Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Cty XNK thuỷ sản Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.9 KB, 96 trang )

Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý cuả Nhà nớc,
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại và cạnh
tranh để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản cuả chủ sở hữu. Để
làm đợc điều này, các doanh nghiệp đã luôn phải vận động và sự phát triển cuả
các doanh nghiệp lại hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động tài chính nói
chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cuả doanh nghiệp.
Sử dụng vốn có hiệu quả trở thành một vấn đề sống còn với mỗi doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trờng. Một doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả
cũng có nghĩa là doanh nghiệp đó đã đứng vững đợc và phát triển trong cạnh
tranh. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luôn là mục tiêu phấn đấu cuả tất
cả các doanh nghiệp.
Nhận thức đợc tầm quan trọng cuả vấn đề sử dụng vốn đối với các doanh
nghiệp, cùng với những kiến thức đợc trang bị tại nhà trờng, em đã chọn thực tập
tốt nghiệp cuối khoá tại Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội
SEAPRODEX Hà Nội, để đi sâu nghiên cứu vấn đề này em đã chọn đề tài:
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty xuất nhập
khẩu thuỷ sản Hà Nội làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp cuả mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề bao gồm:
Chơng 1: Những luận cứ khoa học về vốn và sử dụng có hiệu quả vốn cuả
doanh nghiệp.
Chơng 2: Thực trạng sử dụng vốn cuả Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội
trong thời gian vừa qua.
Chơng 3: Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cuả
Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội trong thời gian tới.
Với sự hớng dẫn tận tình cuả thầy giáo- PGS.TS Nguyễn Hữu Tài và sự giúp
đỡ nhiệt tình cuả các cán bộ phòng Tài chính- Kế toán ở Công ty xuất nhập khẩu
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính


Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
thuỷ sản Hà Nội, em đã hoàn thành chuyên đề này. Do còn hạn chế về mặt hiểu
biết và thực tiễn nên bài viết cuả em không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong đợc sự góp ý, bổ sung cuả các thầy cô giáo để chuyên đề cuả em đợc hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Chơng 1: Những luận cứ khoa học về vốn và sử dụng
có Hiệu quả vốn cuả doanh nghiệp
1.1 Tổng quan về vốn cuả doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về vốn
Hiểu một cách khái quát, vốn là bộ phận tài sản đợc dùng để sản xuất, kinh
doanh. Vốn tồn tại dới hai hình thức: vốn vật chất và vốn tài chính.
Vốn tài chính là vốn tồn tại dới hình thức tiền tệ hay các loại chứng khoán,
còn vốn vật chất là vốn tồn tại dới hình thức các yếu tố vật chất cuả quá trình
sản xuất, kinh doanh nh: nhà xởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu.
Vốn tài chính và vốn vật chất có quan hệ với nhau: Vốn tài chính là điều
kiện, tiền đề để có vốn vật chất. Muốn sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp
phải có vốn tiền tệ với một lợng đủ lớn, nhờ đó doanh nghiệp có thể mua đợc
các yếu tố vật chất cuả quá trình sản xuất, tức là chuyển hoá thành vốn vật chất.
Tuy nhiên, không phải bao giờ các doanh nghiệp cũng có thể
tìm ngay đợc trên thị trờng các loại máy móc, thiết bị họ cần mà có thể phải đặt
hàng cho các cơ sở sản xuất, nhất là các thiét bị đặc chủng. Nói cách khác, trong
ngắn hạn không phải bao giờ vốn tài chính cũng có thể chuyển hoá thành vốn
vật chất. Vốn vật chất luôn bị hao mòn ( hữu hình hoặc vô hình ) phải không

ngừng đổi mới cùng với sự phát triển cuả khoa học công nghệ. Còn vốn tài chính
không có sự thay đổi về chất mà cần đợc bảo toàn và tăng lên về lợng. Vốn tài
chính và vốn vật chất không ngừng chuyển hoá lẫn nhau và tốc độ chuyển hoá
đó là một nhân tố quan trọng quyết định mức sinh lời.
Phân biệt một số khái niệm về vốn
a.Vốn cố định
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản cố định cuả doanh nghiệp,
tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh, nhng về mặt giá trị lại không
chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
sản xuất. Vốn cố định này trở về tay ngời chủ doanh nghiệp từng phần một, dới
hình thái tiền tệ sau khi đã bán hàng hoá.
Vốn cố định đợc luân chuyển giá trị dần từng phần dới dạng chi phí khấu hao
tơng ứng với phần giá trị tài sản cố định bị hao mòn. Khi tham gia vào quá trình
sản xuất, kinh doanh, vốn cố định bị tách thành 2 phần:
Một bộ phận giá trị tơng ứng với phần giá trị hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành
sản phẩm và tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản phẩm đợc tiêu thụ. Quỹ
này dùng để tái sản xuất tài sản cố định nhằm duy trì năng lực vốn sản xuất cuả
doanh nghiệp.
Bộ phận còn lại đặc trng cho phần giá trị còn lại cuả TSCĐ, đợc cố định
trong hình thái hiện vật cuả TSCĐ. Các chu kỳ sản xuất cứ tiếp diễn, quỹ khấu
hao cơ bản ngày càng gia tăng, còn giá trị còn lại cuả TSCĐ lại giảm dần. Quá
trình này kết thúc khi TSCĐ đợc khấu hao hết.
Vốn cố định là bộ phận quan trọng trong toàn bộ vốn cuả doanh nghiệp. Sự
vận động cuả nó lại tuân theo quy luật riêng, vì vậy việc quản lý và sử dụng vốn
cố định có ảnh hỏng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Ngoài ra, vốn cố định có tác dụng rất lớn đối với việc phát triển xã hội, nó đóng

