Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hồn thơ Nguyễn Khuyến - Hồn thơ Tú Xương pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.4 KB, 12 trang )

Hồn thơ Nguyễn Khuyến - Hồn thơ Tú Xương


Hồn thơ Nguyễn Khuyến
Chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước vọng", là "bóng trăng trôi"dưới dòng
lũ vô tình cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở
cơn lụt lội nhân tình thế thái ngập tràn xứ sở. Ngay trong hai câu thơ hay đến sững sờ
tả cảnh đẹp hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của nước lụt Hà Nam này, Nguyễn
Khuyến cũng chỉ cốt mượn nước lụt mà gọi hồn nước về trong từ "nước vọng" để :
"Sửa sang việc nước cho yên ổn" Tâm thức "nước", "nước non", "đất nước" có thể
nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán tuy ở
đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của ông mà thôi. Trong bài thơ "Tự trào",
Nguyễn Khuyến nói thẳng ra điều cốt lõi nhất, đau đớn nhất của ông là nỗi nhục, nỗi
đau vong quốc, thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ :"Cờ đương giở cuộc không còn
nước". Vì "Không còn nước " nên vua cũng không còn thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là
quan phường chèo thôi :" Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi
thằng hề "( Lời vợ anh phường chèo). Một vị túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu,
phải tự tìm nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt vua quan thành trò hề như
thế, với Nguyễn Khuyến hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đời? Vì "Không còn nước" nên
sau hơn 12 năm làm quan tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự Đức mất và vua
Hàm Nghi ra chiếu cần vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt lòa cáo quan về ẩn
dật cùng cà thâm dưa khú. Ông buồn lặng hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành "
hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm canh,
thậm chí hoá thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả mù, giả câm giả điếc, thậm
chí giả điên kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và tay sai, như một cách yêu nước
kháng Pháp của riêng mình Nguyễn Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu thu
cũng không còn là hoa hôm nay của mình nữa, ngỗng kêu trên bầu trời quê hương dĩ
nhiên là ngỗng nước mình, chứ sao lại là ngỗng nước nào:" Mấy chùm trước giậu hoa
năm ngoái / Một tiếng trên không ngỗng nước nào" ?( Thu vịnh). Khi "Không còn
nước" nữa thì con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân, thành "ngỗng nước
nào"thôi. Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của mình xưa mà


không dám nhận, mà phải đau đớn than là "ngỗng nước nào"? Rằng người không còn
giữ được nước thì bay về làm gì ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và
hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đã mất
thì trời phỏng còn ư, mùa thu phỏng còn ư ? Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn
Khuyến như "mây côi" và "hạc độc" kia còn bị vong thân, vong quốc huống nữa là
trời đất, con người! Chúng tôi cho rằng, dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn , dù
nới rộng đề tài ra từ bản thân mình đến xã hội, từ chim hoa, xóm mạc đến nước non
hồn thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu
nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan
hoài, trào lộng mà trữ tình, kín đáo mà động vang, cô đơn mà hòa nhập, lạnh lùng mà
bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm. Bút pháp nghệ thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng
tĩnh tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả tâm, dùng cảnh ngụ tình và ngược lại của
Nguyễn Khuyến đã khiến không ít người khi tiếp cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài
đã tưởng thấu vào gan ruột. Ví như trường hợp ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu
vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm" được coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ
nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết sách giáo khoa cũng chưa thẩm hết hồn
thu Nguyễn Khuyến. Họ nhìn bằng mắt thường nên ngỡ mặt ao thu bình lặng kia là
đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà
thơ uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè nhè vậy Không, Nguyễn
Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai
hiểu. Dưới cảnh thu, ngồi nhấp chút rượu thu, câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ
mượn bề mặt tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục, quặn thắt, u uẩn, buồn
thương nơi thẳm đáy lòng mình , đặng gọi hồn nước đã mất về thương hồn thu hiển
hiện. Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đã
chết, đã bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ còn thân xác thu trong veo, cô quạnh,
vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đã hát rỗng cả
ruột gan. Tả lửa song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói thu, tả nỗi thẹn mình,
tủi lây sang thu mà phải mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng có thể gọi ba bài thơ
thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không chút thư
nhàn, đau xót quá, cảm thương nước mất mà sao thu vẫn rưng rưng tìm về, nên nhà

