Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Câu hỏi môn tư tưởng hồ chí minh tại sao sinh viên cần phải học tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.96 KB, 13 trang )

Câu 1. Tại sao sinh viên cần phải học tập tập tưởng Hồ Chí Minh?
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hố nhân loại; là tài sản tinh thần vơ cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân
tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi” [7, tr.136]. Đó là “tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải
phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân… trong đó,
Người cịn là nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân
tộc, lãnh tụ thiên tài, Người cịn là nhà văn hố lỗi lạc, một danh nhân văn hoá”
[7, tr.139].
Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh là “một kho tàng quí báu của dân tộc.
Những quan điểm tư tưởng của Người là một yếu tố cấu thành nền tảng tinh thần
xã hội, là cơ sở lý luận kim chỉ nam để Đảng ta hoạch định đường lối, chính
sách xây dựng và phát triển văn hoá mới của đất nước qua các thời kỳ cách
mạng” [1, tr.78]. Do vậy mỗi người dân Việt Nam nói chung và đặc biệt là sinh
viên hiện nay nói riếng cần nghiên cứu, học tập tư tưởng của người.
Là sinh viên, trước hết “cần phải học tập, nắm vững kiến thức được trang
bị trên ghế nhà trường, đặc biệt là những nội dung liên quan đến môn tư tưởng
Hồ Chí Minh. Q trình học tập, phải tích cực rèn luyện các kỹ năng cần thiết để
đáp ứng yêu cầu công việc sau này khi ra trường. Không ngừng tự học tập, tự
nghiên cứu, quá trình tự học chỉ mang lại kết quả khi sinh viên có nhận thức
đúng, tích cực chủ động, biết biến quá trình đào tạo thành q trình tự đào tạo.
Với mơn học mơn tư tưởng Hồ Chí Minh, việc phát huy tính tích cực chủ động
trong q trình học tập của sinh viên càng có ý nghĩa quan trọng” [4, tr.50].
“Nâng cao nhận thức về việc tự học mơn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh
viên. Bởi, tự học được xem như một quy luật tồn tại, sự tự khẳng định và phát



triển cá nhân; là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và
năng lực toàn diện của mỗi người. Điều quan trọng là, người học phải xác định
rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Thái độ và trách
nhiệm học tập của sinh viên với tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rõ ở việc
nhận thức đúng đắn về mục đích, yêu cầu, nội dung cần đạt được của từng
chương, bài cũng như tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo trong q trình
học tập. Đó là q trình mỗi sinh viên phát huy vai trị chủ thể trong hoạt động
nhận thức, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Để có được động cơ, thái độ,
trách nhiệm học tập đúng đắn của sinh viên, nhất thiết phải thông qua công tác
giáo dục của nhà trường, giảng viên, cán bộ quản lý và đặc biệt là quá trình tự
giáo dục, sự nỗ lực, tự giác vươn lên của sinh viên. Mỗi sinh viên cần phải tự
giác quán triệt một cách nghiêm túc về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường
cũng như yêu cầu về phẩm chất năng lực của bản thân đối với môn học này” [4,
tr.51-52].
Chỉ có học tập tư tưởng Hồ Chí Minh thì sinh viên mới nâng cao trình độ
lý luận chính trị, bồi đắp tư tưởng cách mạng trong sáng. Từ đó có “lập trường
tư tưởng vững vàng, có lịng u nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và
sự nghiệp mới. Tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà
nước, đấu tranh chống tham nhũng, tệ nạn xã hội... Học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh giúp sinh viên nâng cao trình độ văn hóa, chun mơn, kỹ thuật và tay
nghề. Từ đó tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân. Tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của
sinh viên, phấn đấu trở thành đoàn viên, đảng viên xuất sắc. Giúp sinh viên tham
gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái
trong lành, sạch đẹp” [4, tr.54].
Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế
giới, là Người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của
Người về đại đoàn kết dân tộc là sự kế thừa, phát triển những giá trị truyền
thống dân tộc và thời đại; là sự sáng tạo những giá trị mới, làm phong phú kho



