Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NỘI DUNG CHÍNH SÁCH đào tạo và PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.97 KB, 17 trang )

NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC
1. Cấu trúc của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Cấu trúc của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực gồm các phần sau:
- Mục tiêu của chính sách
- Đối tượng áp dụng cúa chính sách.
- Các nội dung chủ yếu của chính sách
- Việc tổ chức thực hiện chính sách.
- Việc kiểm tra giám sát tình hình thực hiện chính sách
2. Phân loại chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
2.1. Phân loại theo phạm vi điều chỉnh của chính sách:
A, Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở phạm vi quốc gia
- Đây là những qui định, chế độ do Nhà nước ban hành nhằm nâng cao năng
lực về mọi mặt kỹ năng, kiến thức và tinh thần và cơ cấu nguồn nhân lực để
có thể tham gia một cách có hiệu quả vào quá trinh phát triển quốc gia.
B, Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở phạm vi địa phương
- Là những chính sách do cơ quản quản lý ở địa phương ban hành nhằm tổ
chức, thực hiện, quản lý việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở địa
phương.
C, Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi ngành
- Là những chính sách do các Bộ ban hành nhằm tổ chức thực hiện và quản lý
hoạt động đào tạo nguồn nhân lực mà cụ thể là lực lượng lao động đang làm
việc trong các ngành cả về mặt số lượng và chất lượng để có thể đáp ứng
được yêu cầu phát triển của ngành.
D, Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi doanh nghiệp
- Là những chính sách của doanh nghiệp nhằm tổ chức đào tạo nâng cao kiến
thức, kỹ năng, trình độ chun mơn lành nghề cho người lao động đang làm việc
trong doanh nghiệp để họ có thể làm việc có hiệu quả hơn trong cơng việc hiện tại
cũng như chuẩn bị những kiến thức kỹ năng cho những cơng việc ở vị trí cao hơn
trong tương lai.



2.2 Phân loại theo đối tượng thụ hưởng chính sách
Cùng với việc ban hành những chính sách chung áp dụng cho tồn bộ nguồn nhân
lực, Nhà nước cịn ban hành những chính sách riêng áp dụng đối với từng nhóm
người lao động tùy theo mục tiêu nhiệm vụ phát triển đất nước trong từng thời kỳ.
Trong thời kỳ hiện này, nước ta ban hành những chính sách đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực cho nhưng nhóm đối tượng đặc thù sau:
- Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khu vực quản lý hành chính
Nhà nước.
- Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khoa học – cơng nghệ
- Chính sách đào tạo và phát triển đội ngũ các doanh nhân
- Chính sách đào tạo và phát triển cơng nhân kỹ thuật trình độ cao
2.3. Phân loại theo qui trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
A, Chính sách thu hút trước khi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
- Đó là các chính sách nhằm tạo các điều kiện thuận lợi để thu hút, khuyến
khích mọi người tham gia vào q trình đào tạo và phát triển nhằm nâng cao
kiến thức, trình độ chun mơn lành nghề, kỹ năng. Các chính sách đó bao
gồm chính sách về đa dạng hóa các loại hình đào tạo nhằm đáp ứng được
các yêu cầu của xã hội. Các Chính sách ưu tiên đối với đối tượng chính sách,
gia đình khó khăn như cộng điểm ưu tiên, miễn giảm học phí tạo điều kiện
cho họ được học tập. Ngồi ra cịn có chế độ học bổng đối với những học
sinh đạt kết quả cao trong học tập nhằm khuyến khích động viên sinh viên
học tập. Cịn có chính sách tổ chức quản lý quỹ tín dụng cho sinh viên…
B,Chính sách trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực


-

Đây là các chính sách nhằm tổ chức, tiến hành và quản lý quá trình đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực bao gồm chính sách về kinh phí cho q trình

đào tạo và phát triển, chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách về
xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên đủ về số lượng và cao về chất lượng, tổ
chức đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng viển. chính sách về

thiết kế nội dung và phương pháp dạy học.
C, Chính sách sau đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
- Đây là những chính sách sắp xếp, bố trí, sử dụng những người đã được đào
tạo một cách hợp lý để có thể phát huy những kiến thức, kỹ năng, trình độ
chun mơn lành nghề, năng lực của họ thực hiện cơng việc phù hợp với
năng lực trình độ của họ.
3. Phân tích thực trạng chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của
Việt Nam.
3.1 Thực trạng chính sách thu hút đầu vào trước khi đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam.
A, Các chế độ chính sách ưu tiên về cộng điểm khi tuyển sinh cho thí sinh theo
khu vực
Nước ta hiện nay là một nước đang phát triển nên nhiều vùng địa phương điều kiện
kinh tế chưa phát triển, cơ sở hạ tầng về giáo dục ở những vùng này cịn rất thiếu
thốn, có những nơi học sinh phải đi từ sáng đến trưa mới đến được trường lớp.
Đồng thời do sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng. Có những vùng người dân
phải lo kiếm sống để đảm bảo cuộc sống nên khơng có điều kiện học tập. Do đó ở
những vùng đó điều kiện học tập khơng thể bằng những khu vực thành thị có điều
kiện học tập tốt. Chính vì vậy trong khi tuyển sinh Bộ giáo dục và đào tạo có chế
độ ưu tiên về điểm cho những thí sinh thuộc những vùng có điều kiện khó khăn để
nhằm đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện cho các thí sinh ở
khu vực khó khăn có cơ hội học đại học.


