Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TU TUONG HO CHI MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.56 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KHOA XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ VIỆC
VẬN DỤNG ĐỂ CŨNG CỐ,PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY.

GVHD: NGUYỄN MẬU MINH
LỚP: POS 361M
TÊN: TRẦN TRUNG HOÀ
MSSV: 25216110425

2021-2022


ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KHOA XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ VIỆC
VẬN DỤNG ĐỂ CŨNG CỐ,PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY.


GVHD: NGUYỄN MẬU MNNH
LỚP: POS 361M
TÊN: TRẦN TRUNG HOÀ
MSSV: 25216110425

2021-2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………
2. Mục đích,nhiệm vụ của tiểu luận…………………………………………….

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC
1.
2.
3.
4.

Vai trị của đại đồn kết toàn dân tộc……………………………………………….
Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc……………………………………..
Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc……………………………
Hình thức,ngun tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc- mặt trận dân
tộc thống nhất……………………………………………………………………………
5. Phương thức xây dưng khối đại đoàn kết dân tộc………………………………….

CHƯƠNG 2 : CŨNG CỐ, PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Đánh giá khái quát thực trạng tinh thần đoàn kết trong sinh viên hiện nay…….

2. một số giải pháp nhằm cũng cố, tăng cường tinh thần đoàn kết trong sinh viên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh…………………………………………………………….

KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………………………...


LỜI NĨI ĐẦU
Muốn đưa cách mạng đến thành cơng phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để
chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng
mạnh phải thực hiện đại đồn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân
tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Như Hồ Chí Minh đã nói : “sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết
dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. “. Có như vậy đất nước ta
mới hoàn toàn thống nhất, dân tộc ta mới có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc.
Chính vì lẽ đó mà chúng em đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức
mạnh Đại đồn kết dân tộc ”Đây là một đề tài hay có nội dung và ý nghĩa to lớn , nó
cịn là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ .Bài học quý báu cho quá trình dựng nước và giữ
nước.

1 Lý do chọn đề tài
Với tấm lòng yêu nước, thương dân, khao khát giành lại độc lập tự do cho đất
nước từ các nước thuộc địa đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẵn sàng ra đi
tìm đường cứu nước, học tập từ chiến thắng của các cuộc cách mạng dân tộc tiêu biểu
trên thế giới để đúc kết được phương pháp và áp dụng cho dân tộc Việt Nam. Chính
nhờ sự khao khát tìm tịi, học hỏi và nghiên cứu, Người nhận ra được tình yêu đất
nước, yêu độc lập tự do của nhân dân Việt Nam rất lớn và nhân dân cả nước ln
sẵn lịng cùng nhau đồn kết chống lại giặc ngoại xâm. “Dân ta có một lịng nồng
nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ

quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước”, từ thực tiễn lịch sử đó, Hồ Chủ tịch đã khẳng định
đồn kết là một trong các truyền thống q báu của dân tộc ta đã được hun đúc trên
nền tảng lòng yêu nước nồng nàn của các thế hệ người Việt Nam.
2 Mục đích,nhiệm vụ của tiểu luận
Để góp phần nhìn nhận lại một lần nữa những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đại đồn kết tồn dân tộc và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam chung tay
vận dụng những tư tưởng của Người trong việc thực hiện tốt tinh thần đoàn kết của
dân tộc Việt Nam, em xin thực hiện đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
tồn dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
làm bài tiểu luận kết thúc học phần Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.


CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN
TỘC
1. Vai trị của đại đồn kết tồn dân tộc
Đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế
lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành cơng và
thành cơng đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng
được khối đại đồn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài,
xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải có chính
sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp
tập hợp có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau,
đồn kết dân tộc phải ln ln được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành

bại của cách mạng.
Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để thực hiện
đoàn kết dân tộc. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng đắn. Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách
mạng Việt Nam dành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: "Đoàn kết trong
Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa; Đồn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã
kháng chiến thắng lợi, lập lại hịa bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền Bắc;
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong
công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc".
Từ thực tiễn như vậy, Hồ Chí Minh đã khái qt thành nhiều luận điểm có tính
chân lý về vai trị của khối đại đồn kết:


Đồn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm
này. Người viết: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta
nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm
vụ nhân dân giao phó"; "Đồn kết là một lực lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục
khó khăn, giành lấy thắng lợi":; "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi", "Đoàn
kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng”; "Bây giờ cịn một điểm rất quan trọng,
cũng là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đồn kết"
"Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng"...
Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, u nước nhân nghĩa - đồn kết là sức mạnh, là mạch
nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đồn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường
lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong các buổi nói
chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nêu: "Mục đích của Đảng có thể bao gồm trong

8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Để thực hiện mục tiêu này, Người
thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng,
phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần
chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy "dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Đại đồn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh
tới vai trị của thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành cơng nếu chỉ có
đường lối đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa
thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai
đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó
chính là khối đại đồn kết dân tộc, Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng, đại đồn kết dân tộc
khơng phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi
vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ


trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức
tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách
quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức
trong khối đại đồn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
2. Lực lượng của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ ra lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc là tồn dân trong đó
lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền
tảng
Kế thừa và nâng tầm tư duy chính trị truyền thống của cha ơng: “Nước lấy dân
làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý mác xít “Cách mạng là ngày hội của quần
chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh và cái cẩm nang thần kỳ của cơng cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước ở lực lượng vô địch của nhân dân:

“Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng
lực lượng đồn kết của nhân dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân, nhân dân có một
nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ tất cả con dân của nước Việt
Nam, những người được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
của Người là đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đồn
thể, các dân tộc, tơn giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết
hối cải, quy về với chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn
kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ.
Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai mà thật thà
tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây
chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đồn kết với họ”. “Ai có tài, có sức, có
đức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln có sự kết hợp hài hòa, quyện chặt và
nhất quán giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp. Đoàn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên
minh công nông làm gốc, khơng một lúc nào qn đi lợi ích giai cấp song Người cũng
có một tư duy vượt trước khi khẳng định chủ ghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách
mạng Việt Nam.


Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác
định là một thành viên, bởi Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân. Tuy
nhiên, Đảng không phải là một thành viên bình thường, mà là người lãnh đạo của khối
đại đồn kết toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là tuyên truyền,
giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết lại; chọn lựa những hình
thức, phương pháp tổ chức thích hợp để có thể thu hút rộng rãi các lực lượng yêu nước,
tiến bộ trong dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn dân đấu tranh, lao động
sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích thiêng liêng của dân tộc và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Người cũng nhấn mạnh quyền lãnh đạo Mặt
trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận: “Đảng
khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ

phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công
tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực
lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là tồn dân,
trogn đó lấy liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức làm nền tảng được tập hợp trong
một Mặt trận thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã trả lời chỉ trên cơ
sở tuân thủ nguyên tắc này, địa đoàn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường
tồn.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành từ những cơ sở
quan trọng sau đây:
a) Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam
Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc của dân tộc Việt
Nam đã được hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Đối với
mỗi người Việt Nam, yêu nước nhân nghĩa- đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự
nhiên, in đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt
chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã có rất nhiều
chuyện cổ tích, ca dao, ngạn ngữ ca ngợi truyền thống đồn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền thống yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: "Dân ta có một lịng nồng nàn


yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước"1.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là
cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc.

b) Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vơ sản muốn thực hiện được vai trị lãnh đạo
cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng
to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra
cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên minh
giai cấp, trước hết là liên minh công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng lợi
của cách mạng vơ sản, rằng nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân
lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản
khơng thể thực hiện được.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin khơng những đã chỉ ra vai trị của quần chúng
nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối liên minh cơng nơng trong cách
mạng vơ sản. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ
sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong
các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư
tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc. c) Tổng kết những kinh nghiệm thành công
và thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí Minh đã
ln chú ý nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm của phong trào yêu nước Việt
Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những bài
học của cuộc Cách mạng Tháng Mười. Những là bài học về huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của việc
đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh
đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam

nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ để tiến hành cách
mạng. Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của các phong trào dân tộc
dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là cơ sở thực
tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.


