Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức và yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay, trách nhiệm của bản thân đồng chí.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.45 KB, 25 trang )

Chủ đề: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức và
yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay, trách nhiệm của bản thân đồng chí.
BÀI LÀM
I. Đặt vấn đề:
Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức đã được Đảng ta quan tâm từ nhiều kỳ đại
hội và chính thức được đặt ra tại Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đảng và Nhà nước
đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tích cực tổ chức thực hiện, tạo được những
chuyển biến về đạo đức của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Tuy nhiên, số lượng
tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đạo đức vẫn cịn nhiều, hành vi suy thối đạo
đức ngày càng đa dạng, tinh vi, phức tạp; phạm vi và mức độ suy thoái ngày càng
nghiêm trọng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định một trong những
quan điểm chỉ đạo của Đảng là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh một
cách tồn diện, trong đó có tăng cường và nâng cao hiệu quả xây dựng Đảng về đạo
đức. Quan điểm đó là sự tiếp nối Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng nói
chung và xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng. Tuy nhiên, khi vận dụng Tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay “cần nhận thức rõ xây dựng
Đảng về đạo đức bao gồm những nội dung gì, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện
nay, trách nhiệm của bản thân”. Sau đây chúng ta sẽ đi phân tích làm rõ những luận
điểm nêu trên.
II. Nội dung:
1. Một số khái niệm:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc,
chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá
nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức: là
sự kết hợp những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại;
truyền thống với hiện đại; phương Đơng phương Tây, được hình thành và phát
triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cộng sản chủ nghĩa nhưng rất Việt Nam cả
về nội dung và hình thức. Đó là sự kết họp sáng tạo nhân sinh quan của chủ nghĩa


Mác - Lênin với truyền thống của dân tộc Việt Nam, một dân tộc coi trọng phẩm
chất con người và đạo lý làm người. Người quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức
mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sơng nước.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người
viết “cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
1


phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người quan niệm
đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc“công
việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Phải có tâm, có đức mới
giữ vững được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống.
Hồ Chí Minh lấy đạo đức làm gốc, khơng có nghĩa là tuyệt đối hố mặt đức, coi nhẹ
mặt tài. Đạo đức cách mạng còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã
hội.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về đạo đức
2.1. Vai trị, vị trí của đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh là lãnh tụ đặc biệt coi trọng chiến lược con người. Con người là
mục tiêu, đồng thời là nhân tố quyết định thành công của cách mạng. Vi thế, Người
nhấn mạnh sự cần thiết vũ trang cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng
viên, thanh niên những giá trị đạo đức mới với ý nghĩa là động lực của cách mạng.
Theo Người, con người cần đạo đức, cách mạng cần đạo đức. Đạo đức là thước đo
“trình độ người”, “chất người” của một con người. Điều này là tất yếu, lẽ tự nhiên,
giống như bôn mùa của trời, bốn phương của đất:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời.

Thiếu một phương, thì khơng thành đất.
Thiếu một đức, thì khơng thành người”1.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giữ một vai trị hết sức quan trọng.
Nó là động lực giúp chúng ta vượt qua khó khăn cũng như khi cách mạng thắng lợi.
Nhờ có đạo đức mà “thắng khơng kiêu, bại không nản”, luôn giữ được thái độ chất
phác, khiêm tốn, giản dị, hịa mình với nhân dân. Nhờ có đạo đức cách mạng mà
những người cách mạng vượt qua được cú sốc “kiêu ngạo cộng sản”.
Đạo đức cách mạng cũng chính là tiêu chí, thước đo lịng cao thượng của mỗi
con người. Theo Hồ Chí Minh, mỗi cá nhân có tài năng, sở trường, vị trí cơng việc
khác nhau, nhung ai giữ được đạo đức thì người đó có lòng cao thượng. Đạo đức
cách mạng là động lực trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng
đất nước. Suy nghĩ “châu chấu đấu voi” về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
của nhân dân ta là rất thiển cận, chỉ thấy vật chất, không thấy sức mạnh đạo đức,
tinh thần. Hồ Chí Minh phân tích: “Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ
lấy con mắt hẹp hịi mà xem, thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của
địch, lúc đó ta phải dùng gậy tầm vơng. Nhưng Đảng ta theơ chủ nghĩa Mác-Lênin,
chúng ta khơng những nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc
2


vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết
trả lời những người lừng chừng và bi quan kia rằng:
Nay tuy châu chau đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”.
Hồ Chí Minh tổng kểt: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật chất, chúng
ta vì nước, vì dân mà chịu khổ, một cái khổ rất có giá trị, thì vật chất càng khổ tinh
thần càng sướng”.
Đạo đức cách mạng càng cần thiết đối với người cách mạng, người cán bộ,
đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, “mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”1. Là một con người từng trải và thấu

hiểu cuộc chiến đấu khổng lồ trong sự nghiệp giải phóng và phát triển, Hồ Chí Minh
ln nhấn mạnh vai trị quyết định của con người và sự cần thiết phải xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa mà phẩm chất chính trị, đạo đức là hàng đầu. Người luận
giải: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ
vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp,
lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”. Khi cán bộ, đảng viên có chức, có quyền thì càng phải chú ý rèn luyện đạo
đức. Bởi vì, “cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì
quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp
ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
2.2 Những phẩm chất đạo đức cơ bản
Thứ nhất, trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ
giữa cá nhân với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. “Trung” và “hiếu” là những khái niệm
chuẩn mực của đạo đức cũ (thuộc hệ đạo đức Nho giáo), chứa đựng một nội dung
hạn hẹp “trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Hồ Chí Minh khơng cần gạt bỏ khái niệm
đạo đức cũ đã ăn sâu trong nhận thức và hành động của con người Việt Nam hàng
ngàn năm dưới chế độ phong kiến, thể hiện bổn phận của bầy tôi đổi với vua, trách
nhiệm của con cái với cha mẹ.
Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ nội dung mới, có ý nghĩa khoa học, cách
mạng và nhân văn là “trung với nước, hiếu với dân”. Đây là cuộc cách mạng trong
quan niệm đạo đức. Nhân dân từ thân phận nơ lệ, khơng có quyền tự do, dân chủ trở
thành người chủ, sáng tạo ra lịch sử. Dưới chế độ phong kiến, quan là phụ mẫu của
dân, dưới chế độ mới, dân là chủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân. Làm cán bộ,
làm lãnh đạo là làm đày tớ của dân.
“Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước với dân tộc, thể
hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và sự phát triển của đất nước.
3



Nội dung trung với nước, hiếu với dân là phải quyét tâm, suốt đời, hét lòng, hết sức
phụng sự cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đặt lợi ích của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải trọng dân, tin dân, học dân, hỏi dân, hiểu
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, thương dân, hịa mình với quần chúng nhân dân
thành một khối; nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; quan tâm dân quyền, dân sinh,
dân trí, dân chủ, dân vận; làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. “Trung với nước, hiếu
với dân” không phải là một khẩu hiệu, phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo theo
tinh thần “nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”. Đó mới thật sự là đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Thứ hai, cần, kiệm, liêm, chính, chi cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ “với
mình”.
Cần là siêng năng, chăm chỉ cố gắng dẻo dai. cần có nghĩa hẹp là từng người,
nghĩa rộng là mọi người, từ gia đình đến làng, nước. Cần liên quan đến kế hoạch
cơng việc, nghĩa là phải tính tốn cẩn thận, sắp đặt gọn gàng, cần là luôn cố gắng,
luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời.
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi. Cần và kiệm
phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn.
Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có
việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù bao nhiêu cơng, tốn
bao nhiêu của cũng vui lịng.
Liêm là trong sạch, không tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh
tiếng, tham ăn ngon, tham sống yên là bất liêm. Người cán bộ cậy quyền thế mà đục
khoét dân, ăn của đút, dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình đều là
trái với chữ liêm. Chữ liêm phải đi đơi với chữ kiệm. Có kiệm mới liêm được. Vì xa
xỉ mà sinh ra tham lam.
Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng thẳng
thắn, đứng đắn tức là tà.
Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, hoa, quả

mới là hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm, nhưng cịn phải chính mới lả
người hồn tồn.
Hồ Chí Minh cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con
người, một lẽ tự nhiên như bôn mùa của trời, bốn phương của đất. Nó là thước đo
phẩm chất người của mỗi người, vì “thiếu một đức thì khơng thành người”, cần,
kiệm liêm, chính đặc biệt cần thiết đối với cán bộ, đảng viên vì họ là những người
có quyền, nếu thiểu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút. Cán bộ, đảng
viên mà suy thối đạo đức thì ảnh hưởng đến thanh
danh của Đảng, đến nhiệm yụ each mạng. Đảng viên sai lầm sẽ đưa quần chúng đến
4