 Khi tuyển sinh vào đại học, các thí sinh được phân chia theo các khu vực 4
khu vực:

- “ Khu vực 1 (KV1) gồm các xã, thị trấn thuộc miền núi, vùng cao, vùng sâu,
hải đảo, trong đó có các xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn theo quy định của Chính phủ. Các thí sinh thuộc KV 1 được cộng
1,5 điểm xét tuyển.
- Những thí sinh thuộc khu vực 2 (KV2) gồm các thành phố trực thuộc tỉnh
(không trực thuộc Trung ương); các thị xã; các huyện ngoại thành của thành
phố trực thuộc Trung ương sẽ được ưu tiên cộng 0,5 điểm xét tuyển
- Các thí sinh thuộc khu vực 2 - nông thôn (KV2-NT) gồm các xã, thị trấn
không thuộc KV1, KV2, KV3 sẽ được cộng 1 điểm xét tuyển
- Khu vực 3 (KV3) gồm: Các quận nội thành của thành phố trực thuộc Trung
ương. Thí sinh thuộc KV3 khơng thuộc diện hưởng ưu tiên khu vực”.
- Dân số nước ta chủ yếu tập trung ở nông thôn, theo số liệu của Tổng cục
thống kê năm 2005 thì dân số ở khu vực nông thôn chiếm 73,03% tổng dân
số cả nước, do đó phần lớn dân số vẫn đang phải sống trong điều kiện kinh
tế xã hội cịn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Hàng năm về số lượng thí sinh
dự thi đai học, cao đẳng thì số thí sinh thuộc các khu vực được cộng điểm ưu
tiên theo khu vực chiếm 82% trong tổng số thí sinh dự thi. Như vậy, nếu
khơng cịn chế độ ưu tiên khu vực đối với các đối tượng nêu trên thì sẽ làm
cho đa số thí sinh dự thi đại học, cao đẳng phải chịu thiệt thòi, cánh cửa vào
học các trường đại học và cao đẳng sẽ trở nên hẹp lại. Từ đó khơng có cơ hội
để nâng cao trình độ, kiến thức kỹ năng cho người lao động ở các khu vực
kinh tế khó khăn.
- Ví dụ như đợt tuyển sinh 2005, khoảng cách điểm chênh lệch giữa đối tượng
được ưu tiên cao nhất với đối tượng thuộc KV 3 là 3,5 điểm, nhờ vậy nhiều
thí sinh ở KV1, KV2, KV2-NT đã vượt qua được các thí sinh ở KV 3 để vào
học các trường đại học và cao đẳng. Chính sách ưu tiên về cộng điểm khi
tuyển sinh đại học cho các thí sinh ở các khu vực khó khăn là một trong


những chính sách cần thiết nhằm tạo điều kiện cho những thí sinh ở các khu

vực mà cuộc sống cịn gặp nhiều khó khăn có thể thi đỗ và theo học ở các
trường đại học, cao đẳng. Do vậy, qui chế tuyển sinh không thể bỏ đi đối
tượng ưu tiên này mà cần phải mở rộng đối tượng ưu tiên khơng chỉ có thí
sinh thuộc vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn mà cần có cả số thí sinh
thuộc vùng kinh tế khó khăn.
B, Chính sách về miễn giảm học phí cho sinh viên thuộc đối tượng chính sách, gia
đình khó khăn.
- Để nhằm giảm bớt khó khăn về mặt kinh tế, cũng như thể hiện sự biết biết
ơn của nhà nước đối với những người có cơng với cách mạng, hiện nay nhà
nước ta có chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên thuộc đối tượng
chính sách, gia đình có cơng với cách mạng, sinh viên có hồn cảnh khó
khăn có để họ điều kiện theo học ở các trường đại học và cao đẳng. Chính
sách miễn học phí là chính sách mà đối tượng của chính sách sẽ được miễn
phí tịan phần về học phí. Ở nước ta hiện nay chế độ miễn học phí toàn phần
được áp dụng anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang và thương
binh khi theo học đại học và cao đẳng. Con thương binh, bệnh binh, con
người được hưởng diện chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ
61% đến 80% .
- Các đối tượng này được áp dụng mức miễn học phí tồn phần nhằm thế hiện
sự quan tâm của nhà nước đến những người có cơng với cách mạng. đồng
thời cũng giảm bớt gánh nặng về vấn đề học phí cho các đối tượng này khi
phần lớn là có hồn cảnh khó khăn. Chế độ miễn học phí cịn được áp dụng
đối với các sinh viên mồ côi cả cha lẫn mẹ không có nơi nương tựa, những
người bản thân bị thương tật, có khó khăn về kinh tế, khả năng lao động bị
suy giảm từ 21% trở lên và có xác nhận của hội đồng y khoa. Những đối
tượng này gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, hàng ngày họ phải làm
việc để có thể kiếm tiền ni sống bản thân, tiền để trang trải cho các sinh