4. Hình thức,ngun tắc tổ chức của khối đại đồn kết toàn dân tộc- mặt trận
dân tộc thống nhất
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn
kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành
cơng phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành
cơng xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy
tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn
đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng, bằng cách
mạng vơ sản. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách
mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó
Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh
chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc ln ln được Người nhận thức là vấn đề sống cịn
của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng;Đồn kết là điểm mẹ; điểm
này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt; Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Hồ Chí Minh ln ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm

coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: "Dễ trăm lần khơng dân cũng
chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Đồng thời, Người lưu ý rằng, nhân dân bao
gồm nhiều lứa tuổi, nghề nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tơn giáo, do
đó phải đoàn kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc
đó, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp
với các giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và những quyền lợi
cơ bản của nhân dân lao động, làm "mẫu số chung" cho sự đoàn kết.
b) Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, khơng thương
dân thì khơng thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đơng
đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ
việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục
tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đồn kết dân tộc phải được quán triệt trong
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của
Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố
trước toàn thể dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ
là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc. Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng


nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đồn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là
vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh cịn cho rằng, đại đồn kết dân tộc khơng
chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của cả dân tộc. Bởi vì, đại đồn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do
quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đồn kết quần chúng
tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân, hạnh phúc cho con người.
c) Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người dùng
các khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "con Rồng cháu Tiên", không phân

biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng tín ngưỡng,
khơng phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có
nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ" 1. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp,
dân tộc, tơn giáo.
Muốn thực hiện được đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu
nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung, độ lượng với
con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ"2. Để thực hiện được đoàn kết, Người cịn căn
dặn: Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại
đồn kết tồn dân với nịng cốt là khối liên minh cơng - nơng - trí thức do Đảng của
giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như
vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực
lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải
đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác. Người coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc
của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác.
"Lực lượng chủ yếu trong khối đồn kết dân tộc là cơng nơng, cho nên liên minh công
nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất" 1. Về sau, Người nêu thêm: lấy liên
minh cơng - nơng - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền
tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn kết dân tộc càng được mở rộng,
không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
d) Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là



để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ
mới. Do đó, đại đồn kết dân tộc khơng thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở
những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu
hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành
lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu khơng, quần chúng
nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đơng khơng có sức
mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi
tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà
Người đã tìm được là đại đồn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai
cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tơn giáo. Đó là các già
làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, cơng hội, nơng hội, đồn thanh niên, hội
phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Cơng giáo u
nước, các nghiệp đồn, v.v., bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước
Việt, khơng chỉ ở trong nước mà cịn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ
quốc Việt Nam...
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta
đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngồi nước, phấn

đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân
dân.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo Hồ
Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh cho rằng,
Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì. Sự đồn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân
dân lao động làm mục tiêu phấn đấu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông - lao động trí óc.Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt
trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết
thành một khối vững chắc.
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.


Khi có những lợi ích riêng biệt khơng phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc
nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích
chung và lợi ích riêng, cùng nhau bàn bạc để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc
dân chủ hình thức. Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận
(tháng 8-1962), Người yêu cầu: Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân
dân... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải đoàn
kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt chẽ giữa
đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm
no, xây dựng Tổ quốc.
Thứ tư: Khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân
thành; thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết
dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn
bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực

cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
phương châm "cầu đồng tồn dị", lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt
khác, Người nêu rõ: "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn
kết". Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đồn kết xi chiều, phải
nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa
tốt, củng cố đoàn kết nội bộ. Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Đồn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học
những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường
thân ái, vì nước, vì dân. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân
tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cơ độc, hẹp hịi, coi nhẹ
việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ đ-ược; đồng thời chống khuynh
hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà khơng có đấu tranh đúng mức trong nội bộ
Mặt trận.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xã hội,
toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền khơng phải chỉ vì lợi ích của giai
cấp mình mà vì "phải trở thành dân tộc" mới có thể giải phóng được dân tộc và giai
cấp. Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành
viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng
Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình, mà
phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: "Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận
quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động
nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và cơng tác hàng ngày,khi quần chúng
rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo"1. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định
chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.
Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng
chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò



ép, quan liêu mệnh lệnh. Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự
đoàn kết trong Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa
Đảng với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn,
chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
5. Phương thức xây dưng khối đại đoàn kết dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng để xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc cần
phải dựa trên các nguyên tắc, đó là:
Thứ nhất, phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích của quốc gia, dân
tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau.
Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau
đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có
thực hiện được hay khơng cịn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đồn
kết hay khơng và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế
nào.
Ngun tắc đại đồn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát
huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu
thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đồn kết dân tộc thay cho sự đào
sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi
ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đồn kết, là sức
mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là
nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp
để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đồn kết dân tộc của mình.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế
thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào

sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trị của lực
lượng nhân dân. Người viết “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy
cũng làm được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải quyết


nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”.
Thứ ba, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đồn kết lâu dài,
chặt chẽ:
Theo Hồ Chí Minh, có đồn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đồn
kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng,
ngồi thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để
đoàn kết và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng
với tính cách là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ
chức, giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngồi nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về
chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trị đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp
công nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất
là chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nói “Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh cơng nơng làm nền
tảng vững chắc để đồn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát
triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội
có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của
tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập
hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng
trong khu vực và trên thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần
chúng vào cuộc đấu tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất qn của Hồ Chí Minh.
Thứ tư, đại đồn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết phải gắn với
tự phê bình và phê bình.

Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương
đồng cịn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn
bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần
phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm “cầu đồng tồn dị”, mặt khác, Người nêu rõ "Đoàn kết phải gắn với đấu tranh,
đấu tranh để tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng
đồn kết xi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt,
khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết. Đồn kết thật sự nghĩa là mục đích


phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết,
vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc
thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc
tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được, đồng thời chống khuynh huớng
đồn kết mà khơng có đấu tranh đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta
làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và
cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phương thức thực hiện đại đồn kết dân tộc, đó là phải biết áp
dụng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, nghĩa là đoàn kết
phải trên cơ sở tự nguyện, khơng thể áp đặt, ép buộc. Vì vậy phải tuyên truyền, vận
động làm cho mọi người nhận thức được sự cần thiết phải đoàn kết để họ tự nguyện, tự
giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong khối đại đoàn kết. Trong tuyên truyền,
vận động, giáo dục phải phản ánh đúng nguyện vọng sâu xa và những quyền lợi cơ
bản, chung nhất của toàn thể dân tộc; phản ánh nguyện vọng, quyền lợi riêng phù hợp
với từng giai cấp, tầng lớp, từng cộng đồng xã hội cụ thể. Phải nói và viết ngắn gọn, dễ
hiểu, giản dị nhưng vẫn rất sâu sắc, sử dụng biện pháp nêu gương, kết hợp giữa lời nói
và việc làm.
Phương pháp xử lý các mối quan hệ trong xã hội cũng khác nhau, đối với lực