thơ không đừng lòng được, đành rơm rớm khóc :" Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe"?
Đừng đổ oan cho Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" vì say rượu. Mùa thu trong ba bài thơ
đẹp đến lạnh ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch, phải chăng vì mùa thu chưa chiêu
được hồn "hoa năm ngoái", chưa gọi được vía " ngỗng nước nào" ? Cám cảnh thay
nỗi " Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được" của nhà thơ, như thể ông là tù binh của cần
câu, là tù binh của chính hồn mình đang ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ
lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm,
đành giấu kín tình yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo.
Thi thoảng, ta nghe một tiếng "Cá đâu đớp động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm an
ủi mình rằng còn cá tức nhiên còn nước Vì vậy, Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân
vào hồn Thục Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước nay đến chảy máu cả đêm hè :"
Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ / Có phải tiếc
xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " ( Cuốc kêu cảm hứng ). Thương
thay cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay đi, còn kêu xé trời cao trong thảng
thốt nỗi niềm dù mùa thu đã chết. Con ngỗng vong thân, gãy cánh, đáp xuống trang
thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu
cảm hứng" thật hay, thật đoạn trường, đọc xong muốn khóc. Chúng ta thương và kính
trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông đã nén cả một nhân cánh lớn, một hồn thơ lớn,
một tri thức lớn, một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả
tâm can người đọc hôm nay.Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm
mơ " len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn, thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay
cả khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ý diễu mình, nhà thơ vẫn xót xa hỏi :" Non nước
đầy vơi có biết không ?"Chính vì nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm
như lỗi tại mình mà nước mất nhà tan, nên mượn thơ mà cả thẹn :" Áo xiêm nghĩ lại
thẹn thân già / Xuân về ngày loạn càng lơ láo ". Một người tài cao, học rộng, thương
xót, nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại
phải đưa mình ra mà diễu, mà tự cười cợt, bông phèng mình thì hẳn là phải đau đớn
lắm, khổ tâm lắm :"Mở miệng nói ra gàn bát sách / Mềm môi chén mãi tít cung thang /
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ " hoặc :" Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu / Khi
buồn ngâm láo một câu thơ ". Một người thính nhạy như Nguyễn Khuyến từng biết

nghe bằng hồn, bằng vía, chán nỗi đời đục mà giữ mình trong, đành ngụ mình, nương
mình làm "Anh giả điếc ":" Trong thiên hạ có anh giả điếc / Khéo ngơ ngơ ngác ngác
ngỡ là ngây" " Sáng một chốc lâu lâu rồi lại điếc". Phải giả mù, giả câm, giả điếc để
sống, mà vẫn sống được trong xã hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo
điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận
mình:"Mua vui lắm lúc cười cười gượng / Giả dại nhiều khi nói nói bông". Mượn sự
điên dại của " Mẹ Mốc" tỏ bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo tinh thần
mình để phơi bày "hình hài gấm vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn
:"Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa / Làm thế để cho qua mắt tục ". Mẹ Mốc ấy
là tâm hồn vằng vặc muôn sau của Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những
"** cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy", "Hội Tây" vẫn không chút bợn nhơ :" Sạch như nước,
trắng như ngà, trong như tuyết / Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ " Nhà
thơ vô cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước. Ông dùng tài thơ trào phúng vừa
hóm, sâu, vừa cay độc đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc trong tiếng cười
thâm thuý :" Ba vuông phất phới cờ bay dọc / Một bức tung hoành váy xắn ngang".
Hóa ra cái váy con ** của thời :" Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó" đã được kéo
lên thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm bình phong che mặt tham quan ô
lại đục nước béo cò. Nguyễn Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng
tiếng cười cay độc :" Có tiền việc ấy mà xong nhỉ / Đời trước làm quan cũng thế a ?"
Phải sống trong thời " ** mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc " làm sao
Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ, xót xa cả hồn thơ, đành than trời :" Thử
xem trời mãi thế này ư ?". Tìm mùa thu ẩn mình không yên ổn, núp vào mình cũng
không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào giấc mơ mà chơi trò đánh bùn sang ao bản
thể, mà lẫn lộn bóng mình với bóng người, lấy hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt
hay, rất hiện đại :" Bóng người ta nghĩ bóng ta / Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người"(
Bóng đè cô đầu).
Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở hình lẫn ở thể, ở hồn chữ
dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như :" Quyên đã gọi hè quang quác quác / Gà
từng gáy sáng tẻ tè te Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe ", " Bán buôn gió chị với
trăng dì" Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập thò " trong câu