hoạt hàng ngày như nơi ở, tiền ăn, tiền sách vở…Đối với các đối tượng này

thì chính sách miễn học phí thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với những
hồn cảnh khó khăn, nhằm góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội.
- Đối tượng được hưởng chính sách miễn học phí cịn gồm những sinh viên có
cả cha mẹ thường trú tại hải đảo hoặc vùng sâu, vùng cao từ 3 năm trở lên
theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. và gia đình thuộc diện nghèo đói
có thu nhập bình quân đầu người thường dưới 13 kg gạo. Đây là những gia
đình có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, sinh sống ở những nơi điều kiện kinh
tế xã hội chưa phát triển, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, đặc biệt là cơ sở hạ
tầng về giáo dục cịn rất thấp. Rất ít người ở đây được học tập và có thể theo
học đến các bậc học cao như đại học cao đẳng. Chính vì vậy khi có thể thi
đỗ vào các trường đại học và cao đẳng đã là một sự cố gắng rất lớn từ phía
các sinh viên này. Nếu như khơng có chế độ miễn học phí đối với các đối
tượng này với mức tiền học phí là 180000 đồng/sinh viên/ tháng như hiện
nay và có thể tăng lên trong tương lai thì chắc chắn những sinh viên này sẽ
phải thơi học.
=> Nhờ có chính sách này mà đã khuyến khích được các đối tượng này cố
gắng học tập, nâng cao trình độ để sau này có thể cải thiện tình trạng khó
khăn của gia đình. Nhà nước cịn có chế độ miễn học phí cho sinh viên hệ
chính quy tập trung ngành sư phạm khi vào học có cam kết sau khi tốt
nghiệp phục vụ trong ngành Giáo dục đào tạo nhằm thu hút, tạo điều kiện
cho sinh viên sư phạm sau khi ra trường sẽ phục vụ cho ngành giáo dục,
từng bước tăng số lượng giáo viên.
- Bên cạnh chính sách miễn học phí, Nhà nước cịn có chính sách giảm 50%
học phí cho các đối tượng sinh viên là con của thương binh; con của bệnh
binh và người hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 21
đến 60 %. Con cán bộ công nhân viên chức mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao
động được hưởng trợ cấp thường xun. Có gia đình (gia đình, cha, mẹ hoặc


người nuôi dưỡng) thuộc diện hộ nghèo theo qui định hiện hành của nhà

nước. Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người hàng tháng quy
đổi ra gạo: Dưới 25kg gạo ở thành thị; Dưới 20kg gạo ở nông thôn vùng
đồng bằng và trung du; Dưới 15kg gạo ở nông thôn miền núi. Một thực trạng
hiện nay đang gặp phải đối với việc thực hiện chế độ miễn giảm học phí cho
đối tượng chính sách, gia đình khó khăn đó là hiện này khơng có qui định
bắt buộc các trường ngồi cơng lập thực hiện miễn giảm như các trường
cơng lập. Các trường ngồi cơng lập khơng được nhà nước cấp ngân sách
nên việc miễn giảm học phí tùy thuộc vào khả năng của từng trường. Trong
khi đó hàng năm có rất nhiều thí sinh thuộc diện đối tượng chính sách dự thi
đại học và cao đẳng nhưng không đỗ vào các trường công lập mà theo học ở
các trường ngồi cơng lập với mức học phí cao hơn rất nhiều so với các
trường công lập ( ví dụ như đại học dân lập Văn Lang mức cao nhất là
4.400.000 đ) dẫn đến tình trạng khơng ít sinh viên học trong tư thế cầm cự
chờ đợi đợt thi sau.
C, Chế độ trợ cấp xã hội Ngoài chế độ về miễn giảm học phí cho đối tượng chính
sách, nhà nước còn ban hành chế độ trợ cấp cho các đối tượng sau:
- Sinh viên là người dân tộc ít người, liên tục ở vùng cao (KV3) hoặc có hộ khẩu
thường trú ở vùng cao (KV3) ít nhất lên 3 năm trở lên (tính đến thời điểm nhập
học tại trường); sinh viên lên người mồ côi cả cha lẫn mẹ khơng nơi nương tựa,
khơng có người đỡ đầu chính thức, người trợ cấp thường xuyên.
- Sinh viên là gười tàn tật theo quy định của nhà nước lênngười gặp khó khăn về
kinh tế, khả năng lao động bị suy giảm từ 41% trở lên do tàn tật được Hội đồng Y
khoa có thẩm quyền xác định.
- Sinh viên có hồn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, vượt khó học tập, gia đình
thuộc diện xóa đói giảm nghèo phải xuất trình giấy tờ thuộc hộ xóa đói giảm
nghèo do Sở LĐ - TB và XH cấp) Theo chế độ này thì hàng tháng mối sinh viên
sẽ được hưởng mức trợ cấp xã hội là 140.000 đồng.


