Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

(SKKN HAY NHẤT) một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.81 KB, 26 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
" MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU VĂN BẢN CHO
HỌC SINH LỚP 4"

1

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu học là bậc học mở rộng cho kiến thức ở tương lai, là nền móng vững chắc cho tồn
bộ hệ thống quốc dân. Trong đó Tiếng Việt chiếm thời lượng nhiều nhất so với thời
lượng của các mơn học khác. Nó là cơ sở hình thành nhân cách con người Việt Nam và là
cơ sở cho các môn học khác.
Tiếng Việt là môn học công cụ, là chìa khóa, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức
lồi người. Trong đó, phân mơn tập đọc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chương
trình Tiểu học vì nó đảm nhiệm việc hình thành kĩ năng nghe- đọc- nói cho học sinh,
những kĩ năng quan trọng hàng đầu trong quá trình tiếp nhận tri thức, cho nên đọc (đặc
biệt là đọc hiểu) trở thành đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với người đi học.
Đọc hiểu là một quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thơng
hiểu nó. Thơng qua dạy đọc bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt, u cái thiện,
cái đẹp hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt mà cái đích
cuối cùng là sự phát triển tồn diện của học sinh. Nhưng kĩ năng đọc hiểu của học sinh
chưa cao, chất lượng đọc hiểu của các em chưa đạt yêu cầu, dẫn đến kết quả chưa đáp
ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc cơ bản quan trọng và không tránh khỏi
việc tiếp thu kiến thức các môn học khác chậm, kết quả học tập của học sinh thấp, chất
lượng giáo dục không cao. Làm thế nào để nâng cao chất lượng đọc hiểu cho học sinh,
giúp các em không chỉ biết đọc to, đọc rõ, đọc lưu loát, biết ngắt, nghỉ, hạ giọng, cao


giọng mà các em còn biết đọc hiểu văn bản, hiểu được nội dung tác phẩm, tư tưởng, tình
cảm tác giả, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa? Câu
hỏi ấy đặt ra với nhiều giáo viên, đặc biệt là giáo viên giảng dạy lớp 4 thì câu hỏi ấy càng
nung nấu, bởi vì yêu cầu đọc hiểu cao nhất ở bậc Tiểu học là lớp 4 để tiến tới đọc diễn
cảm ở lớp 5.
Trong môn Tiếng Việt, Tập Đọc là quan trọng nhất, thông qua phân mơn này sẽ giúp học
sinh hình thành kĩ năng đọc. Cái đích là hướng tới kĩ năng đọc đồng thời là phương tiện
để đạt được sự thông hiểu văn bản của học sinh. Trong những năm gần đây việc đổi mới
phương pháp dạy học và áp dụng giảng dạy trên lớp kết hợp đi dự giờ bạn đồng nghiệp
với phân mơn này qua nhận xét góp ý tơi thấy chưa có sự đổi mới đáng kể. Tơi đã trăn trở
tìm hiểu để nắm được thực trạng qua trao đổi với đồng nghiệp và khảo sát học sinh, tôi
thấy chất lượng phần đọc hiểu của trường cịn thấp nên tơi quyết định đi sâu vào vấn đề
này.
2

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Vì những trăn trở trên, với mong muốn cùng đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm dạy đọc
hiểu cho học sinh, tôi đã chọn nghiên cứu và giới thiệu Đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ
năng đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 4” để đồng nghiệp cùng tham khảo.
PHẦN 2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
HƯỚNG DẪN ĐỌC ĐÚNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành ngơn ngữ cho học sinh, trong đó đọc là quan
trọng. Vì đọc không thể tách rời nội dung được, việc rèn luyện kĩ năng đọc là để làm giàu
kiến thức về ngôn ngữ, đời sống, kiến thức văn học. Phát triển tư duy, giáo dục tư tưởng,
đạo đức, tình cảm, thẩm mỹ cho học sinh. Cho nên đọc là kĩ năng cơ bản, giữ vai trò quan

