Cảm nhận tác phậm Độc Tiểu Thanh Ký của
Nguyễn Du - Bài làm 2
Bài thơ mở ra với cảnh hoang phế :
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang
Cảm xúc trước những đổi thay xã hội, cuộc đời như chớp mắt thường trở đi trở
lại trong thơ văn hậu kì phong kiến. Những “bãi bể nương dâu, bức tranh vân cầu”
(Cung oán ngâm khúc), những “cuộc hí trường”, “vũng tang thương”, “lớp sóng phế
hưng” (Thăng Long thành hoài cổ, Chơi đài khán xuân Trấn Võ, Chùa Trấn Bắc), rồi
“một phen thay đổi sơn hà” (Văn chiêu hồn) đều là dấu tích của những biến động xã
hội. Câu thơ là lời Nguyễn Du than thở cho sự tàn lụi của cái đẹp trong tâm thế chung
của thời đại bấy giờ. Hình ảnh “Vườn hoa bên Tây Hồ biến thành bãi hoang hết” (Tây
Hồ hoa uyển tận thành khư) cố nhiên chỉ có ý nghĩa tượng trưng, nhưng sao nhức
nhối, xót xa Đó là duyên cớ để sang câu sau bật lên tiếng thổn thức của trái tim nhân
hậu Nguyễn Du.
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Đây là dịch thoát nghĩa, nguyên tắc “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”. Câu thơ
nguyên tắc nổi lên một Nguyễn Du với tấm lòng đau xót, một mình trước song cửa,
viếng hồn nàng Tiểu Thanh qua một tập sách nhỏ.
Hai câu sau là hình ảnh nàng Tiểu Thanh. Nhắc đến một tài nữ có số phận oan
nghiệt, sống trước đó ba thế kỉ, Nguyễn Du chỉ gợi những nết tiêu biểu nhất :
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nàng Tiểu Thanh tiêu biểu cho những người con gái “hồng nhan bạc mệnh”.
Cái chết oan khiên của nàng để thương để tiếc cho bao người. Hơn thế nữa, ở nàng có
sự thống nhất giữa vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn. Nàng có nhan sắc, có tài văn
chương. Những vần thơ còn sót lại làm rung động trái tim người đọc các thế hệ sau.
Tiểu Thanh là hình ảnh lí tưởng của cái đẹp, là biểu hiện cái nhìn tiến bộ của Nguyễn
Du về người phụ nữ (hiện thân của cái đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ) vốn đã được biểu
hiện thành hệ thống trong thơ ông. Từ người ca nữ đất La Thành, người gảy đàn Long
Thành rồi Đạm Tiên và cao độ là nàng Kiều. Có cái gì day dứt tmãi trong hai cụm từ
đối nhau theo lối lưu thuỷ “liên tử hậu, luỵ phần dư” ? Số phận bi thảm của Tiểu
Thanh cùng tập thơ của nàng khiến cho người ta xót thương, nuối tiếc. Câu thơ không
chỉ là lòng tiếc thương mà còn hàm ý tố cáo thói tục phong kiến độc ác đã chà đạp lên
con người. Hơn thế nữa, hai câu thơ còn là sự khái quát số phận bi thảm của những
trang tài tử, những bậc nữ lưu trong xã hội xưa.
Phần sau bài thơ, cùng với sự khái quát được đẩy cao là liên tưởng của Nguyễn
Du.
Ông khái quát mối uất hận của Tiểu Thanh không chỉ là của riêng nàng chưa
tìm ra lời giải đáp (thiên nan vấn). Nỗi oan kì lạ của những con người phong vận như
nàng cũng là nỗi oan của bao người, mà Nguyễn Du vừa quan sát, vừa thể nghiệm :
Cái án phong lưu khách tự mang
“Phong vận kì oan ngã tự cư”, câu thơ nguyên tác dồi dào ý nghĩa. Nguyễn Du
khẳng định mình đứng trong số những người tài hoa, phong nhã, mà mệnh bạc. Đọc
thơ chữ Hán của ông nhiều lần ta thấy sự khẳng định ấy, nỗi đau ấy :
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm, sinh kế lưỡng mang nhiên.
(Tạp thi I)
(Bạc đầu tráng sĩ ngẩng kêu trời
Dũng khí, sinh nhai lỗ cả đôi)
Hay :
Tráng niên ngã diệc vi tài giả
Bạch phát thu phong không tự ta
(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)
(Ta cũng tài hao khi tuổi trẻ
Gió thu đầu bạc luống buồn thay)
Chính vì thế hai câu kết bài thơ là một bầu tâm sự, một cái nhìn đau đáu, một
câu hỏi cháy lòng :
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?
Nguyễn Du đau đớn khi nghĩ tới mối hận văn chương, nỗi oan phong vận của
mình sẽ bị chôn vùi trong lớp bụi của thời gian. Ông khắc khoải mong chờ một sự
cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên
tưởng tới số phận mình xem như người “cùng hội cùng thuyền”. Chiếc gạch nối xuyên
thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc,
mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn
thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nỗi đồng cảm của các thời đại với nhau.
Bài thơ với phương thức trữ tình, giọng thơ chân thành, thông cảm, xót xa có thể xem
như một biểu dương, tranh đấu cho một giá trị, một quan niệm nhân văn về người phụ
nữ nói riêng và những người tài hoa trong xã hội nói chung.
Bài thơ là lời kí thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão
lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội
phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm
thông của người đời.