tàng trí tuệ của dân tộc Việt Nam; là ngọn cờ tập hợp mọi người Việt Nam yêu
nước, thiết tha mong muốn dân tộc được độc lập, đất nước được thống nhất dân
chủ và giàu mạnh. Do vậy tất yếu sinh viên phải học tập để làm theo Bác trở
thành người có ích cho xã hội, cho đất nước” [2, tr.109].
Câu 2. Phân tích những đức tính của con người Việt Nam mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Để trở thành những con người mới – người cách
mạng, ngoài việc thực hiện những đức tính đó theo anh/chị cần kết hợp giải
quyết tốt mối quan hệ nào?
- Phân tích những đức tính của con người Việt Nam mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là “một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là
độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó,
vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm,
xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người” [3, tr.90]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa chắc chắn phải
là một nhân cách tổng hợp, nhưng về mặt tư tưởng, phẩm chất chính trị và đạo
đức thì Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng con người đó phải có “tư tưởng
và tác phong xã hội chủ nghĩa” mà tiêu chí đầu tiên là “có ý thức làm chủ Nhà
nước, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi
người vì mình” [5, tr.310]. Những đức tính của con người Việt Nam mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh có thể tóm tắt đó là:
“Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, một lòng một dạ trung thành với Tổ quốc,
với nhân dân, với Đảng. Dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Có
tinh thần quốc tế trong sáng”.
“Có đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.
“Sống theo đạo lý Việt Nam nhân ái, bao dung, hiếu thảo, khiêm tốn, trung
thực, cần cù, giản dị, đoàn kết cộng đồng, hết lịng mình vì mọi người”.



“Yêu lao động, tận tụy, quên mình, lao động bền bỉ, tự giác, sáng tạo, có ý
thức tổ chức kỷ luật, ham học hỏi cầu tiến bộ, có năng lực chun mơn tốt, có tri
thức hiện đại. Đời sống văn hóa tình thần lành mạnh, phong phú”.
“Có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và cơng việc. Khơng ngừng
nâng cao trình độ chun mơn, văn hóa, khoa học kỹ thuật” [6, tr.278].
Như vậy theo Hồ Chí Minh, những đức tính của con người Việt Nam mới là
những con người tồn diện cả thể lực và trí lực, giàu lịng u nước, có tinh thần
quốc tế trong sáng và luôn hội tụ đẩy đủ những nét đẹp của cong người Việt
Nam từ ngàn sưa đến nay.
Người xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể
lực và các hoạt động của nó.con người ln hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ,
mặc dù “có thế này, thế khác”. Người nêu một định nghĩa về con người: “Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào
cả nước. Rộng nữa là cả lồi người”. “Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa
bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về
chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người
ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính
đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vơ cùng lớn lao cho
sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân khơng được
quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được” [2,
tr.171]. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người
viết: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá
nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình”. “Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, khơng hình
thức, khơng cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những
quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư
cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện

chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới” [3, tr.190].


- Để trở thành những con người mới - người cách mạng, ngồi việc
thực hiện những đức tính đó theo anh/chị cần kết hợp giải quyết tốt mối
quan hệ nào?
Ngoài những đức tính của con người mới theo Hồ Chí Minh, thì trong giai
đoạn hiện nay cần kết hợp giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội; đối
với sinh viên phải luôn đặt nhiệm vụ lợi ích của bản thân trong mối quan hệ với
quốc gia dân tộc, với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
“Hoà chung với những khát vọng và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, lớp
thanh niên sinh viên ngày nay cũng có những trăn trở, suy nghĩ riêng với mong
muốn đóng góp ngày một thiết thực, hiệu quả hơn đối với sự nghiệp chung của
Tổ quốc. Ngày càng có nhiều tầng lớp, lực lượng thanh niên trưởng thành trong
thời đại mới, có nhiều đóng góp trong cơng cuộc xây dựng đất nước, đưa đất
nước ta dần thích ứng với những điều kiện mà quá trình tồn cầu hố đang đặt
ra. Cũng chính q trình đó, những địi hỏi và kỳ vọng từ xã hội đối với thế hệ
trẻ cũng đang được đặt ra, điều đó cũng cho thấy thế hệ trẻ cần tiếp tục xác định
thêm những nhiệm vụ mới cho chính bản thân mình” [4, tr.55].
Giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội đặt ra cho sinh viên phải
luôn nêu cao tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí
Minh. Điều đó có nghĩa là “các hoạt động của thanh niên sinh viên phải nằm
trong mối liên hệ chặt chẽ với những nhiệm vụ chung của toàn thể dân tộc, đặt
trong quỹ đạo định hướng và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Xét ở cấp độ vi mô,
tôi xin đề cập đến hai chiều cạnh. Trước hết, các hoạt động của thanh niên sinh viên
phải gắn với lợi ích của cộng đồng. Và tiếp theo, các hoạt động đó chỉ thực sự có
hiệu quả khi nhận được sự tham vấn, chỉ đạo sát sao của cơ quan đoàn hội cấp trên,
lãnh đạo Đảng và chính quyền cơ sở. Điều này đã được minh chứng rất rõ ràng
trong thực tiễn công tác. Trên thực tế, những phong trào, hoạt động thành cơng đều

có một phần lớn nhờ vào sự ủng hộ, hỗ trợ và tạo điều kiện của tổ chức Đảng,
chính quyền. Thế hệ trẻ cần tạo nên một cách nhìn mới từ xã hội, hãy làm cho xã
hội tin tưởng hơn và lạc quan hơn về bản thân mình” [4, tr.56].