lượng cách mạng (chí cốt là cơng nhân, nơng dân, lao động chân tay, lao động trí óc)
thì phải biết khai thác, phát huy sự thống nhất, tương đồng, hạn chế, khắc phục, tiến tới
xoá bỏ dần những khác biệt trong mục tiêu, lợi ích; đối với những bất đồng trong nội
bộ thì phương pháp xử lý là thẳng thắn, có lý và có tình; đối với lực lượng trung gian
(các tầng lớp trên, các trí thức thượng lưu, nhân sĩ, hồng tộc, quan lại…) thì phải biết
xoá bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước,
chân thành hợp tác và trọng dụng; đối với các thế lực thù địch thì cần phải chủ động,
kiên quyết tiến cơng tiêu diệt trên cơ sở phân hố, cơ lập chúng đến mức cao độ.
Khối đại đoàn kết bao gồm nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau; nhiều cá nhân khác
nhau có lợi ích chung nhưng lại cũng có những lợi ích riêng khác nhau. Những lợi ích
riêng đó có thể xung đột nhau, thậm chí lợi ích riêng của một bộ phận nào đó có thể đi
ngược lại lợi ích chung. Do đó phải có tổ chức chặt chẽ để ln đặt được lợi ích chung
lên trên hết, trước hết; không để cho một bộ phận hoặc cá nhân nào có thể vì lợi ích


riêng mà làm hại đến lợi ích chung. Trong số các thành viên của khối đại đồn kết thì
Đảng cộng sản là tổ chức duy nhất có lợi ích riêng phù hợp với lợi ích chung (ngồi lợi
ích của nhân dân, của dân tộc ra, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác). Vì vậy, Đảng
cộng sản là tổ chức duy nhất xứng đáng nắm quyền lãnh đạo. Đảng là thành viên của
Mặt trận dân tộc thống nhất nhưng là thành viên giữ vai trò lãnh đạo, là hạt nhân của
khối đại đồn kết tồn dân tộc. Do đó, phải xây dựng Đảng cộng sản trong sạch và
vững mạnh, trí tuệ, cách mạng, thống nhất; xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi, chặt chẽ, thống nhất; xây dựng một nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, nhờ sức mạnh của đại đoàn kết mà cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Thấm nhuần được tư tưởng đó, 90 năm qua, Đảng và nhân dân ta
đã không ngừng cũng cố khối đại đồn kết tồn đảng, tồn dân, ln vận dụng một
cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình, u
cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trước
địi hỏi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước thì việc thực hiện tư
tưởng đại đồn kết của Người càng có ý nghĩa quan trọng, đó là một trong những nhân
tố bảo đảm cho quá trình đổi mới, phát triển. Các phong trào “Tồn dân đồn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “Tồn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn
minh”, “Tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”…; Toàn dân đoàn kết giúp nhau phát triển
kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành đùm lá rách; thực hiện vệ sinh an tồn thực phẩm,
bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân dân, bảo vệ mơi trường và ứng phó với biến đổi
khí hậu vv... khơng chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng mà cịn
góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân
dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

CHƯƠNG 2 : CŨNG CỐ, PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Đánh giá khái quát thực trạng tinh thần đoàn kết trong sinh viên hiện nay.

Dân gian Việt Nam có câu chuyện Bó đũa kể về bài học của người cha dạy cho
các con của mình sự cần thiết của đồn kết: Từng chiếc đũa riêng lẻ sẽ dễ dàng bị bẻ


gãy, nhưng nếu chúng tập hợp lại với nhau thành một bó đũa thì khơng thể nào bẻ gãy
được. Đồn kết là một truyền thống lâu đời, quý báu của dân tộc. Chính nhờ sự đồn
kết chặt chẽ mà người dân Việt Nam mới vượt qua được những thử thách khắc nghiệt
của tự nhiên mà sinh tồn, chiến thắng những kẻ thù xâm lăng to lớn hung hãn mà giữ
gìn nền độc lập dân tộc, xây dựng nên một nước Việt anh hùng. Tư tưởng đoàn kết của
người Việt Nam thể hiện rõ nhất qua quan điểm: “ Một cây làm chẳng nên non Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao” Với tinh thần biết chụm lại với nhau, dựa vào nhau mà làm
nên sức mạnh đoàn kết ấy đã được phát triển đến độ tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí
Minh thành đại đồn kết, trong đó có đồn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Tư tưởng