=> Chế độ này nhằm góp phần giảm phần nào khó khăn về mặt kinh tế, giúp cho

sinh viên có một khoản tiền để trang trải cho cuộc sống hàng ngày, để có thể có
điều kiện học tập. Đồng thời để khuyến khích sinh viên học tập thì ngồi mức trợ
cấp xã hội hàng tháng những sinh viên thuộc diện trợ cấp xã hộ nếu kết quả học
tập đạt từ loại khá trở lên còn được nhận thêm phần thưởng khuyến khích học tập
lấy từ kinh phí học bổng với các mức là: bằng 140% mức học bổng khuyến khích
tồn phần nếu đạt loại xuất sắc; bằng 90% mức học bổng khuyến khích tồn phần
nếu đạt loại giỏi và bằng 30% mức học bổng khuyến khích tồn phần nếu đạt loại
khá. Như vậy, mục đích của chế độ trợ cấp xã hội là hỗ trợ phần nào về kinh tế
cho sinh viên có điều kiện khó khăn có thể theo học ở các bậc đại học và cao
đẳng, tạo điều kiện cho họ có cơ hội học tập nâng cao kiến thức, trình độ chun
mơn.
D, Chính sách học bổng dành cho những sinh viên có kết quả học tập tốt
- Chính sách học bổng khuyến khích được cấp cho những sinh viên có kết
quả học tập và rèn luyện tốt để nhằm khuyến khích thúc đẩy, động viên sinh
viên cố gắng phấn đấu học tập.
- Hiện nay, học bổng khuyến khích học tập hiện có 3 mức và được áp dụng
cho 3 loại đối tượng đó là “mức 120.000đ/ tháng đối với sinh viên có kết quả
học tập và rèn luyện từ 7,0 đến cận 8,0; mức 180.000đ/tháng đối với loại
giỏi từ 8,0 đến cận 9,0. và mức 240.000đ/tháng đối với loại xuất sắc đạt
điểm từ 9,0 trở lên’’
- Hiện nay chế độ học bổng khuyến khích học tập của nước ta cịn ít về số
lượng chỉ có 3 mức. Đồng thời giá trị của mức học bổng còn rất thấp chỉ đủ
trang trải một phần cho học phí, khơng có đủ để chi trả cho việc ăn ở, mua
sách vở. Với mức học phí đại học trong các trường cơng lập hiện nay là
180.000đ/ tháng như hiện nay thì chỉ có những sinh viên đạt loại xuất sắc
mới được hưởng mức học bổng cao hơn mức học phí hàng năm, nhưng mức
cao hơn này cũng chỉ rất nhỏ không đủ để trang trải bớt những chi phí học