sai lầm.
Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc:
“Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh tiên bộ” .
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là
cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân,
Tổ quốc và nhân loại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng “cần, kiệm, liêm, chính
là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của xã hội suy
vong”.
Chí cơng vơ tư là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ với việc chung,
hàm chứa sự cơng bằng và vì lợi ích chung, khơng vì tư lợi. Khi làm bất cứ việc gì
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”; là lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Thực hành chí
cơng vơ tư gắn liền với chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là “chỉ lo mình
béo mặc thiên hạ gầy”; là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết; là
chỉ biết “mọi người vì mình” mà khơng lo “mình vì mọi người. Chủ nghĩa cá nhân
là một thứ gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một
thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như tham ơ, lãng phí, quan

liêu, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành... Chủ nghĩa cá nhân là tư tưởng
tiểu tư sản ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta, chờ dịp hoặc thất bại, hoặc thắng
lợi để ngóc đầu dậy. Nó phá từ trong phá ra, là bạn đồng minh của chủ nghĩa để quốc
và thói quen truyền thống lạc hậu, nguy hiểm hơn kẻ thù bên ngoài. “Chủ nghĩa cá
nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thẳng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa
cả nhân". Chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho Đảng và cả dân tộc: “Một dân
tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng
dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vơ luận trong hồn cảnh nào cũng phải chống
chủ nghĩa cá nhân và các loại kẻ địch khác. Tuy nhiên, cần phân biệt sự khác nhau
giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích chính đáng của cá nhân. Mỗi người đều có tính
cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình. Nếu những
lợi ích cá nhân đó khơng trái với lợi ích của tập thể thì khơng phải là xấu. Theo Hồ
Chí Minh, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân khơng phải là “giày xéo lên lợi ích
cá nhân”. Và chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để
cải thiện đời sổng riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của
mình.
Chi cơng vơ tư là ln biết đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc, của Đảng,
5


của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân. Có chí cơng vơ tư thì đầu óc mới
sáng suốt để tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, một trong
những cách xem xét việc đời và cách tu dưỡng của người cách mạng là “phải giữ
vững đạo đức cách mạng, cao nhất là chi công vô tư”. Người chỉ rõ, một đảng viên
phải thật thà, trung thành, hăng hái. Trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh của
mình. Phải hy sinh lợi ích cá nhân của mình cho Đảng. Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu,
bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng

lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để lại sau; phải
giữ đúng nguyên tắc, ra sức đấu tranh chống những tư tưởng và hành vi sai lầm để
củng cố sự sinh hoạt tập thể của Đảng, củng cố quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
Chăm lo đến Đảng và quần chúng hơn chăm lo đến cá nhân, săn sóc đến người khác
hơn săn sóc đến mình.
Thứ ba, thương u con người
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ với người khác. Kết hợp
nghiên cứu lý luận với những trải nghiệm, Hồ Chí Minh cho ràng trên đời này chỉ
có hai loại người: áp bức và bị áp bức, người ác và người thiện và hai thứ việc: việc
chính và việc tà. Những người làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người
ác. Người từng nói: Lịng thương u nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ
thay đổi. Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác.
Thương yêu, quý trọng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là tình
thương yêu con người dành cho con người đang sống thực trên đời này, bị áp bức,
đói nghèo, bệnh tật. Đó là tình u thương như nhân loại đã ngợi ca: “Bất cứ nơi nào
chiên đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.
Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hịa bình và cơng lý, ở đỏ có Hồ Chí Minh và ngọn cờ
Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống
lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
Tình thương u con người của Hồ Chí Minh là một biểu hiện sáng ngời của
việc thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo Người, “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là
phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống khơng có
tinh có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được”. Đó là một tình thương
u khơng chỉ trong phạm vi dân tộc mà cả phạm vi nhân loại.
Thứ tư, tinh thần quốc tế trong sáng
Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan hệ quốc tế: Tinh thần quốc tế
là một phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước nhiệt thành, một chiến sĩ
quốc tế vĩ đại. Người không chỉ giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung

mà còn là hiện thân của tinh thần quốc tế, kết hợp chủ nghĩa yếu nước chân chính
6