trọng trong việc giúp người học chiếm lĩnh kiến thức.
Tuy nhiên không phải lúc nào đọc học sinh cũng hiểu được dễ dàng vì cịn phải chú ý vào
mặt chữ để đọc lưu lốt. Ngồi ra, do nghèo nàn về ngôn từ, hạn chế về khả năng liên kết
câu, ý, nên việc hiểu nội dung rất khó khăn.
2. THỰC TRẠNG:
- Hàng ngày các em thường giao tiếp bằng ngôn ngữ 1 (Ngôn ngữ 1: Tiếng H’re hay
tiếng mẹ đẻ), nên khi đi học học sinh khó phát âm đúng ngôn ngữ 2 (Tiếng việt);
- Thời gian sử dụng ngôn ngữ 1 gấp 6 lần ngôn ngữ 2;
- Ở tại địa phương nơi các em ở cũng khơng có người rèn nói đúng cho các em;
- Chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi nghe giáo viên đọc.
3. CÁC BIỆN PHÁP
3.1 Để học sinh đọc đúng giáo viên phân loại học sinh và tổ chức cho các em
đọc theo nhóm đối tượng:
BẢNG PHÂN LOẠI HỌC SINH THEO KHẢ NĂNG ĐỌC ĐÚNG

3

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Số em
Năm học

Lớp

TS biết đọc đúng
HS

Số em


Số em

SL

Tỉ
%

lệ

đọc chậm

đọc
đúng

chưa

SL

Tỉ lệ % SL

Tỉ lệ %

20122013

4C

25

05


20

8

32

12

48

20132014

4C

22

03

14

5

23

14

63

3.2 Dự tính lỗi học sinh dễ mắc, những từ khó lần trước học sinh đọc chưa tốt
để học sinh luyện đọc lại:

- Học sinh đọc chưa đúng chính tả chủ yếu do các em chưa đọc đúng âm, vần, dấu thanh,
chưa phân biệt được cách phát âm, chưa hiểu rõ nghĩa của từ;
- Học sinh đọc sai chính tả do một số lỗi sau:
Ví dụ:
Lỗi do không hiểu nghĩa của từ (để dành/tranh giành, dở dang/giang sơn,..);
+ Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh);
+ Lỗi về các vần khó (uya, uyu, uênh, oang, oeo, ươu, uyên, uyêt, …);
+ Lỗi do phát âm sai (at/ac, et/ec, an/ang, iu/iêu, iêc/iêt, ươc/ươt, …);
Đây là loại lỗi phổ biến và trầm trọng nhất trong các bài đọc của các em, trong tất cả bài
đọc của học sinh trong lớp thì chỉ có một em duy nhất khơng sai lỗi nào đó là em:
Nguyễn Nữ Trung Duyên (Năm học 2013-2014).
3.3 Quá trình đọc một văn bản:
- Khi học sinh đọc giáo viên chú ý phát hiện những từ học sinh đọc sai, ghi bảng để học
sinh đọc lại;
- Nếu là học sinh yếu giáo viên cần đọc mẫu trước khi cho học sinh đó đọc lại.

4

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trong q trình giảng dạy, tơi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy học sinh có
sự tiến bộ rõ rệt. Học sinh hứng thú trong phần đọc đúng khơng cịn “sợ” đọc như trước
đây nữa.
Kết quả điểm đọc cụ thể qua từng đợt kiểm tra như sau:
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐỌC ĐÚNG
Năm học 2012 - 2013