tập cho sinh viên, mặt khác số lượng sinh viên đạt kết quả xuất sắc và được

hưỏng mức học bổng này thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số sinh viên
được hưởng loại học bổng này. Còn những sinh viên đạt loại khá và giỏi thì
mức học bổng chỉ vừa bằng mức học phí phải đóng hàng tháng hoặc ít hơn.
Một vấn đề nữa đối với chính sách này đó là học bổng hiện nay chủ yếu
được cấp dựa vào kết quả học tập của sinh viên.
- Do đó vấn đề đặt ra là những sinh viên con nhà giàu thường có đủ điều kiện
để học tập, nên kết quả học tập thường cao hơn những sinh viên có điều kiện
khó khăn ngồi thời gian học tập cịn phải tham gia làm thêm nhiều công
việc để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống và chi phí học tập cho nên điều
kiện học tập và kết quả học tập đạt được khơng thể bằng những sinh viên có
điều kiện học tập. Chính vì vây, các học bổng này thường do các sinh viên
con nhà giàu có đủ điều kiện học tập chiếm hết. Hiện nay vẫn tồn tại tình
trạng là những sinh viên giỏi công lập được Nhà nước cấp học bổng, cịn
sinh viên giỏi trong các trường ngồi cơng lập lại không được trong khi họ
cũng học giỏi.
E, Thành lập quỹ tín dụng sinh viên nhằm hỗ trợ cho sinh viên có hồn cảnh khó
khăn vay vốn học tập.
- Quỹ tín dụng sinh viên được thành lập năm 1995 theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ nhằm hỗ trợ học sinh, sinh viên có điều kiện khó khăn được vay
vốn học tập.
- Hàng năm, nhiều trường đại học chứng nhận cho khoảng 5% sinh viên là
sinh viên nghèo vay vốn Nhà nước để đảm bảo điều kiện học tập. Nếu tất cả
số sinh viên này được vay với mức 3 triệu đồng/năm thì mỗi năm Nhà nước
cần chi cho sinh viên vay khoảng 100 tỷ đồng và sẽ tạo điều kiện học tập
đến cho khoảng 40 nghìn sinh viên.
- Tính đến tháng 5/2002 Quy đã cho 41.534 HS - SV/126.789 HS - SV trong
diện được vay vốn (trong tổng số 471.562 HS - SV trên toàn quốc) vay vốn


để học tập. Tuy nhiên nguồn hình thành quỹ là do các ngân hàng phải đóng

góp theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, nhưng do chỉ thị khơng bắt buộc,
việc góp vốn hồn tồn mang tính tự nguyện vì đối tượng vay là sinh viên,
lãi suất thấp, rủi ro cao và chủ yếu là mang tính chất xã hội nên các ngân hàn
khơng hào hứng tham gia. Chính vì vậy cho đến hiện nay thì quỹ đã cạn kiệt
và trong tình trạng chi vượt thu. Cụ thể là đến ngày 30/6/2002 tổng số vốn
của quỹ là 65,5 tỷ dồng, trong khi số tiền cho vay là 76,6 tỷ đồng và khoản
tiền thu nợ là 6,5 tỷ đồng. Như vậy, quỹ tín dụng sinh viên đã phải cho vay
vượt quá nguồn vốn thực có là 4,6 tỷ đồng. Như vậy nêu trong thời gian tới,
nhà nước khơng có những biện pháp nhằm thu hút và bổ sung vốn cho quỹ
thì sẽ có hàng chục nghìn sinh viên đang theo học tại các trường Đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước có thể phải
thơi học vì khơng có tiền để trang trải cho chi phí học tập.
3.2Thực trạng chính sách trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam.
* Thực trạng chính sách về các nguồn kinh phí để tổ chức thực hiện quá trình đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực:
- Để tổ chức quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thì cần phải có kinh
phí để thực hiên. Hiện nay nguồn kinh phí này được huy động thơng qua nguồn
vốn ngân sách do nhà nước cấp hàng năm, học phí do học sinh và gia đình học
sinh đóng góp. Hàng năm tỷ lệ % ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo
liên tục tăng lên qua các năm. Cụ thể là năm 2002 chiếm 12,04%; năm 2003 là
12,63%; năm 2004 là 17,1%, năm 2005 là 18% và năm 2006 là 20%. Tuy tỷ lệ
ngân sách nhà nước hàng năm cấp cho giáo dục đào tạo có tăng nhưng với số
lượng trường đại học cao đẳng ngày càng tăng lên như hiện nay thì lượng vốn
ngân sách nhà nước cấp cho mỗi trường hầu như tăng không đáng kể, trong khi đó
hầu hết số vốn ngân sách nhà nước này được dùng để chi trả lương cho giáo viên
khoảng 85% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, nên phần đầu tư cho xây dựng


cơ sở hạ tầng trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo cịn rất hạn chế. Chính vì