và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln tơn trọng, quan tâm
đến các dân tộc. Người đặt sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam trong quỹ
đạo của cách mạng thê giới; coi thắng lợi của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi
chưng của nhân dân tiến bộ thế giới, thắng lợi của bạn cũng là thắng lợi của mình.
Hồ Chí Minh lên án và đấu tranh chống chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng, phân biệt
chủng tộc; đoàn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ khắp thế giới. Người
gắn mục tiêu đấu tranh của nhân dân Việt Nam với mục tiêu chung của nhân loại là
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tinh thần quốc tế trong sáng,
thủy chung, trước sau như một của Hồ Chí Minh là một tài sản vô giá của Đảng và
dân tộc ta.
1.3 Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Thứ nhất, tu dưỡng đạo đức suốt đời
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Đạo đức cách mạng nhằm giải
phóng con người (thốt khỏi các quan niệm, giá trị đạo đức cũ), đó là đạo đức của
những con người được giải phóng. Vì vậy, sự tu dưỡng phải xuất phát từ lương tâm
của mỗi người, hướng đến mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Không
vượt qua được chính mình, khơng chiến thắng được “giặc trong lịng” thì khơng thể
có đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân
ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Cịn cỏ dại
khơng cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ
mới có được. Cịn tư tưởng cá nhân thì như cỏ dại, sinh sơi, nảy nở rất dễ”.
Thứ hai, nêu gương đạo đức
Nêu gương đạo đức, nói thì phải làm, nói đi đơi với làm. Đạo làm gương là

một nét đẹp của văn hóa phương Đơng. Khi ca ngợi đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh
cho rằng: Đối với các dân tộc phương Đông, một tấm gương sống cịn có giá trị hơn
một bài diễn viên tuyên truyền.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, lý luận phải gắn với thực tiễn nhưng điều quan
trọng nhất về mặt đạo đức ỉà lấy hiệu quả làm thước đo. Người chỉ rõ: “trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức1”. Làm gương ở nhiều
môi trường và cấp độ khác nhau. Nhân dân ta thường nói “đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”. Trong mọi biểu hiện làm gương thì người đứng đầu, cán bộ chủ chốt
giữ một vai trò rất quan trọng. Muốn hướng dẫn cấp dưới và nhân dân thì mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước.
Thứ ba, xây đi đôi với chống
7


Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức khoa học, đảng viên và cán bộ cũng là
người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý
do khác nhau, “khơng phải người người đều tốt, việc việc đều hay”. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Đảng ta khơng phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy
nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa
bỏ hểt những thói xấu tự tư tự lựi, kiêu ngạo, xa hoa”. Nhiều khi có những đảng viên
“phớt qua phép luật, trốn tránh và làm trái phép luật, về điểm này, những người ngoài
Đảng cẩn thận hơn. Vì đảng viên thường xem phép luật, chính quyền, V.V., là việc
trong nhà. Vi vậy, mà có đơi đảng viên như những con lợn (xin lỗi tiếng đó), họ rúc
vào vườn rau của Nhà nước, chén một bữa no say, hoặc họ hy sinh lợi ích của nước
nhà, để lên mặt mình là khảng khái”.
Chống và xây đi liền với nhau. Lấy gương người tốt việc tốt hàng ngày giáo
dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Trong mối quan hệ giữa
chống và xây, cần nhận thức chống cũng nhằm xây, đi liền với xây nhưng xây là

nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài để kiến tạo một nền đạo đức mới ở Việt Nam, xây dựng
một xã hội mới với những con người có đạo đức.
III. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay:
1.
Thực trạng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ
đảng viên và nguyên nhân
1.1 Thực trạng
Thời gian qua, bằng nhiều giải pháp (tuyên truyền, giáo dục, triển khai các cuộc
vận động học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tồn
Đảng và tồn xã hội...), tình trạng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đã có sự
chuyển biến tích cực, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng
và xã hội; góp phần xiét lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
Tuy nhiên, như Đảng nhận định: “Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở
một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi cịn bng
lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn
cịn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình cịn yếu. Một số tổ chức
cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu...
Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại
khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”1. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng với những biểu hiện
ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo

8


đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt,
có bộ phận diễn biển còn phức tạp. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh chưa đều, chưa đi vảo chiều sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn
vị; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức, làm giảm lịng tin của cán bộ, đảng

viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
1.2 Ngun nhân
Tình hình trên có cả ngun nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên
nhân chủ quan là chủ yếu.
Nguyên nhân khách quan là do tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội
trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ
mặt trái của kinh tế thị trường; nhiều vấn đề mới phức tạp phát sinh từ thực tiễn
nhưng ị
chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả; các thể lực thù địch, phản
động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Nguyên nhân chủ quan là do bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn
luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vảo chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ
danh lợi.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả. Sinh
hoạt đảng cịn hình thức. Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có
chiều sâu. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên
phong, gương mẫu. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang,
thiếu cương quyểt. Cơ chế, kiểm sốt quyền lực chậm được hồn thiện, cịn nhiều
sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu
về năng lực, giảm sút uy tín. Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa
nghiêm, cịn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới”. Cơng tác thanh tra, kiểm tốn, điều
tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ nghiêm minh. Cơng tác đấu tranh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu; việc kê khai tài sản, thu nhập
cịn hình thức. Việc phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị xã
hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn suy thoái, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hỏa” trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Đảng đã nhận thức sâu sắc nguy cơ, thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình
hình và chỉ rõ: “Cơng tác cán bộ cịn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung
trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi cịn hình thức. Tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh

lãng phí, vơ cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi.
2.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong tình hình hiện nay
Thứ nhất, thực hiện chuẩn mực đạo đức “Trung với nước, hiếu với dân
Thấm nhuần, quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai
9


đoạn mới; trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưỏrng của Đảng và dân tộc, tham gia
tích cực vào việc thực hiện công cuộc đổi mới mục tiệụ dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công
cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lọi ích quốc gia - dân
tộc; bảo vệ nền vãn hóa dân tộc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; hết lòng, hết sức phục vụ nhân, giải quyết kịp thời những nguyện vọng
chính đáng của dân; khắc phục thói vơ cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân
dân, chống bệnh quan liêu.
Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cụ thể, học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta phải ln ghi nhớ và làm theo
lời dạy của Người về sức mạnh vô địch của nhân dân, “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng; phải “lấy dân làm gốc”. Bởi vì như Hồ Chí Minh đã nói: “cách xa dân
chúng, khơng liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lửng lơ giữa trời, nhất
định thất bại”. Khơi dậy tinh thần, nghị lực, ý chí và khát vọng vươn lên, quyết tâm
vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại.Ln có ý thức giữ
gìn sự đồn kết trong Đảng, đồn kết dân tộc, trong cơ quan, đơn vị.

Thứ hai, thực hiện đúng lời dạy “Cần kỉệm liêm chính, chí cơng, vơ tư”, nêu
cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Tích cực công tác, lao động sáng tạo, năng suất cao, chất lượng, hiệu quả; biết
quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân. Đẩy mạnh việc
học tập với thái độ khiêm tốn, cầu thị.
Phải biết làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, chủ
nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”. Đối với cán bộ
lãnh đạo, quản lý, đảng viên phải loại bỏ thói tham vọng chức quyền, “tư duy nhiệm
kỳ”, chạy theo danh lợi, địa vị, quyền hành, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiêm
đoạt của công, đục khoét của Nhà nước và nhân dân, thu vén cho gia đình, cá nhân,
cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống buông
thả, hưởng thụ, vị kỷ, nói khơng đi đơi với làm, nói nhiều làm ít. Phải rèn luyện đời
tư chính trực, trong sáng, khơng tự kiêu, tự đại; khơng nịnh hót người trên, không
xem khinh người dưới; phải để công việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà;
10


“dĩ cơng vi thượng”. Phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, tôn trọng kỷ cương,
kỷ luật, nguyên tắc tổ chức của Đảng, thực hiện đúng đường lối, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Thứ ba, thực hiện chủ nghĩa nhân vãn, sống có nghĩa có tình
Phải thật sự có tình thương yêu đồng bào, những người lao động bình thường,
những người nghèo khổ, có hồn cảnh khó khăn, “những người chịu đựng cái kết
quả của sự lãnh đạo của ta”. Phải tin vào nhân dân, coi “dân là gốc” với nhận thức
có lực lượng dân chúng, việc to mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Khơng có thi
việc gì ỉàm cũng khơng xong. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau
tiến bộ. Sống với nhau phải có nghĩa có tình thì mới gọi là hiểu chủ nghĩa MácLênin. Muốn vậy, phải tự phê bình và phê bình chân thành, thường xuyên, nghiêm
chỉnh giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Giữ vững tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung...