góp vai trò quan trọng và quyết định trong việc cơ giới hoá, tự động hoá sản
xuất, kinh doanh. Việc tăng cờng quy mô và hiệu quả sử dụng vốn cố định có
tác dụng trực tiếp đối với việc nâng cao năng suất lao động và chất lợng sản
phẩm làm tăng tích luỹ cho doanh nghiệp. Do ở vị trí then chốt và đặc điểm vận
động cuả nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên việc quản lý vốn cố định đợc
coi là một trọng điểm cuả công tác tài chính doanh nghiệp.
b.Vốn lu động
Vốn lu động là một bộ phận cuả vốn sản xuất mà giá trị cuả nó sau một kỳ
sản xuất có thể hoàn lại hoàn toàn cho chủ sở hữu dới hình thức tiền tệ sau khi
hàng hoá đã bán xong. Vốn lu động là biểu hiện bằng tiền cuả tài sản lu động
( TSLĐ ) trong quá trình sản xuất ( bán thành phẩm ) và TSLĐ trong quá trình lu
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
thông ( thành phẩm, hàng hoá, tiền tệ và vốn trong thanh toán) nhằm phục vụ
cho quá trình sản xuất, kinh doanh cuả doanh nghiệp một cách thờng xuyên, liên
tục.
Vốn lu động và vốn cố định khác nhau ở phơng thức chu chuyển về mặt giá
trị cuả từng bộ phận vốn. Trong hai loại vốn này, vốn cố định có đặc điểm chu
chuyển chậm hơn vốn lu động. Trong khi vốn cố định chu chuyển một vòng thì
vốn lu động đã chu chuyển đợc nhièu vòng. Do vậy, việc tìm mọi biện pháp để
tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lu động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Vốn lu động luôn đợc chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu từ
hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật t hàng hoá và cuối cùng lại trở về hình
thái tiền tệ ban đầu cuả nó. Quá trình sản xuất, kinh doanh cuả doanh nghiệp
diễn ra liên tục, không ngừng cho nên vốn lu động cũng tuần hoàn không ngừng
có tính chất chu kỳ, thành chu chuyển cuả tiền vốn. Do sự chu chuyển không
ngừng nên vốn lu động thờng xuyên có các bộ phận tồn tại cùng một lúc, dới

các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất và lu thông. Các giai đoạn
vận động cuả vốn đợc đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất đợc lặp đi lặp lại.
Vốn lu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
Việc tổ chức và quản lý vốn lu động trong quá trình sản xuất kinh doanh
cũng là khâu rất quan trọng. Ngời quản lý phải biết xác định chính xác nhu cầu
vốn lu động tối thiểu, đảm bảo đủ vốn lu động cho quá trình sản xuất kinh
doanh đợc liên tục, tránh ứ đọng, đồng thời phải có giải pháp thích ứng nhằm
quản lý và sử dụng vốn lu động một cách có hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển vốn. Doanh nghiệp sử dụng vốn lu động càng có hiệu quả thì càng sản
xuất ra nhiều sản phẩm , điều đó thể hiện tốt sự kết hợp hài hoà quá trình mua
sắm và tiêu thụ.
c.Vốn tự có
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi hình kinh doanh và mọi thành phần kinh
tế, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải có vốn tự có
Đối với DNNN : Vốn tự có là giá trị thực có cuả vốn điều lệ do Nhà nớc quy
định và đợc Ngân sách Nhà nớc cấp phát.
Đối với Công ty cổ phần : Vốn tự có hình thành từ vốn cổ phần.
Đối với doanh nghiệp t nhân : Vốn tự có là vốn riêng cuả chủ sở hữu
Nói chung vốn tự có là bộ phận vốn quan trọng thể hiện hình thức tiền tệ nằm
trong tổng vốn hoạt động cuả doanh nghiệp.
Ưu điểm cuả vốn tự có :
Vốn tự có càng lớn, doanh nghiệp càng đỡ phải đi vay, giảm đợc chi phí đầu
vào mà vẫn mở rộng đợc sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh, vốn tự có
không chỉ là cái lá chắn chống lại những rủi ro cuả thơng trờng mà còn là cơ sở
cho sự giám mạo hiểm để thực hiện những tính toán có lợi trong sản xuất kinh
doanh. Ngợc lại, vốn tự có càng mỏng thì rủi ro trong kinh doanh càng lớn. Chi

phí phải trả vốn đi vay làm giảm một phần quan trọng thu nhập cuả doanh
nghiệp. Liên hệ với thực tiễn nớc ta, vốn tự có cuả các doanh nghiệp Nhà nớc
quá mỏng, vốn vay Ngân hàng chiếm tới 70-80% tổng mức vốn hoạt động. Do
đó tỷ suất lợi nhuận cuả các doanh nghiệp rất thấp, ít có khả năng tăng thêm để
thực hiện tái sản xuất mở rộng.
Có vốn tự có lớn, các doanh nghiệp mới xây dựng đợc cơ sở vật chất khang
trang, mua sắm đợc những trang thiết bị tối tân phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có những rủi ro bất thờng, vốn tự có cuả
mỗi doanh nghiệp dày hay mỏng chính là cái đệm chống đỡ những cú đánh cuả
thơng trờng. Đồng thời vốn tự có còn là nguồn nội lực để các doanh nghiệp dám
chấp nhận mạo hiểm, không ngại trả giá để chớp lấy những thời cơ lớn có lợi
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
trong kinh doanh . Nói nh vậy để thấy rằng trong kinh doanh tiền tệ vốn tự có có
ý nghĩa rất to lớn.
Khi đề cập đến nguồn vốn tự có, không thể không nói đến nguồn lực con ng-
ời- đây là nguồn vốn tự có quý giá nhất.
Trong việc sử dụng nguồn vốn tự có, ngoài vốn bằng tiền, các doanh nghiệp
cần tích cực bồi dỡng để khai thác những nguồn vốn tự có hữu hình và vô hình
khác. Đó là sự nâng cao chất lợng và trình độ nguồn nhân lực tự có bằng cách
bồi dỡng cập nhật các kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng vận hành, kỹ thuật kinh
doanh, nghệ thuật giao tiếp cho đội ngũ cán bộ nhân viên cuả mình. Danh tiếng
và uy tín cuả doanh nghiệp cũng là vốn tự có vô hình, mỗi thành viên trong
doanh nghiệp cần luôn luôn vun đắp, giữ gìn.
Xu hớng cuả thế giới ngày nay là tiến tới tri thức và toàn cầu hoá, dựa trên
nền tảng những thành tựu cuả khoa học và công nghệ. Xu hớng này đang chi
phối tất cả các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục...Lĩnh vực

