đổi tần số rung động của dây thanh.

×