vậy các trường phải trơng chờ nhiều vào nguồn thu học phí.
Tuy nhiên với mức học phí hiện nay mà mỗi sinh viên phải đóng là 1,8 triệu đồng/
năm là cịn rất thấp so với mức chi phí đầu tư bình qn cho một sinh viên trường
đại học công lập là khoảng 9 triệu đồng / năm, phần còn lại là do Nhà nước bao
cấp. Điều này thực tế khơng cịn phù hợp trong điều kiện hiện nay.
Với mức đầu tư do ngân sách nhà nước cấp và mức thu từ học phí hiện này thì các
trường đại học vẫn ln trong tình trạng thiếu kinh phí, và phải co kéo giữa cac
khoản thu chi để đủ được chi phí đào tạo. Chính vì vậy dẫn đến khơng có nguồn
chi cho các u cầu học tập, thí nghiệm và trả lương đầy đủ hoặc cao để thu hút
cán bộ giảng dạy có chất lượng. Do đó để có thể tăng nguồn kinh phí cho đào tạo
thì một phương án đề ra và đang được xem xét hiện nay là điều chình tăng học phí
nhằm khai thác nguồn lực sẵn có của người dân để đóng góp vào việc nâng cao
chất lượng đào tạo.
Nhưng một vấn đề đặt ra là nếu tăng học phí sẽ dẫn đến tình trạng rất nhiều sinh
viên có điều kiện khó khăn sẽ phải thơi học vì khơng có đủ khả năng tài chính để
theo học. Đồng thời ngân sách cho giáo dục đào tạo ( ở các trường đại học công
lập hiện nay vẫn theo cách cấp phát thường niên theo như dự tóan của các trường
được tính dựa trên cơ sở đầu vào hay chỉ tiêu đào tạo được giao hàng năm. Trong
khi đó đầu vào lại do Bộ chủ quản quyết định. Như vậy thực chất số lượng ngân
sách cuối cùng vẫn do Bộ chủ quản quyết định. Các đơn vị đào tạo đại học hàng
năm lập dự tốn như một cái máy mà khơng có tính sáng tạo, tự chủ, tính tự quyết.
Vì nếu có ý kiến khác thì sẽ chỉ gặp lơi thơi trong duyệt dự tốn mà điều này thì
khơng có trường nào muốn. Do quy trình cấp phát như trên nên các cơ sở đại học
chỉ có khuynh hướng làm đúng theo hướng dẫn của cấp trên và đơn vị quản lý tài
chính để có được sự thuận lợi trong hoạt động đăng ký ngân sách mỗi năm.


Chính vì vậy để có thể huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục đào tạo cần có những biện pháp cải tiến về phương
thức cấp phát.

 Số lượng các trường đại học và cao đẳng và sự mất cân đối về cơ cấu
ngành nghề đào tạo.
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng tăng nên có rất nhiều trường đại học cao
đẳng được thành lập tăng nên với rất nhiều chuyên ngành mở ra. Theo số liệu
điều tra của Tổng cục thống kê thì năm 2004 cả nước có 230 trường đại học và
cao đẳng, đến năm 2005 đã tăng lên là 311 trường. Như vậy đã tăng lên 81
trường tương đương 35,22%. Đồng thời ngày càng có nhiều trường, các cơ sở
đào tạo ngồi cơng lập khác nhau được thành lập. Năm 2004 có 29 trường đại
học và cao đẳng ngồi cơng lập chiếm 12,61% và năm 2005 thì con số này là 37
trường chiếm 11,89%. Tuy nhiên, do sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các
trường đại học và cao đẳng, việc đưa các trường cao đẳng lên đại học và mở
nhiều đại học dân lập trong khi chưa chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết, đồng thời
chưa đổi mới về cơ chế quản lý chất lượng các trường này nên đã dẫn đến chất
lượng đào tạo của các trường này không được tốt, và xảy ra nhiều vấn đề tiêu
cực nghiêm trọng diễn ra trong một thời gian dài trong một số trường dân lập ví
dụ như có một trường ở tỉnh nọ chưa có cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng
dạy cơ hữu được phép tuyển sinh ngay một lúc đến chín ngành đào tạo, kể cả
những ngành kỹ thuật.
Việc phân bố các trường đại học cao đẳng chỉ mới tập trung ở một số trung tâm
văn hóa, kinh tế lớn là Hà nội và TP Hồ Chí Minh. Điều này dẫn tới hạn chế số
lượng sinh viên ở các vùng kinh tế khó khăn có khả năng theo học.
Hiện nay ngày càng có nhiều ngành đào tạo được mở ra đáp ứng được nhu cầu
của thị trường nhưng tồn tại tình trạng mất cơ cấu về ngành nghề đào tạo. Theo


số liệu điều tra “trong 50 năm qua chúng ta đã đào tạo được hơn 1 triệu cán bộ
các ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu là: sư phạm chiếm
33,3%; khoa học kỹ thuật là 25,5%; khoa học xã hội là 17%; y dược là 9,3%;
nông nghiệp là 8,1%; khoa học tự nhiên là 6,8%. Với một nước nông nghiệp
như nước ta hiện nay mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo

thuộc ngành nơng nghiệp thì cơ cấu trên là bất hợp lý.”
Như vậy trong thời gian tới cần có những sự điều chỉnh trong việc quản lý sự
thành lập và chất lượng của các trường đại học, cần có những biện pháp giải
quyết sự mất cân đối về các ngành nghề đào tạo.