Điểm


Điểm
giỏi

Điểm khá

4C đợt kiểm tra

S
L

SL

TL
%

SL

TL
%

SL

TL
%

25

KSCL đầu năm


02 8

03

12

8

32

12

48

25

KTĐK cuối kì I 05 20

07

28

09

36

04

16


25

KTĐK cuối kì
08 32
II

07

28

10

40

TS
HS Các

TL
%

Điểm TB

Điểm yếu

Năm học 2013 - 2014

T
S

m


Điể Điểm
giỏi

HS Các
4C đợt kiểm tra

S
L

TL
%

22

KSCL đầu năm

01 5

22

KTĐK cuối kì I 03 14

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu

SL


TL
%

SL

TL
%

SL

TL
%

02

9

05

23

14

63

06

27


09

41

04

18

5. TIỂU KẾT:
5

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đọc đúng là kĩ năng tái hiện âm thanh một cách chính xác, khơng thừa, khơng sót âm,
vần, tiếng, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. Kĩ năng đọc đúng giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn,
tốt hơn. Vì vậy, rèn kĩ năng đọc đúng là một việc làm không thể thiếu trong giờ dạy tập
đọc.
Đây là cơ sở đề xuất các biện pháp tối ưu nhất nhằm giúp học sinh lớp 4 tự mình chiếm
lĩnh tri thức mới và chất lượng đọc hiểu đạt được kết quả cao nhất.
CHƯƠNG 2
HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. LÝ DO HỌC SINH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Đọc đúng tiếng, từ của một văn bản là vấn đề cần thiết nhưng chưa đủ nếu như các em
chưa hiểu nghĩa của từ, của văn bản thì việc tiếp nhận nội dung của một vản bản cũng rất
khó khăn. Để các em có thể hiểu nội dung của một văn bản thì các em phải biết cách đọc
hiểu văn bản.
Riêng với học sinh lớp 4 đọc hiểu là vấn đề cần thiết, có hiểu nội dung bài văn (thơ) thì
học sinh mới đọc diễn cảm được. Việc luyện đọc hiểu thường thể hiện trong bước đọc
thầm. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng tiếp nhận, thông hiểu văn bản đọc.

Khi nào học sinh hiểu được điều mình đang đọc mới được coi là biết đọc, khi đọc và hiểu
được nội dung thì học sinh sẽ hứng thú hơn, ham học hơn.
2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC ĐỌC HIỂU Ở TIỂU HỌC
2.1. Tìm hiểu thực trạng:
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp 4C, là Chủ tịch Cơng đồn trường vừa là thành viên
trong tổ chuyên môn nhà trường, bản thân thường được đi dự giờ đồng nghiệp trong
trường. Trong phần Tập đọc tôi được dự giờ thì phần tìm hiểu bài đa số giáo viên đều
trung thành với câu hỏi sách giáo khoa. Phần đông các câu hỏi sách giáo khoa thường là
câu hỏi khó và khái quát nên học sinh rất khó trả lời. Phần lớn, giáo viên chưa quan tâm
sâu phần đọc hiểu cho một bài Tập đọc, chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học. Đối với học sinh các em cứ đọc cứ trả lời các câu hỏi
sách giáo khoa làm mất đi tính tích cực, chủ động và sáng tạo nên chưa tham gia hào
hứng phần tìm hiểu nội dung bài. Hơn 99% học sinh là dân tộc Hre, con nhà nơng nên ở
nhà các em cịn phải phụ giúp gia đình nên ít có thời gian chuẩn bị bài.

6

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


* Lớp tôi phụ trách năm học này là một lớp học đặc biệt với 02 học sinh có vấn đề thần
kinh (thiểu năng trí nhớ). Vì vậy, nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, nhất là phần
trả lời các câu hỏi cho nên chất lượng đọc hiểu còn thấp.
2.2. Thống kê phân loại học sinh:
Trong 2 năm học gần đây, tôi đều được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 4. Năm nào cũng vậy, để định hướng cho việc lập kế hoạch bài giảng, kế hoạch
dạy đọc hiểu cho học sinh một cách hiệu quả tôi đã tiến hành phân loại học sinh theo khả
năng đọc hiểu của các em, kết quả cụ thể như sau:
BẢNG PHÂN LOẠI HỌC SINH THEO KHẢ NĂNG ĐỌC HIỂU
Số em


Số em
Năm học



đọc
chậm

TS biết đọc hiểu
HS
SL

Tỉ
%

lệ

Số em
hiểu chưa
hiểu

biết

SL

Tỉ lệ % SL

Tỉ lệ %


20122013

25

05

20,0

7

28,0

13

52,0

20132014

22

02

9,1

7

31,8

13


59,1

đọc

Nhận xét:

Từ kết quả trên, tôi nhận thấy rằng số học sinh có kĩ năng đọc – hiểu còn hạn chế. Các
em chưa hiểu và vận dụng được một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính
cách…để hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn,
bài thơ.
2.3 Thực trạng
2.3.1 Thực trạng việc đọc hiểu của học sinh:
Qua thống kê phân loại học sinh cho thấy thực trạng kĩ năng đọc hiểu của học sinh
lớp 4 chưa đạt yêu cầu. Khả năng đọc hiểu của các em vừa yếu lại vừa chậm. Số em chưa
biết đọc hiểu chiếm tới gần 50% tổng số học sinh trong lớp. Chất lượng giờ dạy Tập đọc
chưa cao. Có những học sinh khơng hiểu gì sau một giờ học tập đọc.
7