Cần phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa
phương; tự nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các
hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Những mối quan hệ lớn hiện nay cần nhận thức đúng đắn:
Hiện nay có những quan điểm xun tạc, bóp méo hay cố tình phủ định
những thành công của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị. Để bác bỏ những luận điểm này, chúng ta cần
chỉ rõ những thành công cụ thể của Đảng trong nhận thức và giải quyết mối
quan hệ này trong quá trình đổi mới.
Điều quan trọng đầu tiên là “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã
hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những
quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp
thích hợp”(1). Trên cơ sở nhận thức đúng đắn này, Đảng từng bước hoàn thiện
nhận thức về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Theo đó, “đổi mới kinh tế” là
quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự lãnh đạo của
Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); là bước chuyển từ nền kinh tế
cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở”, hội nhập, kết hợp tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ mơi trường
sinh thái. “Đổi mới chính trị” là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã
hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận
hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững

ổn định chính trị để xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện
tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân do
Đảng lãnh đạo. Ngay từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989), Đảng ta đã
khẳng định “Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
khơng phải là hạ thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai


trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chun chính vơ
sản; là làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động hơn,
có hiệu quả hơn”(2); đồng thời nhấn mạnh “Trong quá trình mở rộng dân chủ
phải ngăn ngừa đấu tranh khắc phục khuynh hướng dân chủ hình thức, dân chủ
cực đoan, dân chủ tư sản, phải tỉnh táo, đấu tranh chống lại những lực lượng lợi
dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta. Phải lắng nghe ý kiến rộng rãi
của nhân dân, nhưng không “theo đuôi” quần chúng”(3). Đây là những nguyên
tắc chỉ đạo rất quan trọng, làm tiền đề để Đảng nhận thức và giải quyết tốt quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong suốt quá trình đổi mới.
Đảng ta hiểu rất rõ rằng khơng thể tiến hành đổi mới chính trị một cách vội vã
khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới hạn, khơng có mục tiêu cụ
thể và khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây
thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá trình đổi
mới, Đảng xác định ổn định kinh tế “không phải là hạn chế các hoạt động kinh
tế, mà là một qúa trình vận động tiến lên, vừa phát triển, vừa điều chỉnh các
quan hệ tỷ lệ của nền kinh tế quốc dân”(4). Cịn ổn định chính trị khơng có
nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trị quan trọng bảo đảm điều kiện
cho các lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa, xã hội được đổi mới, phát triển, làm
cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện hơn, bền vững hơn. Ổn định chính trị
cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. “Ổn định và
phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát

triển và có phát triển mới ổn định được”(5).
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm vô nguyên tắc của Đảng cộng sản Liên xô
trong cải tổ, ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ
trước hết cần tập trung đổi mới kinh tế, trên cơ sở đó từng bước đổi mới chính
trị.
Đại hội VI (1986) diễn ra trong bối cảnh có sự “giảm sút của của sản xuất vào
những năm 70 cùng với những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là bố trí


đầu tư và xây dựng cơ bản của những năm 1976-1980, để lại hậu quả nặng
nề”(6), đời sống kinh tế của nhân dân vơ cùng khó khăn. Trong bối cảnh ấy, Đại
hội đề ra nhiệm vụ tập trung vào đổi mới kinh tế, cụ thể là “phải thực hiện
những biện pháp có hiệu quả để nhanh chóng ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
đưa mọi mặt hoạt động vào quỹ đạo phát triển bình thường và tiến hành những
cuộc cải cách về tổ chức, quản lý, thiết lập cơ cấu sản xuất và cơ chế quản lý
kinh tế - xã hội”(7). Từ mục đích này, Đại hội tập trung vào thực hiện ba chương
trình kinh tế lớn là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
để ổn định và thiện đời sống của nhân dân. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra nhiệm
vụ đổi mới chính trị mà trước hết tập trung vào phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng(8).
Tiếp tục tinh thần của Đại hội VI, Đại hội VII (1991) xác định rất đúng “Về
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung làm tốt đổi mới
kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và
các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực
chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm
chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội”(9). Đặc biệt, Đại hội rút ra bài học kinh nghiệm vơ cùng q báu

cho việc đổi mới chính trị trong quan hệ với đổi mới kinh tế: “Vì chính trị đúng
chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc
đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn
bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối
loạn. Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị,
nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đồn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và
thực hiện dân chủ”(10). Đây vừa là bài học kinh nghiệm quý báu, vừa là nguyên
tắc quan trọng mà Đảng ta quán triệt trong suốt quá trình đổi mới.