nào, tổ chức nào không thích ứng với nó sẽ dễ dàng bị rớt lại phía sau hoặc bị
nhấn chìm bởi những đợt sóng cách mạng công nghệ diễn ra dồn dập, liên tiếp.
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào, vốn là một yếu tố rất quan trọng. Song yếu tố
quyết định là những con ngời biết điều hành nguồn vốn một cách thông minh,
sáng tạo nhằm giảm thiểu rủi ro, giành thắng lợi cao nhất trong cạnh tranh. Bởi
thế, các nớc ASEAN đã nhận định : Vấn đề trung tâm hiện nay là nâng cao
chất lợng và trình độ nhân lực. Mỗi doanh nghiệp cần gắng sức bồi dỡng toàn
diện nguồn nhân lực con ngời- nguồn vốn tự có quý giá cuả mình trong tiến
trình hội nhập.
d.Vốn điều lệ
Trong nhiều diễn đàn và trong công luận ở nớc ta, ngời ta bàn đến khá nhiều
về vốn điều lệ. Tình trạng khó khăn trong kinh doanh cuả doanh nghiệp, lợi
nhuận thấp, hàng hoá tiêu thụ chậm, không đổi mới đợc dây chuyền, thiết
bị...ngời ta cũng cho rằng do vốn điều lệ cuả doanh nghiệp thấp, do ngân sách
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
không cấp đủ vốn cho doanh nghiệp, do doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng
vốn vay Ngân hàng...Vậy vốn điều lệ là gì ?
Một doanh nghiệp,dù là thành lập mới hay thành lập lại đều phải có một số
vốn điều lệ nhất định, theo quy định trong điều lệ cuả doanh nghiệp. Số vốn này
thờng cao hơn hoặc bằng vốn pháp định- một số vốn theo quy định cuả pháp luật
đối với mỗi loại hình doanh nghiệp.
Đối với Việt Nam, vốn điều lệ cuả doanh nghiệp Nhà nớc do Ngân sách Nhà
nớc cấp. Việc quản trị số vốn đó do Hội đồng quản trị cuả doanh nghiệp và cục
quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp Nhà nớc quản lý.
Đối với doanh nghiệp t nhân ở dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn hay doanh
nghiệp t nhân do 1-2 thể nhân, cá nhân bỏ vốn thành lập và tổ chức hoạt động
thì số vốn họ bỏ ra là vốn điều lệ. Cá nhân đó tự bỏ vốn ra, tự quản trị và điều

hành doanh nghiệp cũng nh tự quản trị số vốn đã bỏ ra. Đối với doanh nghiệp t
nhân ở dạng Công ty cổ phần, vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp. Cuối mỗi
năm tài chính, lợi tức cũng phải đợc chia cho các cổ đông theo cổ phần do họ
góp vào. Mức cụ thể do Hội đồng quản trị, Đại hội cổ đông quyết định trên cơ
sở lợi nhuận sau thuế, việc để lại các quỹ theo chiến lợc kinh doanh và theo luật
định.
e.Vốn pháp định
Vốn pháp định là số vốn đầu t tối thiểu mà pháp luật quy định phải có để
thành lập doanh nghiệp. Nh vậy, nếu pháp luật quy định vốn pháp định, thì nó
trở thành một trong những điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
Xét theo quan niệm pháp lý truyền thống, thì mục đích cuả yêu cầu về mức
vốn tối thiểu phải có nh một điều kiện thành lập doanh nghiệp là để bảo vệ lợi
ích cuả chủ nợ. Về sự cần thiết cuả vốn pháp định ở Việt Nam, có nhiều ý kiến
khác nhau:
Có ý kiến cho rằng: vốn pháp định còn có các mục tiêu khác nh: đảm bảo uy
tín cuả doanh nghiệp đối với khách hàng hoặc làm cơ sở để cho vay nợ.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Có ý kiến lại khẳng định sự cần thiết cuả vốn pháp định bằng một luận điểm
là kinh doanh thì phải có vốn, nên pháp luật cần phải có quy định về vốn pháp
định .
Một ý kiến khác lại cho rằng: cần phải có vốn pháp định, vì nếu không, thì
những ngời không có vốn cũng thành lập đợc doanh nghiệp.
Không thể phủ nhận rằng: kinh doanh phải có vốn, nhng việc kinh doanh đòi
hỏi phải có vốn và việc đặt ra một mức vốn tối thiểu làm điều kiện để thành lập
doanh nghiệp là 2 vấn đề không giống nhau.
Vốn pháp định phải có cho một doanh nghiệp thành lập là một quy định cuả
pháp luật để ràng buộc trách nhiệm dân sự, thậm chí cả trách nhiệm hình sự khi