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trong tiết học tập đọc, học sinh không hứng thú với việc tìm hiểu nội dung bài đọc
mà chỉ chú ý đọc to, đọc trơi chảy bài văn. Khi tìm hiểu nội dung bài đọc học sinh không
nắm được yêu cầu của câu hỏi dẫn đến nói lan man khơng có trọng tâm câu trả lời, các
em chỉ tập trung trả lời những câu hỏi mang tính tái hiện lại kiến thức. Với những câu hỏi
mang tính phân tích, tổng hợp, khái quát nội dung kiến thức thì các em gặp nhiều khó
khăn và thường hay sao nhãng với loại câu hỏi này.
2.3.2 Thực trạng việc dạy đọc hiểu của giáo viên:
- Phần lớn giáo viên dạy học còn chạy theo thời gian, làm thế nào cho xong tiết dạy
đúng thời gian qui định, dành nhiều thời gian cho việc rèn đọc thành tiếng, ít quan tâm

đến kĩ năng đọc thầm, đọc lướt, không dành thời gian cho học sinh suy nghĩ về nội dung
văn bản đọc. Trong bước tìm hiểu bài giáo viên ít tác động đồng đều đến các đối tượng
học sinh mà chỉ loanh quanh với những học sinh giỏi. Nhiều giáo viên chưa quan tâm
nhiều đến việc khai thác nội dung bài đọc giúp học sinh phát triển năng lực học tập, đôi
lúc bỏ qua hoặc phớt lờ những trường hợp học sinh không hiểu hoặc hiểu sai câu hỏi giáo
viên nêu ra, thay vào đó giáo viên cung cấp nội dung bài một cách áp đặt dẫn đến chất
lượng giờ dạy tâp đọc chưa cao.
2.4 Nguyên nhân
2.4.1. Nguyên nhân từ học sinh:
- Học sinh chưa phát huy tính tích cực trong học tập, kĩ năng đọc hiểu yếu, còn lúng túng
khi trả lời câu hỏi hoặc giải nghĩa từ;
- Học sinh khơng có thói quen đọc thường xuyên, các em chỉ đọc những bài tập đọc do
giáo viên yêu cầu, thời gian còn lại trong ngày các em quan tâm nhiều đến các lĩnh vực:
trò chơi trên máy tính, phim ảnh, các trị chơi khác…;
- Học sinh chưa có ý thức rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, khi đọc một câu chuyện, một tác
phẩm văn học chỉ là đọc sng chứ khơng có ý tìm hiểu nội dung câu chuyện, nội dung
văn bản mình đọc;
- Học sinh không hiểu nghĩa từ, chưa biết tra cứu từ điển.
2.4.2 Nguyên nhân từ giáo viên:
- Giáo viên chưa xây dựng thói quen đọc thường xuyên cho học sinh;
- Giáo viên chưa chú trọng đến việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh;
- Một số giáo viên còn xem nhẹ việc rèn đọc nhất là đọc hiểu, chỉ chú trọng nhiều đến
việc luyện toán, luyện văn cho học sinh;
8

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Chưa phát huy mối quan hệ giữa dạy phân môn Tập đọc với dạy phân môn Luyện từ và
câu hay các mơn học khác;