đại đồn kết của Hồ Chí Minh kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
được thể hiện qua những nội dung hết sức dung dị nhưng đầy sức thuyết phục về sự
cần thiết phải đoàn kết; nguyên tắc và phương pháp để tập hợp lực lượng tạo nên sức
mạnh đồn kết. Và chính tư tưởng ấy của Người, đã làm nền tảng để xây dựng lực
lượng cách mạng ngày càng tập hợp đông đảo mọi tầng lớp tham gia cách mạng góp
phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết dân tộc được khái quát lại có
những luận điểm chính sau đây: - Đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, đảm bảo
sự thành công của cách mạng. Đoàn kết là tư tưởng cơ bản, nhất quán, xun suốt tiến
trình cách mạng V nhất. Do vậy đồn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống cịn
của cách mạng. - Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của
cả dân tộc và của cách mạng Việt Nam. - Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
dựa trên nền tảng của khối liên minh công nhân, nông dân, 2 trí thức theo tiêu chí:
khơng phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, người tín ngưỡng với người khơng tín
ngưỡng, khơng phân biệt già, trẻ , gái, trai, giàu, nghèo; cứ ai có tài, có đức, có sức, có
lịng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đồn kết với họ. - Đại đồn kết dân
tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc
hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở
để củng cố và không ngừng mở rộng. Thực hiện đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ với phương châm lấy cái chung,
đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. - Đại đồn kết dân tộc được hình
thành một cách tự giác, trên tinh thần vừa chân thành, thân ái, vừa thẳng thắn đấu tranh
tự phê bình, phê bình. - Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ
nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân. Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh đã được chắt lọc, đúc chốt qua câu
nói nổi tiếng sau đây của Người và trở thành bài học lớn cho mọi thế hệ: , công.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng khối đồn kết tại trường Đại
học Kinh tế Nghệ An. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đồn kết là vấn đề
có tính chiến lược, quyết định mọi thành cơng. Đây cũng chính là bài học sâu sắc mà

thực tiễn của trường trong nhiều năm qua đã chứng minh. Mỗi khi nội bộ chưa thống
nhất về tư tưởng, về chủ trương, về lợi ích thì khơng thể có sự đồn kết nhất trí cao,
đồng nghĩa với nó là sự bất ổn và tạo nên lực cản kìm hãm sự phát triển chung của nhà


trường. Cho đến thời điểm hiện nay Trường Đại học Kinh tế Nghệ An đã có 54 năm
xây dựng và trưởng thành, đã có bề dày truyền thống đồn kết, vượt khó vươn lên để
khẳng định một thương hiệu của một cơ sở đào tạo có uy tín như ngày hôm nay. Trong
giai đoạn trường vừa lên đại học, thực hiện một bước chuyển quan trọng địi hỏi có sự
thay đổi vượt bậc cả về chất và lượng thì vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết tạo nên
sức mạnh tổng hợp làm nền tảng, làm động lực cho trường phát triển lại càng cần hơn
bao giờ hết. Do đó, để có được sự đồn kết với đầy đủ ý nghĩa của nó thì cần phải thực
hiện được các nội dung, yêu cầu cơ bản sau: Thứ nhất: Để xây dựng khối đại đoàn kết
ở trường Đại học Kinh tế Nghệ An cần có sự đồng thuận trên dưới một lịng, từ người
đứng đầu là đồng chí Hiệu trưởng, cùng các đồng chí trong Ban giám hiệu đến các 3
trưởng, phó phịng, khoa; từ cán bộ giảng viên đến cơng nhân viên chức; từ người đứng
trên bục giảng đến người phục vụ lao công đều chung một mục tiêu xây dựng nhà
trường lớn mạnh. Muốn vậy Ban lãnh đạo nhà trường cần sáng suốt bảo đảm cơng
bằng và bình đẳng cho mọi thành viên trong việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm cũng
như trong quyền lợi chính trị, quyền lợi kinh tế; chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các cán bộ, giảng viên công nhân viên; kết hợp hài hịa các lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể của các khoa, phòng và lợi ích chung của toàn trường. Thứ hai:
Xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở tự phê bình, phê bình thẳng thắn, có trách nhiệm
cao, có tinh thần xây dựng, khơng né tránh khuyết điểm, khơng đồn kết một chiều,
khơng đồn kết hình thức theo kiểu “Bằng mặt mà khơng bằng lịng”. Muốn vậy, từ tổ
chức Đảng, các tổ chức đồn thể như Cơng đồn, Nữ cơng, Hội cựu chiến binh, Đoàn
thanh niên đều phải tạo cơ chế, cơ hội để mọi người phát huy tinh thần đấu tranh góp ý
trực tiếp hoặc gián tiếp qua người đại diện với mục tiêu vì cái chung, vì sự tiến bộ của
cá nhân hay tập thể. Sự trao đổi thẳng thắn đó chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm,
“tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, sẽ giúp nhau