Thực trạng về đội ngũ cán bộ giảng viên các trường đại học và cao đẳng ở

Việt Nam.
- Số lượng cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng ở Việt Nam:
Hiện nay, cùng với sự tăng lên của nhu cầu học tập nhằm nâng cao kiến thức
trình độ để đáp ứng được yêu cầu của xã hội thì quy mơ đào tạo được mở
rộng rất nhanh với nhiều trường đại học và cao đẳng được thành lập với
nhiều chuyên ngành đào tạo ra đời , đồng nghĩa với nó thì nhu cầu về đội
ngũ cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng cũng tăng lên. Nhưng trên thực tế
hiện nay ở nước ta đội ngũ giảng viên ở các trường đại học và cao đẳng cò
đang thiếu trầm trọng nhất là đối với những chuyên ngành đào tạo mới.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê thì đến năm học 2005-2006 cả
nước ta có 47.700 giảng viên đại học và cao đẳng chiếm 4.8% trong tổng số
nhà giáo ở nước ta. Với số lượng cán bộ giảng viên đại học như trên thì tỷ lệ
sinh viên/ giảng viên trung bình là 28 sinh viên/ giảng viên, đặc biệt ở một
số lĩnh vực kinh tế, dịch vụ là gần 40 sinh viên/ giảng viên trong khi tỷ lệ
này hợp lý chỉ là trung bình 15- 20 sinh viên / giảng viên.
Thực trạng đó là do trong khi qui mơ đào tạo ngày càng tăng nhưng biên chế
lại khơng tăng, vì vậy ở nước ta một giảng viên đại học phải giảng dạy quá


nhiều giờ có trường hợp lên tới 800-1.000 giờ/năm (ở nước ngồi khoảng
300-400 giờ/năm) khơng cịn thời gian tham gia nghiên cứu khoa học để
nâng cao trình độ chun mơn của mình, khơng có thời gian để cập nhật kiến

thức mới. Đặc biệt là sự thiếu hụt những giảng viên đầu ngành đã được đào
tạo một cách có hệ thống ở nước ngồi, có kinh nghiệm sư phạm là những
người thực hiện những đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp nhà nước thì
đều đã tuổi cao và đã nghỉ hưu trong khi chưa có đội ngũ cán bộ giảng viên
giỏi kế cận.
Mặt khác hiện nay biên chế giảng viên của các trường do Bộ chủ quản quyết
định nên việc các trường muốn nhận thêm giáo viên để đáp ứng yêu cầu mở
rộng qui mô đào tạo của trường thường gặp nhiều khó khăn và thường phải
đợi Bộ giao chỉ tiêu.
Do đó chính sách về chỉ tiêu cán bộ giảng viên của các trường do Bộ chủ
quản giao cho các trường đã trở nên không phù hợp với nhu cầu của các
trường, không đáp ứng được nhu cầu mở rộng qui mô đào tạo ngày càng
tăng lên hiện nay.
Nếu khơng có các biện pháp đổi mới cách thức tuyển dụng đội ngũ giảng
viên nhằm từng bước đáp ứng đủ số lượng giảng viên đại học, cao đẳng,
giảm tỉ lệ sinh viên/ giảng viên xuống còn 20 sinh viên / giảng viên. 2.3.2
Chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng của nước ta. Bên
cạnh việc thiếu giảng viên thì chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại học
vẫn chưa cao.
Hiện tại ở nước ta tỷ lệ giảng viên đại học cao đẳng chỉ có trình độ cử nhân
kỹ sư, chiếm tới 55%; trình độ trên đại học cịn rất ít cụ thể là chỉ có 13% đạt
trình độ tiến sĩ, số phó giáo sư là 4% và số giáo sư chỉ chiếm một tỷ lệ vô
cùng nhỏ là 1%. Một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng trên đó là
hiện nay nước ta đang thiếu trầm trọng đội ngũ giảng viên, nên để có thể đáp
ứng được nhu cầu đào tạo thì những giảng viên này thường phải giảng dạy


rất nhiều giờ nên khơng có thời gian để học tập nâng cao trình độ, cập nhật
kiến thức mới.
Như vậy với cơ cấu trình độ của đội ngũ cán bộ giảng viên như trên thì nước