IV. Trách nhiệm của bản thân:
Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về đạo đức theo tư tưởng của Hồ
Chí Minh trong thời gian tới bản thân cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ:
Một là: Chỉ đạo Cấp ủy, chi bộ, các ban ngành đồn thể …đẩy mạnh cơng tác
tuyên truyền nội dung xây dựng đảng về đạo đức đến với đoàn viên, hội viên, đảng
viên và nhân dân để cùng thực hiện. Tạo nên phong trào sâu rộng trong đoàn viên,
hội viên và nhân dân.
Hai là: Bản thân thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện lý tưởng đạo đức cách
mạng của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên. Chỉ đạo các chi bộ trực thuộc Đảng
bộ xây dựng kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hàng
năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin mới phù hợp với từng
đối tượng, từng ngành, từng đơn vị. Chỉ đạo Các chi bộ cụ thể hóa văn bản của cấp
trên thực hiện kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân cán bộ, đảng viên.
Kiên định thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chống
suy thoái, dao động về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; chống suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”
gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ba là: Chỉ đạo và ban hành kế hoạch thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng
Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan
hệ của cán bộ, đảng viên, của tổ chức đảng. Hằng năm chỉ đạo người đứng đầu, cán
bộ, đảng viên phải có cam kết, rèn luyện giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống. Các chi ủy, Chi bộ thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát việc thực hiện
cam kết của cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị. Xây dựng và thực hiện tốt các quy
11


định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tác
phong, lề lối làm việc. Nêu cao tinh thần trách nhiệm tự giác đi đầu, gương mẫu theo
Quy định 101-QĐ/TW, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán

bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ
Chính trị, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán
bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành
Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Bốn là, Hàng năm chỉ đạo cấp ủy, chi bộ trực thuộc cần quán triệt và thực
hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, tiêu cực; dũng cảm tự phê bình và phê bình. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải nghiêm túc, thường xuyên tự kiểm điểm bản thân mình, có dũng khí đấu
tranh tự phê bình và phê bình trước cấp ủy, tổ chức đảng, thấy đúng phải cương
quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh. Kiên quyết đấu tranh chống lại việc
lợi dụng phê bình để bơi nhọ, hạ thấp uy tín của nhau, gây mất đồn kết nội bộ, xây
dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Năm là: Chỉ đạo cấp ủy, chi bộ xem công tác xây dựng Đảng về đạo đức là
một trong những nội dung trọng tâm, then chốt, cùng với các nội dung khác là xây
dựng Đảng về tư tưởng, xây dựng Đảng về chính trị, xây dựng Đảng về tổ chức tạo
thành tổng thể nội dung cơng tác xây dựng Đảng. Đó vừa là sự kế thừa, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh, vừa là đòi hỏi của thực tiễn cách mạng trong giai đoạn hiện
nay.
Sáu là: Bản thân Thường xuyên lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của
người dân, đảng viên về xây dựng Đảng thông qua hoạt động đi cơ sở, tham gia đối
thoại đoàn viên, hội viên và nhân dân hàng tháng, sinh hoạt chính trị, tổ
NDTQ…thực hiện tốt sự giám sát, kiểm tra của Nhân dân, đảng viên đối với tổ chức
đảng và các cán bộ đảng viên để kịp thời giải quyết những kiến nghị chính đảng của
đảng viên và nhân dân.
Tóm lại: Trên cơ sở kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, to tưởng Hồ Chí Minh phải: “Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn
chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các
tệ nạn xã hội”. Tập trung “nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện các giá trị đạo đức cách
mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh- cho phù-hợp -với điều kiện

mới và truyền thong văn hóa tốt đẹp của dân tộc... Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình,
ln vững vàng trước khó khăn, thách thức và khơng bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài,
danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.
12


Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức”.
Qua đó cho chúng ta thấy được tầm quan trọng và vai trò của việc xây dựng Đảng
về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi sự
chung tay, quyết tâm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, tổ chức
đảng và đảng viên. Đặc biệt vai trò cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy các cấp cần phải
chỉ đạo tổ chức, đảng viên trực thuộc tổ chức thực hiện nghiêm, triển khai sâu rộng
nội dung này trong đảng viên và nhân dân để tạo nên phong trào sâu rộng trong toàn
thể xã hội.

13


14


15


16


17



18


19


20


21


22


23


24


25


×