- Giáo viên cịn nặng về truyền đạt qua sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
khơng kích thích được hứng thú học tập của học sinh.
2.4.3 Nguyên nhân từ phụ huynh học sinh:
- Trong xu thế hiện nay, nhiều phụ huynh chỉ mãi lo kiếm tiền khơng quan tâm đến việc
học của con em mình mà đặc biệt là chưa quan tâm đến kĩ năng đọc hiểu của các em
(99% là học sinh dân tộc Hre);
- Một số phụ huynh cịn gặp khó khăn trong việc giúp đỡ con em mình học ở nhà, nhất là
gặp khó khăn trong việc giúp các em đọc hiểu.
3. NHỮNG BIỆN PHÁP DẠY HỌC ĐỌC HIỂU:
3.1 Đổi mới phương pháp giảng dạy và các hình thức hoạt động học tập cho học
sinh:
Kĩ năng đọc hiểu là kĩ năng phức tạp, địi hỏi một q trình lâu dài. Q trình ấy
ngày càng được nâng cao, học sinh cần chiếm lĩnh văn bản cả nội dung và nghệ thuật
nên:
- Giáo viên cần hình thành cho các em các bước tìm hiểu văn bản;
+ Hiểu các từ, cụm từ;
+ Hiểu các câu;
+ Hiểu các đoạn, những tập hợp câu dùng để phát biểu ý trọn vẹn;
+ Hiểu được cả bài thơ (bài văn);
- Để học sinh hiểu tốt, giáo viên cho học sinh tự phát hiện kiến thức bằng cách kiểm tra
bạn, kiểm tra chính mình (học sinh đọc đoạn văn mình thích và nêu lí do mình thích).
Hoạt động này diễn ra trong bước kiểm tra bài cũ;
- Để tìm hiểu nội dung bài, giáo viên nên cho học sinh đọc đoạn văn, tự đặt câu hỏi để
tìm hiểu nội dung đoạn văn. Sẽ có nhiều câu hỏi nêu ra.
3. 2. Rèn kĩ năng đọc cho học sinh:
3.2.1 Rèn kĩ năng đọc thầm (đọc lướt). Đây là khâu then chốt.
- Đọc thầm là hình thức đọc có nhiều lợi thế để hiểu văn bản. Đây là hình thức đọc
khơng phát ra âm thanh mà chuyển trực tiếp từ kí tự sang nghĩa để hiểu văn bản. Đọc
thầm nhanh hơn đọc thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có lợi thế hơn hẳn đọc thành tiếng
9


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


trong việc tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn bản vì người ta khơng chú ý đến phát âm
mà chỉ tập trung để hiểu nội dung mình đọc;
- Khơng phải văn bản nào cũng chỉ gồm những câu đơn giản, có độ dài vừa phải dễ hiểu
với tất cả học sinh. Một số văn bản có những câu văn có cấu trúc phức tạp mà giáo viên
thường chọn để luyện đọc thành tiếng. Phần lớn những câu này chứa đựng ý quan trọng
thể hiện nội dung chính của bài.
Từ cuối lớp 1 đã có hình thức đọc thầm và càng lên lớp trên thì kĩ năng này càng được
củng cố. Kết quả đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, nghĩa của cụm từ, câu, đoạn,
bài, tức là toàn bộ những gì đọc được. Bởi vậy khi dạy đọc thầm giáo viên cần:
+ Yêu cầu đọc thầm gắn với nhiệm vụ cụ thể như: đọc thầm và trả lời câu hỏi; tìm hình
ảnh, chi tiết … để học sinh vừa đọc vừa định hướng câu trả lời.
+ Lưu ý học sinh: để hiểu và nhớ được những gì mình đọc, các em không phải xem
các từ đều quan trọng như nhau mà cần sàn lọc để giữ laị những từ “ chìa khóa” , những
nhóm từ mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ giúp ta hiểu được nội dung của bài.
+ Tiếp đó giáo viên hướng học sinh đến những câu quan trọng của bài, những câu
nêu ý chung toàn bài.
+ Sau khi học sinh đã hiểu nội dung bài đọc, thấy được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp
của cách nói văn chương, giáo viên giúp các em phát hiện tín hiệu nghệ thuật và đánh giá
được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung .
Ví dụ: Bài “Những hạt thóc giống” TV4, tập 1- có câu: “Vua ra lệnh phát cho mỗi
người dân một thúng thóc về gieo trồng và giao hẹn: Ai thu được nhiều thóc nhất sẽ được
truyền ngơi, ai khơng có thóc sẽ bị trừng phạt”.
Đây là câu văn có cấu trúc phức tạp. Đọc câu văn ta thấy rõ uy quyền của nhà vua chắc
như đinh đóng cột, khơng một người dân nào dám trái lời - càng làm nổi bật đức tính
trung thực và dũng cảm của cậu bé Chơm.
Hoặc: Bài “Hoa học trị”, có câu: “Mỗi hoa chỉ là một phần tử của xã hội thắm tươi;

người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xịe ra như
mn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.
Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm, tác giả đã
cho ta cảm nhận được hoa phượng nở với số lượng rất nhiều, rất lớn và rất đẹp. Đó chính
là lồi hoa gần gũi, thân thiết, gắn liền với những kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò.
Hoặc: Bài “Khuất phục tên cướp biển”, qua cặp câu: “Một đằng thì đức độ, hiền từ mà
nghiêm nghị. Một đằng thì nanh ác, hung hăng như con thú nhốt chuồng”. Giáo viên cần
10