ta đang ở trong tình trạng bất hợp lý đó là trình độ đại học dạy đại học.
Trường đại học có nhiệm vụ chính là giảng dạy và nghiên cứu khoa học,
nhưng ở nước ta công tác nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ giảng
viên đại học cịn rất ít. Ở nhiều trường đại học nước ngoài tỷ lệ thời gian của
giảng viên phân bổ cho hai nhiệm vụ này là 50/50 còn ở nước ta tỷ lệ thời
gian dành cho nghiên cứu khoa học cịn rất ít, chủ yếu thời gian của giảng
viên được sử dụng để giảng dạy, tỷ lệ này ở một số giảng viên chủ chốt ở
một số trường đã có truyền thống nghiên cứu khoa học là 70% giảng dạy và
30% nghiên cứu khoa học. Đối với đội ngũ cán bộ giảng viên đại học, thì
nghiên cứu khoa học giúp cho họ nâng cao trình độ chun mơn, cập nhật
liên tục kiến thức, làm giàu kho tàng kiến thức của minh để có thể truyền
dạy lại cho sinh viên đạt hiệu quả hơn.
- Trong những năm qua nước ta đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện
cho giảng viên trẻ đi học tập, nghiên cứu, tham gia hội nghị, hội thảo trao
đổi kinh nghiệm ở nước ngoài như hỗ trợ về mức phí. Chính sách này cần
được tiếp tục thực hiện nhằm góp phần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ
giảng viên tiến tới thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ
lên 30% và trình độ tiến sĩ lên 20% vào năm 2008.
- Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên
chưa cao đó là do chế độ lương và thu nhập của giảng viên đại học còn
tương đối thấp, đời sống đội ngũ cán bộ giảng viên cịn có nhiều khó khăn.
Chính vì vậy họ phải dành nhiều thời gian để đi dạy để tăng thu nhập, dành
ít thời gian dành để nghiên cứu, nâng cao kiến thức, chưa tập trung đầu tư
nâng cao chất lượng giảng dạy. Hiện nay thì chế độ lương và trợ cấp cho cán
bộ giảng viên đại học đang được xem xét điều chỉnh để tạo điều kiện cho đội


ngũ này yên tâm công tác, dành nhiều thời gian để nâng cao trình độ. Như
vậy, hiện nay chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng ở
nước ta vẫn chưa cao, cần có những chính sách, biện pháp nhằm nâng cao

trình độ của đội ngũ này.
 Nội dung và phương pháp dạy học ở bậc đại học.
- Nội dung chương trình đào tạo và tình trạng thiếu giáo trình ở nhiều mơn
học Nội dung chương trình đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào
tạo và giáo trình là một cơng cụ để chuyển các kiến thức đó đến cho sinh
viên thơng qua việc nghiên cứu giáo trình. Tuy nhiên hiện nay chương trình
đào tạo và vấn đề giáo trình ở nước ta còn nhiều bất cập. Đa số các trường
vẫn đang trong tình trạng thiếu giáo trình, có nhiều mơn học sinh viên khơng
có giáo trình để nghiên cứu. Cịn có những mơn đã có giáo trình nhưng nội
dung chủ yếu được biên soạn từ rất lâu.
- Qua thực tế điều tra ở một số trường đại học và cao đẳng ở nước ta cho thấy,
giáo trình ở các trường này chủ yếu được biên soạn từ cách đây khoảng 20
đến 30 năm và các thơng tin trong đó đã q lỗi thời khơng cịn phù hợp với
sự phát triển mạnh mẽ hiện nay của xã hội.
- Nội dung chương trình đào tạo của ta hiện nay còn nặng về lý thuyết, ít gắn
với thực tiễn, chương trình học tập quá tải, chiếm hết thời gian phát huy khả
năng tư duy sáng tạo của sinh viên gây ra tâm lý chán học, sợ học . Cụ thể là
chương trình đào tạo đại học bốn năm ở các nước phương Tây gồm 125 đến
130 tín chỉ, trong khi đó chương trình đào tạo đại học hệ bốn năm ở nước ta
trung bình khoảng 250 đơn vị học trình ( tương đương tín chỉ), trong khi
kiến thức tiếp thu lại ít hơn. Hiện nay ở nước ta, việc biên soạn và in ấn giáo
trình được khoán trắng cho các trường đại học tự lo do đó dẫn đến tình trạng
bất cập về nội dung lẫn kinh phí thực hiện. Điều đó dẫn đến giá sách hiện tại
tương đối cao so túi tiền của sinh viên.
 Phương pháp dạy và học ở bậc đại học.


- Phương pháp dạy học ở bậc đại học phải nhằm phát huy tính tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tư duy độc lập của
sinh viên, người thầy sẽ giúp sinh viên giảng cho sinh viên những phần bản

chất nhất khó nhất trong giáo trình cịn lại là sinh viên tự nghiên cứu.
- Nhưng hiện nay ở nước ta phương pháp được sử dụng phổ biến trong các
trường đại học chủ yếu là thầy giảng, học sinh ngồi nghe và ghi chép, với số
lượng giờ lên lớp khơng dài khuyến khích được tính chủ động tích cực của
sinh viên, chính vì vậy làm cho sinh viên trở nên thụ động trong việc tiếp thu
kiến thức. Sinh viên ít được Mặc dù hiện nay phương pháp dạy học ở nước
ta đã có những đổi mới nhưng cịn diễn ra chậm.
- Vì vậy, trong thời gian tới cần phải đẩy nhanh việc đổi mới phương pháp dạy
và học ở bậc đại học theo hướng phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo của
sinh viên.



×