thơ thần tình sau :"Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm / Xanh xanh như sắp thập thò
hoa". Câu thơ "sắp thập thò hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn
Khuyến. Từ đây, ta có thể thấy thi pháp " thập thò hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của
thơ ông : thập thò giữa tình và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập
thò giữa thực và hư kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào" Nguyễn Khuyến
mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một tình yêu buồn thương u uất được
thể hiện bằng nghệ thuật trữ tình trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi
sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết: " Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá / Sư cụ
nằm chung với khói mây". Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung
với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ
thứ 90 của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà
giật mình trước tấm lòng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đã có nhã ý mượn
tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh
:"Ngọn gió không nhường tóc bạc a ?". Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy
luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đã đành, mà kể cả thời
đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả, dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi
chăng nữa.,.
Hồn thơ Tú Xương
Thơ Tú Xương là một đặc sản của thời cuộc. Thời cuộc buổi Tây sang, đánh
cướp được nước ta rồi, họ hạ trại tính chuyện ăn ở lâu dài và khai thác các nguồn lợi.
Họ du nhập áp đặt lối sống của họ. Họ tạo ra một thứ người Việt tôi tớ. Làm tôi tớ mà
lại dị hợm. Dị hợm vì cơm thừa canh cặn, cũng dị hợm với lối sống học mót ngoại
bang, từ nói năng xì xồ nói ít tiếng Tây, đến ăn uống sáng rượu sâm banh tối sữa bò.
Đấy là bọn quan lại tay sai phủ, huyện, tổng đốc, nhưng đông hơn, gặp chan
chát ngoài đời và tạo nên nét đổi thay cả xã hội, lại là lớp công chức ăn lương Pháp,
ấy là các thứ thông, ký, phán, tham… cho đến các thầy cẩm, thầy cò. Lớp người này
sống ở các thành thị, làm nên nét đặc trưng của phố phường thời ấy.
Cái bối cảnh xã hội nhố nhăng tủi nhục ấy đã lọt vào tầm cảm hứng của Tú
Xương, một người sinh và sống ở phố phường Nam Định. Xã hội Nam Định cuối thế
kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi hiện lên, cụ thể, chi tiết là hiện từ thơ Tú Xương.