cần thiết đối với một doanh nghiệp có sự vi phạm. Tuy vậy, nếu pháp luật đặt ra
vốn pháp định nh một điều kiện để thành lập doanh nghiệp, thì nó lại gây không
ít tác động tiêu cực cho các nhà đầu t.
Tác hại đầu tiên mà quy định về vốn pháp định có thể gây ra là ngăn cản việc
thành lập doanh nghiệp mới. Việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định có nghĩa là
chính sách cuả Nhà nớc đã quá nhấn mạnh tới nguồn vốn bằng tiền và đánh giá
thấp các loại vốn vô hình nh: sáng kiến kinh doanh, trình độ và kỹ năng quản lý
kinh doanh. Trong khi đó, sáng kiến và sáng tạo trong kinh doanh cũng nh khả
năng quản lý lại là yếu tố không thể thiếu đợc, có khi lại là yếu tố quyết định
trong thành lập doanh nghiệp.
Việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định sẽ là một trong những hạn chế đối với
thành lập doanh nghiệp ở những vùng nông thôn, vùng có thu nhập thấp. Do đó,
việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định sẽ góp phần làm giảm khả năng khai thác
các tiềm năng cuả vùng nông thôn, qua đó ảnh hởng không tốt đến phát triển
kinh tế nông thôn.
Vốn pháp định có thể gây nhầm lẫn đối với chủ nợ không có kinh nghiệm,
qua đó có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp cuả họ. Ngoài ra, việc thực hiện
quy định về vốn pháp định đòi hỏi ngời thành lập doanh nghiệp phải làm thêm
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
nhiều thủ tục khi thành lập doanh nghiệp, làm cho chi phí để thành lập doanh
nghiệp tăng lên và điều đó càng làm trầm trọng thêm tác hại cuả vốn pháp định
trong việc ngăn cản thành lập mới doanh nghiệp. Ngăn cản việc thành lập mới
doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với ngăn cản sự phát triển kinh doanh, phát triển
kinh tế và xã hội nói chung.
Với những nhợc điểm này, quyết định bỏ quy định về mức vốn tối thiểu nh
một điều kiện thành lập doanh nghiệp là điều nên làm. Bảo vệ lợi ích cuả chủ nợ
là yêu cầu chính đáng nhng nên sử dụng công cụ nợ và cơ chế khác ít tốn kém

hơn và có hiệu lực hơn. Một trong những cơ chế và công cụ đó là so sánh giá trị
vốn thuộc sở hữu cuả doanh nghiệp và giá trị tổng số nợ cuả doanh nghiệp, cụ
thể là tỷ lệ số nợ phải trả trên tổng số vốn thuộc sở hữu Công ty.
1.1.2 Các nguồn vốn cuả doanh nghiệp và phơng thức huy động
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp
có thể có các phơng thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị
trờng, các phơng thức huy động vốn cuả doanh nghiệp đợc đa dạng hoá nhằm
khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế.
Các nguồn vốn và các phơng thức huy động vốn mà các doanh nghiệp áp
dụng
a.Nguồn vốn chủ sở hữu cuả doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu cuả doanh nghiệp bao
gồm các bộ phận chủ yếu:
Vốn góp ban đầu
Lợi nhuận không chia
Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới
* Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp đợc thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một
số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn
vốn chủ sở hữu cuả doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
cuả doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và cách thức
tạo vốn cuả bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nớc, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu t ban đầu
cuả Nhà nớc. Chủ sở hữu cuả các doanh nghiệp Nhà nớc là Nhà nớc .
Đối với các doanh nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có
một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp.

Chẳng hạn, đối với Công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để thành lập Công ty.Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu cuả Công ty và
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên,
các Công ty cổ phần cũng có một số dạng tơng đối khác nhau, do đó cách thức
huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp khác
nh Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty có vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, các
nguồn vốn cũng tơng tự nh trên; tức là vốn có thể chủ đầu t bỏ ra, do các bên
tham các đối tác góp,v.v...
* Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô số vốn ban đầu cuả chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy
nhiên, thông thờng, số vốn này cần đợc tăng theo quy mô phát triển cuả doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trởng
nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận đ-
ợc sử dụng tái đầu t, mở rộng sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phơng thức
tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn cuả các doanh nghiệp, vì doanh
nghiệp giảm đợc chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh
nghiệp coi trọng chính sách tái đầu t từ lợi nhuận không chia, họ đặt ra mục tiêu
phải có một khối lợng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng tăng.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Nguồn vốn tái đầu t từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện đợc nếu nh
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, đợc phép tiếp tục đầu t. Đối
với các doanh nghiệp Nhà nớc thì việc tái đầu t phụ thuộc không chỉ vào khă
năng sinh lợi cuả bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách
khuyến khích tái đầu t cuả Nhà nớc.

Tuy nhiên, đối với các Công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan
đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi Công ty để lại một phần lợi nhuận trong
năm cho tái đầu t, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ
đông không đợc nhận tiền lãi cổ phần nhng bù lại, họ có quyền sở hũu số vốn cổ
phần tăng lên cuả Công ty.
Nh vậy, giá trị ghi sổ cuả các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ
bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu
lâu dài, nhng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn cuả cổ phiếu trong thời kỳ tr-
ớc mắt do cổ đông chỉ nhận đợc một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ
tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
* Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở
hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới.Đây đợc coi là hoạt động tài trợ dài hạn
cuả doanh nghiệp. Có nhiều loại cổ phiếu khác nhau và mỗi loại có đặc trng
riêng cuả nó.
- Cổ phiếu thờng
Cổ phiếu thờng ( còn gọi là cổ phiếu thông thờng ) là loại cổ phiếu thông
dụng nhất vì nó có những u thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá
trình lu hành trên thị trờng chứng khoán. Cổ phiếu thờng là chứng khoán quan
trọng nhất đợc trao đổi, mua bán trên thị trờng chứng khoán.
Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có nhiều u thế so với các phơng thức huy
động vốn khác nhng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần đợc doanh
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
nghiệp cân nhắc kỹ lỡng. Một trong những quy định ràng buộc đó là giới hạn
phát hành. Lợng cổ phiếu tối đa mà Công ty đợc quyền phát hành gọi là vốn cổ
phiếu đợc cấp phép. Đây là một trong những quy định cuả Uỷ ban chứng khoán
Nhà nớc nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao

dịch chứng khoán. Tại nhiều nớc, số cổ phiếu đợc phép phát hành đợc ghi trong
điều lệ cuả Công ty; tuy nhiên, một số nớc khác không quy định ghi số lợng đó
trong điều lệ Công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trớc hết cần phải đợc đại hội
cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác.
Sau khi phát hành, phần lớn những cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu t- các
cổ đông. Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lu hành trên thị trờng.
Tuy nhiên, có thể chính Công ty phát hành mua lại số cổ phiếu cuả mình và giữ
chúng nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu đợc Công ty mua lại đó gọi là cổ
phiếu ngân quỹ. Những cổ phiếu này đợc coi nh tạm thời không lu hành. Việc
mua lại hoặc bán những cổ phiếu này phụ thuộc vào một số yếu tố nh:
- Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu t
- Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trờng
- Chímh sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính Công ty
- Tình hình trên thị trờng chứng khoán và quy định cuả Uỷ ban chứng
khoán Nhà nớc
- Mệnh giá và thị giá

Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá, giá cả cuả cổ phiếu trên thị tr-
ờng gọi là thị giá. Giá trị cuả cổ phiếu đợc phản ánh trên sổ sách kế toán cuả
Công ty gọi là giá trị ghi sổ, đó cũng chính là mệnh giá cuả các cổ phiếu đã phát
hành.Mệnh giá không chỉ đợc ghi trên mặt cổ phiếu mà còn đợc ghi rõ trong
giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán cuả Công ty. Tuy nhiên, mệnh giá
chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
cổ phiếu đợc phát hành. Thị giá phản ánh sự đánh giá cuả thị trờng đối với cổ
phiếu, phản ánh lòng tin cuả các nhà đầu t đối với hoạt động cuả Công ty.
Quyền lợi cuả cổ đông

Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thờng chính là những ngời sở hữu Công ty, do
đó họ đợc quyền tham gia quyết định những vấn đề quan trọng cuả Công ty,
thông qua việc bỏ phiếu bầu HĐQT và biểu quyết các vấn đề lớn, nh chính sách
đầu t, phân phối cuả Công ty.Với t cách ngời chủ, họ đợc quyền chia sẻ thành
quả hoạt động cuả Công ty nhng cũng phải cùng gánh vác những tổn thất cuả nó
nếu có. Nghĩa là khi Công ty làm ăn phát đạt, họ đợc hởng lợi nhuận, nhng khi
Công ty thất bại, họ sẽ thiệt thòi, còn trong trờng hợp xấu nhất là Công ty phải
thanh lý hoặc giải thể, họ là ngời cuối cùng đợc nhận những gì còn lại ( nếu có )
sau khi Công ty trang trải tất cả các khoản nghĩa vụ. Ngoài ra, mỗi khi Công ty
tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, họ đợc quyền đặt mua trớc cổ
phiếu mới tơng ứng với số cổ phần họ đang nắm giữ. Quyền này cho phép họ
duy trì đợc tỷ lệ sở hữu ban đầu mỗi khi lợng cổ phiếu phát hành tăng thêm.
Với loại cổ phiếu này, tỷ lệ cổ tức không cố định mà tuỳ thuộc vào kết quả
hoạt động dồng thời tuỳ thuộc vào chính sách phân phối cuả Công ty. Nếu
HĐQT quyết định giành phần lớn hay toàn bộ lợi nhuận để tái đầu t cho sản
xuất kinh doanh, thì ngay cả khi Công ty đang làm ăn có lãi, tỷ lệ cổ tức sẽ thấp
hoặc thậm chí bằng không. Khi đó, thay vì nhận đợc lợi nhuận trớc mắt, cổ đông
sẽ đợc hởng lợi ích lâu dài do việc tái đầu t cho tăng trởng cuả Công ty.
- Cổ phiếu u tiên
Cổ phiếu u tiên là loại cổ phiếu có cổ tức cố định, không phụ thuộc vào thu
nhập và là chứng chỉ tham gia góp vốn đối Công ty. Cổ phiếu u tiên chỉ chiếm
một tỷ lệ nhỏ trong tổng số cổ phiếu đợc phát hành.
Các cổ phiếu u đãi có thể đợc chính Công ty phát hành thu hồi lại khi Công
ty thấy cần thiết. Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu u
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
tiên, đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay đợc giảm trừ khi tính thuế thu nhập
Công ty, cổ tức đợc lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế cuả cổ phiếu u tiên,

mặc dù vậy, cổ phiếu u tiên vẫn có những u điểm đối với cả Công ty phát hành
và cả nhà đầu t.
Quyền lợi cuả cổ đông
Cổ đông u đãi, mặc dù không đợc quyền bỏ phiếu trong Công ty, nhng đợc
nhận lợng cổ tức xác định trong điều kiện bình thờng cuả Công ty. Khi Công ty
làm ăn đặc biệt phát đạt, mà tỷ lệ cổ tức cho cổ đông thờng vợt quá một mức
nào đó, thì mức cho cổ đông u đãi cũng đợc nâng lên để họ đợc tham dự vào
thành quả chung. Trong trờng hợp Công ty không đủ lợi nhuận để chi trả cho cổ
đông u đãi, thì cổ đông thờng cũng không đợc nhận cổ tức.
Khi nào các hãng phát hành và thu hồi cổ phiếu? Để trả lời câu hỏi này cần
xem xét những khía cạnh sau:
Các hãng thờng cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả
năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn
thì các Công ty thờng chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ ( mà không
tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu ). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, Công ty phải
tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và chọn cách phát hành cổ phiếu.
b. Nợ và các phơng thức huy động nợ cuả doanh nghiệp
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử
dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng; tín dụng thơng mại và vay thông qua
phát hành trái phiếu.
* Nguồn vốn tín dụng Ngân hàng
Vốn vay Ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không
chỉ đối với sự phát triển cuả bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển cuả các doanh nghiệp đều gắn
liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thơng mại cung cấp, trong đó có
việc cung ứng các nguồn vốn.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C

Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó
muốn tồn tại vững chắc trên thơng trờng. Trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp thừơng vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu
t chiều sâu cuả doanh nghiệp.
Phân loại:
- Theo thời hạn vay: Vốn vay ngân hàng bao gồm:
+ Vay dài hạn ( thờng tính từ 3 năm trở lên; có nơi tính từ 5 năm trở lên)
+ Vay trung hạn ( từ 1 năm đến 3 năm )
+ Vay ngắn hạn ( dới 1 năm )
Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống
nhau giữa các nớc và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thơng mại.
- Theo tính chất và mục đích sử dụng : Ngân hàng cũng có thể phân loại cho
vay thành các loại nh:
+ Cho vay đầu t tài sản cố định
+ Cho vay đầu t tài sản lu động
+ Cho vay để thực hiện dự án
Cũng có những cách phân loại khác nh: Cho vay theo nghành kinh tế , theo
lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều u điểm, nhng nguồn vốn này cũng
có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát
cuả ngân hàng và chi phí sử dụng vốn ( lãi suất ).
+ Điều kiện tín dụng:
C ác doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thơng mại cần đáp ứng đợc
những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng cuả ngân hàng. Doanh nghiệp phải
xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Tr-
ớc tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài

chính 42C
quan đến dự án đầu t hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp vay
vốn.
+ Các điều kiện đảm bảo tiền vay:
Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thờng yêu cầu các
doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay, phổ biến nhất là tài sản thế
chấp. Việc yêu cầu ngời vay có tài sản thế chấp trong nhiều trờng hợp làm cho
bên đi vay không thể đáp ứng đợc các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp
lý về giấy tờ, do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn
vốn tín dụng ngân hàng.
+ Sự kiểm soát cuả ngân hàng:
Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự
kiểm soát cuả ngân hàng về mục đích vay vốn và tình hình sử dụng vốn vay. Nói
chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên, trong
một số trờng hợp, điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị kiểm
soát.
+ Lãi suất vay vốn:
Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn vay ngân hàng
phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trờng trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất
vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm
giảm thu nhập cuả doanh nghiệp.
Huy động vốn từ nguồn tín dụng ngân hàng có thể đợc thực hiện theo một số
phơng thức sau:
- Vay theo từng món:
Doanh nghiệp sẽ làm đơn xin vay khi phát sinh nhu cầu bổ sung vốn với một
số lợng nhất định và một thời hạn xác định. Nếu đợc ngân hàng chấp nhận,
doanh nghiệp sẽ ký khế ớc nhận nợ và sử dụng tiền vay. Việc trả nợ đợc thực
hiện theo các kỳ hạn nợ đã thoả thuận hoặc trả vào một lần vào ngày đáo hạn.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề

Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
- Vay luân chuyển:
Khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ xung thờng xuyên trong suốt quá trình
kinh doanh và đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra thì doanh
nghiệp sẽ áp dụng vay theo phơng thức này. Theo đó, doanh nghiệp và ngân
hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời gian nhất định. Hạn mức tín
dụng đợc xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung cuả doanh nghiệp và mức cho
vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thoả
thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay nhiều lần nhng tổng các khoản nợ sẽ
không vợt quá hạn mức đã xác định.
* Tín dụng thơng mại
Tín dụng thơng mại hay còn gọi là tín dụng cuả ngời cung cấp, nguồn vốn
này đợc hình thành tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay
trả góp. Nguồn vốn tín dụng thơng mại có ảnh hởng hết sức to lớn không chỉ với
các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh
nghiệp, nguồn vốn tín dụng thơng mại dới dạng các khoản phải trả có thể chiếm
tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thơng mại là hình
thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa nó còn tạo khả
năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện
ràng buộc cụ thể có thể đợc ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp
đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên,cần nhận thấy tính chất rủi ro cuả quan hệ tín
dụng thơng mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
Chi phí cuả việc sử dụng các nguốn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất cuả
khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ đợc tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ.
Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể ẩn dới hình thức thay đổi
mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hớng
hiện nay ở Việt Nam cũng nh trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng đ-
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính

Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
ợc đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó các doanh
nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động cuả
doanh nghiệp.
* Phát hành trái phiếu Công ty
Trái phiếu là một tên chung cuả các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, bao
gồm: trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Công ty. Một trong những vấn đề cần
xem xét trớc khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều
kiện cụ thể cuả doanh nghiệp và tình hình trên thị trờng tài chính. Việc lựa chọn
trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, khả năng
lu hành và tính hấp dẫn cuả trái phiếu. Trớc khi quyết định phát hành, cần hiểu
rõ đặc điểm và u nhợc điểm cuả mỗi loại trái phiếu.Trên thị trờng tài chính ở
nhiều nớc, hiện nay thờng lu hành những loại trái phiếu doanh nghiệp sau:
- Trái phiếu có lãi suất cố định
Loại trái phiếu này thờng đợc sử dụng nhiều nhất trong các loại trái phiếu
doanh nghiệp.Lãi suất đợc ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong
suốt kỳ hạn cuả nó. Nh vậy, cả doanh nghiệp ( ngời đi vay ) và ngời giữ trái
phiếu ( ngời cho vay ) đều biết rõ mức lãi suất cuả khoản nợ trong suốt thời gian
tồn tại cuả trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thờng đợc quy định rõ.
Để huy động vốn trên thị trờng bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp dẫn
cuả trái phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào những yếu tố sau:
+ Lãi suất trái phiếu :
Đơng nhiên, ngời đầu t muốn đợc hởng mức lãi suất cao nhng doanh nghiệp
phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận đợc đối với trái phiếu cuả họ,
chứ không thể trả thật cao cho nhà đầu t.
Lãi suất cuả trái phiếu phải đợc đặt trong tơng quan so sánh với lãi suất trên
thị trờng vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu cuả các Công
ty khác và trái phiếu Chính phủ.

Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
+ Kỳ hạn cuả trái phiếu :
Đây là yếu tố rất quan trọng không chỉ đối với Công ty phát hành mà cả đối
với nhà đầu t. Khi phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thị trờng
vốn và tâm lý dân c mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý.
+ Uy tín cuả doanh nghiệp :
Không phải doanh nghiệp nào cũng thu hút đợc công chúng mua trái phiếu vì
nhầ đầu t phải đánh giá uy tín cuả doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay
không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong
việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn.
Trong việc phát hành trái phiếu, cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể
liên quan đến sức mua cuả dân chúng. Đặc biệt , ở Việt Nam khi phát hành trái
phiếu, doanh nghiệp cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều ngời có
thể mua đợc, tạo sự lu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trờng.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Trong điều kiện có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trờng không ổn định,
doanh nghiệp có thể khai thác tính u việt cuả loại trái phiếu này. Do các biến
động cuả lạm phát kéo theo sự giao động cuả lãi suất thực, các nhà đầu t mong
muốn đợc hởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trờng. Vì
vậy, một số ngời a thích trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một
vài nhợc điểm: doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay cuả trái
phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính; Việc
quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông
báo các lần điều chỉnh lãi suất
- Trái phiếu có thể thu hồi
Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu
hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu nh

vậy phải đợc quy định ngay khi phát hành để ngời mua trái phiếu đợc biết.
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại
trái phiếu. Thông thờng, ngời ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ
không bị thu hồi.
Loại trái phiếu này có những u điểm sau:
Có thể đợc sử dụng nh một cách điều chỉnh lợng vốn sử dụng. Khi không cần
thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu,tức là giảm số vốn vay.
Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này
bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó
- Chứng khoán có thể chuyển đổi
Sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên ( doanh nghiệp, ngời đầu t ) có
thể lựa chọn cách thức đầu t có lợi và thích hợp.
Có một số hình thức chuyển đổi nh:
+ Giấy bảo đảm: Ngời sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lợng cổ phiếu th-
ờng, đợc quy định trớc với giá cả và thời gian xác định.
+ Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một
số lợng nhất định các cổ phiếu thờng. Nếu thị giá cuả cổ phiếu tăng lên thì ngời
giữ trái phiếu có cơ may nhận đợc lợi nhuận cao.
Lợi ích và rủi ro cuả việc nắm giữ trái phiếu:
Lợi ích
Độ an toàn cuả việc nắm giữ trái phiếu cao hơn nhiều so với việc nắm giữ cổ
phiếu. Một trái phiếu điển hình cho phép ngời nắm giữ dự kiến đợc chắc chắn
các khoản tiền nhận đợc trong tơng lai, xác định cả về khối lợng lẫn thời gian.
Tuy nhiên, lãi định kỳ không phải là tất cả lợi ích cuả trái phiếu. Với trái phiếu,
ngời nắm giữ có thể mong đợi ba nguồn lợi tức tiềm năng:
+ Các khoản thanh toán lãi định kỳ

+ Chênh lệch giá, phát sinh khi trái phiếu đáo hạn, hoặc đợc bán ra, hoặc đợc
bên phát hành mua lại, khoản này có thể là dơng hoặc âm
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
+ Lãi cuả lãi, do tái đầu t các khoản thanh toán lãi định kỳ, khoản này tuỳ thuộc
vào lãi suất thị trờng yêu cầu tại thời điểm tái đầu t
Rủi ro
Rủi ro đáng chú ý nhất cuả trái phiếu là rủi ro lãi suất. Cụ thể là, khi lãi suất
thị trờng tăng, một mặt giá trái phiếu giảm xuống và ngời nắm giữ bị thiệt, nhng
đồng thời lãi suất tái đầu t tăng lên khiến cho các khoản lãi định kỳ sinh lời
nhanh hơn. Trái lại, khi lãi suất giảm, trái phiếu sẽ tăng giá, đồng thời lãi cuả lãi
lại giảm đi. Trong cả hai trờng hợp, rủi ro lãi suất đã tạo ra tính bấp bênh cuả
việc đạt đợc mục tiêu tài chính cuả ngời nắm giữ trái phiếu. Ngoài ra, các khoản
thanh toán lãi định kỳ có thể bị mất sức mua trong điều kiện có lạm phát.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: nợ có lợi do đợc khấu trừ thuế. Vậy phải
chăng: Đối với một doanh nghiệp, sử dụng nợ chỉ có lợi chứ không có hại? Trên
thực tế, cha hề có một doanh nghiệp nào chỉ tài trợ bằng nợ mà thờng tài trợ
bằng hỗn hợp nợ và vốn riêng bởi lẽ, không phải nợ càng nhiều thì chi phí vốn
càng thấp và giá trị cuả doanh nghiệp càng cao mà nó tồn tại một mức độ nợ tối
u sẽ làm cho giá trị doanh nghiệp đạt tối đa do tận hởng đợc khấu trừ về thuế.
Nhng nếu vợt quá tỷ lệ này thì nguy cơ không có khả năng thanh toán sẽ tăng
lên. Nh vậy, ý kiến cho rằng: Đối với một doanh nghiệp sử dụng nợ chỉ có lợi
chứ không có hại là hoàn toàn sai.
Cơ cấu tài chính cuả doanh nghiệp phản ánh thành phần và tỷ trọng cuả từng
nguồn vốn trong tổng nguồn vốn cuả doanh nghiệp tại một thời kỳ nhất định.
Khi lựa chọn cơ cấu tài chính, các nhà quản lý tài chính thờng quan tâm tới hệ
số nợ. Hệ số nợ phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa các khoản nợ phải trả với tổng
nguồn vốn kinh doanh cuả doanh nghiệp. Nhìn vào hệ số nợ, ngời ta có thể thấy