khắc phục khuyết điểm, tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Những hành vi lợi dụng danh
nghĩa đấu tranh phê bình để mưu cầu lợi ích riêng, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự
của người khác, làm ảnh hưởng tới khối đoàn kết trong tập thể nhà trường, cần phải
cực lực phản đối và đặc biệt cần lên án những trường hợp đơn thư nặc danh, vượt cấp.
Thứ ba: Đoàn kết muốn bền chặt, lâu dài nhà trường cần phải có mơi trường sống và
làm việc với tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, có sự bao dung rộng lượng, luôn tạo cơ
hội cho mọi người có điều kiện phát triển, qua đó để mọi người ln cảm thấy tình thân
ái của những người xung quanh, cảm nhận nhà trường như tổ ấm thứ hai của mình vì
vậy mà tinh thần cộng đồng chung tay xây dựng nhà trường phát triển càng được phát
huy. Thứ tư: Một trong những điều kiện làm cho khối đoàn kết trong nhà trường được
nâng cao đó chính là sự tạo dựng niềm tin cho cán bộ giảng viên, công nhân viên và
học sinh, sinh viên. Trách nhiệm này đầu tiên là thuộc về các đồng chí trong Đảng ủy,
Ban giám hiệu nhà trường, sau đó là của các đồng chí trưởng các đồn thể chính trị xã
hội trong trường, các đồng chí trưởng phó các khoa, phịng, trung tâm. Muốn có được
niềm tin của tập thể quần chúng khơng thể nào khác cần tiếp tục phát huy tính cơng
khai, dân chủ trong trường học. Càng dân chủ, công khai bao nhiêu, càng tăng cường
tính trách nhiệm của các thành viên trong nhà trường bấy nhiêu, mọi người đều thấy
mình có vai trị đóng góp cho trường ở các 4 phạm vi, mức độ, các lĩnh vực khác nhau.


Thứ năm: Vừa tập trung làm tốt công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ cho cán bộ, giảng viên; vừa tạo môi trường cảnh quan của
nhà trường xanh, sạch, đẹp; vừa quan tâm xây dựng môi trường sinh hoạt đời sống tinh
thần vui tươi, lành mạnh cho cán bộ, giảng viên, công nhân viên chức và học sinh sinh
viên bằng nhiều hình thức tổ chức giao lưu đa dạng, phong phú: Văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao, các diễn đàn trao đổi theo chủ đề, chuyên đề có ý nghĩa thiết thực đến đời
sống hàng ngày. Thơng qua các loại hình tổ chức sinh hoạt tập thể như vậy, mọi người
có điều kiện gần gũi, hiểu nhau hơn, chia sẻ tình cảm, chia sẻ những khó khăn thuận lợi
với nhau nhiều hơn và từ đó mà tinh thần đồn kết gắn bó với nhau sẽ càng tốt hơn.
2. Một số giải pháp nhằm cũng cố, tăng cường tinh thần đoàn kết trong sinh

viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong điều kiện hiện nay, do ảnh hưởng tác động từ mặt trái của các quan hệ xã
hội, của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã làm nãy sinh nhiều vấn đề phức tạp
đe dọa đến tinh thần đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức sinh viên . Do đó, địi hỏi
phải kịp thời đổi mới trong cơng tác xây dựng và chỉnh đốn, xây dựng và giữ vững sự
đồn kết, nhất trí. Kịp thời phát hiện và đập tan những âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết trong nội bộ.
Để xây dựng tinh thần đoàn kết thống nhất trongsinh viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, địi hỏi đồn viên cán bộ đoàn,cán bộ lớp cần nêu cao tinh thần gương mẫu,
trách nhiệm trong công tác xây dựng,quán triệu phổ biến tới từng sinh viên về tinh thần
đoàn kết xứng 5 lời dạy của bác Hồ. Mỗi sinh viên phải xây dựng lối sống trong sạch,
lành mạnh, tương thân, tương ái, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau. Quán triệt và thực hiện
tốt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của nhà trường và nơi cư
trú, tạo sự thống nhất tư tưởng, về ý chí và hành động. Đây là cơ sở quan trọng nhất để
xây dựng đoàn kết thống nhất. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt Đoàn, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Tăng cường
giáo dục đạo đức cách mạng, chăm lo củng cố tình thần đồng đội trong chi đồn,lớp
học, chống chủ nghĩa cá nhân. Phát hiện sớm và tập trung xử lý dứt điểm tình trạng
mất đồn kết từ khi những biểu hiện này mới hình thành.
Xây dựng đồn kết nội bộ, giữ được văn hóa đồn kết địi hỏi mỗi cá nhân phải
ln tìm cách cân bằng được cả hai cảm xúc suy nghĩ tiêu cực và tích cực của mình.
Muốn xây dựng đồn kết nội bộ thật sự phải kiên quyết đấu tranh loại trừ những
người cơ hội, kích động, xúi dục làm chuyện sai trái gây mất đoàn kết nội bộ. Trong tư
tưởng mỗi cá nhân phải nhấn mạnh được mục đích chung và lợi ích chung của tất cả để


cùng hướng mọi người về một mối, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh
“Xin ai nên nhớ chữ đồng. Đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh”.

KẾT LUẬN

“Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”
Đây là lời trích dẫn trong bản di chúc của Bác. Đó la điều mong muốn cuối
cùng của Hồ Chí Minh trước khi qua đời. Đồn kết gắn liền với độc lập dân tộc , nhân
dân có cuộc sống ấm no , tự do, hạnh phúc đó là chân lý của cuộc sống.
Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức
mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng
bên ngoài. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc
biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền
thống đồn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và của Đảng.
Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc trong sự
kết hợp với sức mạnh thời đại để đưa cách mạng Việt Nam từng bước đi tới những
thắng lợi như ngày nay và góp phần tích cực, xứng đáng vào sự nghiệp chung của nhân
dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Là một sinh viên phải ra sức học tập rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức,để
hồn thiên bản thân, góp một phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước
như bác nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là
mùa xuân của xã hội” . dù hành động nhỏ nhưng có nghĩa nào đó xứng đáng:
“…Nhiệm vụ của thanh niên khơng phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà
nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”
- Thanh niên cần phải có tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và
tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng. Cần phải
trung thành, thật thà, chính trực.
Những điều nên chống: Thanh niên cần phải chống tâm lý tư lợi, chỉ lo lợi ích riêng và
sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống
thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống

cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang.


Tài liệu tam khảo
(1),Hồ Chí Minh tồn tập, tập 7, trang 455
(2), sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân
tộc
(3), những lời Bác dạy thanh niên
(4), />%3Apath
%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/tintucsukien/tinhoatdongcuatru
ong/nmnmbvmnvbmnbvnmbvmnvbmnvbmnvb



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×