Và chỉ trong thơ Tú Xương nó mới phong phú, sinh động đủ cho hôm nay ta đọc mà
còn như được chung khóc cười với tác giả.
Thơ Tú Xương thành một bảo tàng nhan nhản những hiện vật thời cuộc của
riêng Nam Định và cũng là của chung điển hình cho cả nước trong cái thời bi phẫn đó.
Đạo lý băng ngoại, đồng tiền lên ngôi, chất người xuống giá. Tú Xương ngửa mặt kêu
trời cho cái mảnh đất Phố phường tiếp giáp với bờ sông:
Có đất nào như đất ấy không?
(…) Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như *** sắt
Tham lam miệng thở những hơi đồng
Tú Xương bi phẫn trong bài thơ Đau mắt:
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Giương mắt trông chi buổi bạc tình
Từ bệnh đau mắt đã thành nỗi đau con mắt lúc trông đời. Ông còn đau trong
trái tim. Đau khi đêm vắng trong tâm trí nghe vọng tiếng gọi đò trên con sông đã lấp.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Sông Lấp ấy là của Nam Định, nhưng tiếng gọi đò thì đã thành tiếng gọi hồn
sông núi của con dân cả nước. Cái giật mình Tú Xương là cái giật mình thân phận của
cả một dân tộc.
Tú Xương là nhà thơ đặc sắc của toàn dân, của mọi địa phương. Các thế hệ học
trò đều học và nhớ thơ ông.
Trong các nhà thơ viết bằng thứ chữ vuông tượng hình, ông là người đầu tiên
và cũng là cuối cùng, đã đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Ông đã mang
được chất liệu, lẫn cảm xúc hiện đại của thế kỷ XX vào các câu thơ được gọi là cổ
điển.
Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn cùng thời với ông, sinh trước ông 35 năm và mất
sau ông hai năm, tài thơ cũng cao, nhưng không giàu chất sống hiện thực bằng ông,
không đủ gay gắt việc đời như ông. Nguyễn Khuyến là ông đại khoa không có được

cái cay đắng Trần Tế Xương, hay chữ mà lều chõng đến tám khoa, từ 1885 đến 1906,
chỉ được cái tú tài.
Nỗi từng trải ấy đẻ ra cái nhìn hiện thực trào lộng vỗ mặt vào thứ khoa cử cuối
mùa, đào tạo tôi tớ cho thực dân xâm lược:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi *** vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
Đầu đối với *** là nhục thì lấy động từ ngỏng mà trả thù. Hiện thực ấy là hiện
thực của thành Nam, nó nhỡn tiền đối với Tú Xương, nơi có trường thi lôi thôi sĩ tử.

Một tỷ lệ lớn thơ Tú Xương là thơ nói việc đi thi, hỏng thi, gắn nhiều tên đất,
tên người của Nam Định. Tú Xương khi trữ tình thì còn tiêu tao ước lệ Tam Đảo Ngũ
Hồ, chớp bể mưa nguồn chứ Tú Xương khi đã hiện thực thì nhân chứng vật chứng cụ
thể lắm, chi tiết đủ độ tin cậy làm hồ sơ cho lịch sử:

Ở phố hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang

Rồi những ông lang Xán, chú ích Sinh, kẹo Thiều Châu, bánh Hanh Tụ…

Nguyên liệu tạo nên thơ Tú Xương là Nam Định. Từ Nam Định hồn thơ ông đã
ôm và đất nước, bao quát một giai đoạn lịch sử. Tú Xương hộ khẩu thường trú ở phố
hàng Nâu, ở phố hàng Nâu có phỗng sành.

Phố hàng Nâu bây giờ là phố Minh Khai, căn nhà số 280. Gia đình ông Trần
Ngọc Thành đã ở đây từ năm 1952, căn nhà sửa chữa nhiều lần, giờ đây lại xây một
căn mới phía trước. Nhưng vẫn còn giữ được căn nhà gác hai tầng của Tú Xương nằm
khuất phía sau. Khách thăm xin phép vẫn được gia chủ rộng lòng cho vào thăm.
Nhưng phải là người biết, chứ khách vãng lai đi qua ngoài phố không ai biết đây là