đợc khái quát chính sách tài trợ vốn kinh doanh cuả doanh nghiệp, mức độ an
toàn hay rủi ro trong kinh doanh cuả doanh nghiệp nh thế nào? Thông thờng,
các chủ nợ thích hệ số nợ vừa phải vì hệ số này càng thấp thì khoản nợ càng đợc
đảm bảo trong trờng hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
doanh nghiệp a thích hệ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và
muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hệ số này tốt nhất là nhỏ hơn hoặc
bằng 0,5, tức là cứ một đồng vốn vay nợ ít nhất phải có một đồng vốn chủ sở
hữu đảm bảo. Doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ 3 nguồn: Tín dụng Ngân hàng,
tín dụng thơng mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn Ngân hàng hoặc không sử dụng
tín dụng thơng mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thơng tr-
ờng. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thờng vay Ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên, đi vay
vốn Ngân hàng cho kinh doanh có tính hai mặt cuả nó: Doanh nghiệp sẽ bị nguy
ngập nếu công việc quản trị và điều hành sai lầm, tính toán không đúng, tiền đi
vay để đầu t không đem lại lợi tức đủ để trả lãi Ngân hàng. Khi đó Nhân hàng sẽ
tiến hành xiết nợ số tài sản hình thành từ vốn vay, xiết nợ số tài sản đầu t bằng
vốn tự có. Nh vậy, vay nợ Ngân hàng quá nhiều so với vốn tự có rất dễ đa doanh
nghiệp đến nguy cơ về khả năng thanh toán và không hiệu quả. Ngợc lại, vay
quá ít hoặc chập chờn không dám vay thì bỏ mất cơ hội kinh doanh đem lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp, mà thời cơ thì không chờ đợi ai.
Các doanh nghiệp cũng thờng khai thác nguồn vốn tín dụng thơng mại, đối
với phơng thức này, khi quy mô tài trợ quá lớn sẽ gây ra độ rủi ro rất cao, gây ra
công nợ dây da giữa các doanh nghiệp và do đó chứa đựng khả năng vỡ nợ dây
chuyền.
Ta nhận thấy: Khi doanh nghiệp sử dụng nợ để kinh doanh thì mức độ rủi ro

cao hơn so với việc doanh nghiệp dùng vốn chủ để kinh doanh. Chính vì thế,
doanh nghiệp phải biết dùng nợ để khuyếch đại lợi nhuận cho các chủ sở hữu.
Sử dụng vốn là một nghệ thuật, đó là việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong kinh
doanh. Đòn bẩy tài chính phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa tổng số nợ và tổng số
vốn hiện có cuả doanh nghiệp. Nó phản ánh trong một đồng vốn mà doanh
nghiệp hiện đang sử dụng có bao nhiêu đồng vốn đợc hình thành từ các khoản
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
nợ. Tác động cuả đòn bẩy tài chính đến lợi nhuận vốn chủ sở hữu cuả doanh
nghiệp có đặc tính hai mặt:
Trong điều kiện bình thờng, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, mức lợi
nhuận trớc thuế và lãi vay đạt đợc cuả doanh nghiệp lớn hơn lãi vay phải trả, lúc
này việc tăng thêm hệ số nợ cuả doanh nghiệp là cần thiết và rất có lợi cho
doanh nghiệp. Vì: Doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra một lợng vốn ít nhng lại đợc sử
dụng một lợng tài sản lớn, hơn nữa, sau khi trả lãi vay ở mức cố định, lợi nhuận
sau thuế và lãi vay để lại dành cho chủ sở hữu, vì vậy lợi ích cuả chủ sở hữu đợc
tăng lên đáng kể, trờng hợp này doanh nghiệp nên điều chỉnh tăng hệ số nợ.
Trong trờng hợp doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả thì doanh lợi vốn
chủ sở hữu cũng bị sụt giảm nhanh chóng vì khi đó doanh nghiệp phải sử dụng
một phần lợi nhuận làm ra để bù đắp lãi vay mà doanh nghiệp phải trả, trờng
hợp này doanh nghiệp cần giảm hệ số nợ.
1.2 Nâng cao Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cuả doanh
nghiệp.
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế chỉ ra mối quan hệ giữa kết quả sản xuất
kinh doanh ( kết quả đầu ra ) với các chi phi bỏ ra ( kết quả đầu vào ).
Hiệu quả sử dụng vốn cuả doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ sử dụng vốn cuả doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
đạt đợc kết quả cao nhất với tổng chi phí thấp nhất.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là mục tiêu cuả tất cả các doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trờng. Từng doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả làm cho toàn
bộ nền kinh tế sử dụng có hiệu quả nguồn lực cuả mình, đem lại sự tăng trởng
bền vững.
1.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cuả doanh nghiệp
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh
nghiệp. Để đạt đợc điều đó, các doanh nghiệp cần phải có một hệ thống chỉ tiêu
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính
Bản thảo chuyên đề
Nguyễn Thị Hải Vân- Tài
chính 42C
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo phản ánh và đánh giá đợc hiệu quả
kinh doanh cuả doanh nghiệp.
a..Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định thông thờng bao
gồm:
* Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định :
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định có thể tạo ra mấy đồng doanh thu
hoặc doanh thu thuần trong kỳ.

Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Vốn cố định bình quân

Trong đó vốn cố định đợc tính nh sau:
Giá trị còn lại đầu kỳ+ giá trị còn lại cuối kỳ
VCĐ bình quân trong kỳ =
2
Trờng đại học kinh tế quốc dân- khoa ngân hàng- tài chính

×