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


hướng dẫn cho các em thấy được hai hình ảnh đối nghịch nhau của bác sĩ Ly và tên cướp
biển. Từ đó học sinh sẽ tự rút ra được nội dung bài và khẳng định một chân lý đó là: sức
mạnh chính nghĩa bao giờ cũng thắng sự hung tàn, bạo ngược.
* Đoạn là yếu tố trực tiếp cấu thành bài. Để hiểu bài,các em phải hiểu đoạn. Để hiểu
nghĩa của một đoạn, yêu cầu giáo viên phải hướng dẫn các em xác định được đoạn. Đoạn
là một phần của bài đọc bao gồm một số câu liên kết chặt chẽ với nhau, thể hiện cùng
một tiểu chủ đề. Trong thực tế ở Tiểu học phần lớn các đoạn lời trùng với đoạn ý. Song
chỉ có một số ít bài có đoạn lời khơng trùng với đoạn ý, đó là trường hợp chuyển tiếp,
trường hợp trong văn bản có lời đối thoại. Trong thể loại thơ cũng vậy, đoạn ý có thể
trùng với một hoặc một số khổ thơ. Để nhận ra đoạn, giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc
lướt bài, dựa vào các dấu hiệu hình thức của đoạn. Nếu đoạn lời khơng trùng đoạn ý thì
cần nhận ra dấu hiệu nội dung và hình thức để chia đoạn ý.
- Đối với tác phẩm tự sự mà các sự kiện được trình bày theo diễn biến thời gian, giáo
viên hướng dẫn các em tìm hiểu các từ ngữ chỉ thời gian để tìm đoạn ý.
Ví dụ: Bài: “Ơng Trạng thả diều” TV4, tập 1- Bắt đầu mỗi đoạn bằng các từ ngữ:
 Đoạn 1: Vào đời vua Trần….
 Đoạn 2: Lên sáu tuổi….
 Đoản 3: Sau vì nhà nghèo….

 Đoạn 4: Thế rồi….
- Đối với tác phẩm trữ tình, giáo viên cần hướng dẫn các em căn cứ vào các câu văn,
câu thơ có sự chuyển đổi cảm xúc, tâm trạng để xác định đoạn ý.
Ví dụ: Bài: “Gà Trống và Cáo” TV4, tập 1.
 Đoạn 1 (10 dịng đầu): Lời Cáo dụ Gà, tưởng như bình thường Gà sẽ tin.
 Đoạn 2 (6 dịng tiếp): Gà thơng minh, biết Cáo dụ nhưng làm bộ tin rồi vạch trần thói
xấu của Cáo một cách rất tự nhiên.
 Đoạn 3: (4 dòng còn lại): Cáo lộ rõ bộ mặt. Gà rất vui sướng vì khơng bị Cáo lừa.
* Sau khi đã xác định được câu, đoạn quan trọng rồi - cần làm rõ nghĩa câu và nghĩa của
đoạn. Giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh biết phân tích các thành phần câu trong
những câu dài, câu ghép, câu đảo cú pháp hoặc câu có cấu trúc đặc biệt.
Ví dụ: Bài “Tiếng cười là liều thuốc bổ” TV4, tập 2; có câu: “Bởi vì cười tốc độ
thở của con người lên đến 100 ki- lô- mét một giờ, các cơ mặt được thư giãn thoải mái và
não thì tiết ra một chất làm người ta có cảm giác sảng khoái thỏa mãn”.
11

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Đây là dạng câu dài có cấu trúc gồm nhiều cụm chủ vị tạo thành và một thành phần phụ
đứng ở đầu câu. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh thấy thành phần phụ và các cụm
chủ vị đứng trước là nguyên nhân tạo nên kết quả cuối cùng là “người ta có cảm giác
sảng khối, thỏa mãn”. Hiểu rõ nghĩa câu này, các em đã tự trả lời được vì sao lại nói
“tiếng cười là liều thuốc bổ”.
* Tiếp đến là việc làm rõ nghĩa của đoạn. Muốn hiểu rõ nghĩa của đoạn, ta cần tìm được
câu chủ đề, câu quan trọng trong đoạn.
- Đoạn có cấu trúc diễn dịch, câu chủ đề là câu đầu đoạn.
Ví dụ: Câu “Ngày xửa ngày xưa có một vương quốc buồn chán kinh khủng chỉ vì
cư dân ở đó khơng ai biết cười”. (Đoạn 1, bài Vương quốc vắng nụ cười).
- Đoạn có cấu trúc quy nạp thì câu chủ đề là câu cuối đoạn.