nơi ăn ở của Tú Xương. Căn gác đã ọp ẹp lắm. Phải chăng người chủ thổ cư này chưa
phá đi xây lại là vì trong lòng một cư dân Nam Định cũng còn lưu luyến chút hơi
hướng Tú Xương.
Thơ Tú Xương đã tạo nên phần đặc sắc cho một giai đoạn thơ ca dân tộc và
độc đáo hơn, nó đã thành tâm hồn của phố phường Nam Định. Những dấu tích còn lại
của cuộc đời ông đã thành phần tài sản quý báu của thành phố, thành sức thu hút,
thành nơi chiêm ngưỡng của đồng bào cả nước khi về Nam Định. Thời gian càng lùi
xa, đời sống văn hóa của dân ta càng được nâng cao, những dấu tích ấy càng trở nên
vô giá.
Nghĩ vậy nên mong muốn ủy ban tỉnh, ngành văn hóa nên mua lại căn nhà 280
Minh Khai, chỉ có 102 mét vuông đất, để rồi tôn tạo, phục hồi giữ lại nguyên dạng căn
nhà cũ, gắn biển kỷ niệm, gìn giữ cho đồng bào cả nước di tích của nhà thơ và cũng là
dấu vết kiến trúc một Nam Định cái thời Trời đất xoay ra phố cả làng.
Đối diện với căn nhà ở của ông Tú, bên kia đường, còn gian nhà ông ngồi dạy
học. Gian nhà giột nát, người ta đã phải trùm tấm tôn lên một nửa mái ngói, nhưng
vẫn còn tường vách rui mè cũ và phía trước, cuối cái sân con, còn một bức phù điêu
vôi vữa hình cuộn thư, có chữ triện. Mưa nắng phôi pha nhưng vẫn đủ gợi bâng
khuâng thương nhớ người xưa.

Phục chế lại nhà cửa, phục hiện và sưu tầm lại nghiên bút, lều chõng, thi cử
thuở xưa, biến đây thành bảo tàng Tú Xương, bảo tàng thơ và bảo tàng việc học. Đấy
không chỉ là tấm lòng chúng ta ghi ơn nhà thơ mà còn dấy nên niềm tự hào của con
dân Nam Định về truyền thống hiếu học tự bao đời.
Tiếng gọi đò trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm xao xuyến mọi lòng
dân Việt bởi cái âm hưởng như gọi hồn đất nước. Theo tôi đấy là bài thơ hay nhất của
Tú Xương, và cũng là bài thơ của một giai đoạn lịch sử, của hồn vía Việt Nam sâu
nặng.
Hai câu thơ trích từ bài này đã được các nhà quản lý văn hóa khắc trên bia mộ
Tú Xương, nơi vườn hoa Vị Xuyên. Ngôi mộ được di dời từ những năm đất nước còn
gian khổ. Ngày ấy có người kêu, trách ngành văn hóa: ép cụ Tú rời xa đồng ruộng,

vào nằm nơi bụi bậm thị thành, vườn hoa bóng liễu, trai gái trăng hoa. Bây giờ nhìn cả
quần thể kiến trúc nơi đây, một vùng trang trọng nhất của thành phố, nơi mọi du
khách đều đến thăm viếng, mới thấy việc chuyển mộ Tú Xương năm ấy là có lý. Chỉ
tiếc trong hai câu thơ trích, khắc quốc ngữ trên bia, có một chữ sai, nên sửa.
Trở lại bài thơ Sông Lấp, bài thơ mang hồn ông Tú. Nam Định ta nên cố định
dáng vẻ tâm hồn gọi đò đêm này bằng một bức tượng Tú Xương, y phục dân tộc, chới
với gọi đò. Bức tượng nhìn ra sóng nước sông Đào, bên chỗ Cầu Đò Quan thoáng
đãng. Tú Xương gọi hồn nước. Chúng ta gọi hồn ông. Chúng ta tự hào truy lĩnh tài sản
tâm hồn ông để lại và qua bức tượng chúng ta cũng bàn giao lòng biết ơn Tú Xương
với mai sau.
Một ông Nguyễn Khuyến thì đau đáu với thời cuộc, chửi kẻ ác thâm thúy
(Hoàng Cao Khải, mụ Tư Hồng ) Một ông Tú Xương thơ hay mà thi cử thì lận đà lận
đận nên ngông cuồng trong hồn thơ. Thế đó.

×