Tổng kết 10 thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII (1996) tiếp tục
khẳng định bài học: xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy
bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Đổi mới phải được thực
hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và
những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm túc sai lầm, khuyết
điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không phủ nhận sạch trơn
quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này chuyển sang
thái cực khác(11). Trên tinh thần lập trường, quan điểm này, Đại hội tiếp tục
khẳng định “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”(12); tập trung trước
hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục những
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi
để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội(13). Đây là nhận thức đúng cả về
mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.
Tại Đại hội IX (2001), Đảng rút ra bài học kinh nghiệm tiến hành đổi mới phải
xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh
nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ mơ hình có sẵn nào, đổi mới tồn

diện, đồng bộ, triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp(14).
Trên cơ sở đó, Đại hội chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng
tư tưởng của Đảng, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt; coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là mơ hình kinh
tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH; xác định quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa; đề ra nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN do Đảng lãnh đạo; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương,
tăng cường pháp chế(15).
Tiếp tục tinh thần các đại hội trước, Đại hội X (2006) rút ra bài học “đổi mới
tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải
đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn


hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội; từ hoạt động lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ
thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng
tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội”(16).
Tại Đại hội XI (2011), Đảng đưa ra quan điểm “Đổi mới chính trị phải đồng bộ
với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện thể chế kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và
trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”(17). Như vậy, về đổi mới
kinh tế, Đại hội XI tập trung vào đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Về đổi mới chính trị, tập trung ba lĩnh vực cơ bản, trọng
yếu: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp
thiết và hàng đầu. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng ta xác định quan hệ

“giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ lớn cần giải
quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH(18).
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới chính trị, Đại hội XII
(2016) đã rút ra kết luận “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế,
năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm
vụ”(19). Từ thực trạng này, Đại hội XII đề ra mục tiêu chung: “đổi mới mạnh
mẽ, tồn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa
kinh tế và chính trị”(20). Đồng thời đề ra mục tiêu cụ thể: “Đến năm 2020, phấn
đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính
trị; giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,


bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững chủ động
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ;
bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và
thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội”(21). Từ mục tiêu cụ thể này, Đại hội XII đề ra yêu cầu đối với đổi mới thể
chế kinh tế: “Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại
trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách, thực hiện đồng
bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi
các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch (...) Nhà nước
sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối,
phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, cơng bằng xã
hội...”(22). Đối với đổi mới chính trị: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ
thống chính trị. Xây dựng Nhà nước phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành
pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo

hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã
hội(23). Đối với xây dựng Đảng: đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng,
nhất là xây dựng Đảng về đạo đức.Trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Đối với phát huy dân chủ XHCN: bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện
đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội(24). Tăng cường,
củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân để phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân(25). Đại
hội XII tiếp tục coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam(26).
Kế thừa tinh thần Đại hội XI, XII, tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục coi quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải
quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện


“phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”(27); đề ra
nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”(28). Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”(29). Quan điểm
này tiếp tục chỉ đạo, soi sáng việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời
gian tới của Đảng ta.
Từ những khái quát nêu trên cho thấy, trong suốt hơn 35 năm thực hiện quá trình
đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đạt được điều này là do có sự lãnh
đạo đúng đắn, khoa học của Đảng nên đã lôi cuốn được đông đảo nhân nhân
tham gia, ủng hộ. Cùng với luôn bảo đảm sự phát triển đồng bộ của cả kinh

tế và chính trị, thực tiễn đất nước và quốc tế luôn được Đảng lấy làm tiêu chuẩn
điều chỉnh mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đồng thời lấy
lợi ích của nhân dân làm mục tiêu giải quyết mối quan hệ này.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bình (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa - Giá trị lý
luận và thực tiễn. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Dũng (2018), Nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa. Nxb Giáo dục. Hà Nội.
3. Trần Văn Dũng (2019), Văn hóa kiến quốc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.
4. Nguyễn Thảo Linh (2018), Trách nhiệm của sinh viên Việt Nam trong
q trình xây dựng đất nước hiện nay. Tạp chí Giáo dục và Xã hội. số 145/2018.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập. Tập 9. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà
Nội. 2011.
6. Hồ Chí Minh, tồn tập. Tập 10. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà
Nội. 2011.
7. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia các
mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình chủ nghĩa
xã hội khoa học. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội.



×