Ví dụ: Câu “Hồng hơn áp phiên của phiên chợ thị trấn, người ngựa dập dìu chìm
trong sương núi tím nhạt”. (Đoạn 2, bài Đường đi Sa Pa).
- Đoạn có cấu trúc tối giản chỉ có một câu. Hiểu được nghĩa câu này là hiểu được nghĩa
của đoạn.
Ví dụ: Câu “Sa Pa quả là món q tặng diệu kì mà thiên nhiên dành cho đất nước
ta” (Đoạn cuối, bài Đường đi Sa Pa).
* Trong việc làm rõ ý của đoạn, học sinh không biết tổng hợp - chỉ biết đọc nguyên văn
văn bản mà không biết diễn đạt theo cách khác bằng lời của mình. Để rèn luyện cho các
em kĩ năng này, tôi đã hướng dẫn học sinh bằng cách phân tích.
Ví dụ: Xác định nội dung đoạn: “Đứng ngắm cây sầu riêng tôi cứ nghĩ mãi về cái
dáng cây kì lạ này. Thân nó cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng
nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng, hơi khép lại,
tưởng như lá héo. Vậy mà khi trái chín, hương tỏa ra ngào ngạt, vị ngọt đến đam mê”.
+ Đoạn văn trên có thể chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm ba câu đầu, nhóm thứ
hai có một câu cuối. Đọc câu một, hai, ba học sinh phải biết “dáng, thân, cành, lá” tổng
hợp thành “vẻ ngoài” hoặc “cái dáng, cái vẻ” của sầu riêng. Các từ “khẳng khiu, thẳng
đuột…khép lại tưởng như lá héo” phải được khái quát lên thành một nghĩa chung là “xấu
xí”. Từ đó rút ra nghĩa chung của ba câu này là dáng vẻ xấu xí của cây sầu riêng. Nhóm
hai là một câu ghép có hai chủ ngữ và hai vị ngữ đó là “hương - vị”, “tỏa ra ngào ngạtngọt đến đam mê”. Học sinh phải tổng hợp thành ý nhỏ là: hương vị độc đáo của quả sầu
riêng. Hai nhóm được nối bằng từ “vậy mà” thể hiện một cách lập luận đối lập càng tăng
thêm sự kì lạ của hương vị sầu riêng.
12

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


+ Sau đó học sinh có thể nêu ý của đoạn là: mặc dù hình dáng xấu xí nhưng sầu riêng có
hương vị rất độc đáo và quyến rũ.
* Ngồi ra đọc diễn cảm cũng là một thao tác giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn ý của đoạn
(nhất là với văn bản nghệ thuật). Lúc này nhờ âm thanh - các ý của tác phẩm được vang

lên; học sinh sẽ hứng thú hơn với nội dung của đoạn và hiểu được đoạn đó muốn biểu đạt
điều gì. Các em mới cảm nhận được hết tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm qua bài
tập đọc. Từ đó học sinh nhận ra nội dung một cách dễ dàng hơn.
3.2.2. Giải nghĩa từ (giúp học sinh hiểu nghĩa từ)
* Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt kết quả tốt, ngay từ khi ban đầu yêu cầu học
sinh tiếp cận văn bản nhằm mục đích đọc đúng (luyện đọc), giáo viên cần giúp các em
hiểu nghĩa của một số từ ngữ có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc- hiểu (từ ngữ
được chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà học sinh địa phương chưa quen,
từ ngữ đóng vai trị quan trọng để hiểu nội dung bài đọc).
Đối với những từ ngữ đã được chú thích trong sách giáo khoa: giáo viên khơng nhất
thiết phải yêu cầu học sinh trình bày tất cả các từ ngữ này mà có thể sàng lọc, chọn một
số từ ngữ khó để giải thích cho rõ. Biện pháp thực hiện là tổ chức cho học sinh đọc thầm
nội dung chú thích trong sách giáo khoa rồi trình bày lại.
Việc giải nghĩa từ giúp học sinh hiểu nội dung câu, đoạn và cao hơn nữa là hiểu
văn bản. Giải nghĩa từ còn giúp học sinh làm giàu thêm vốn từ, bồi dưỡng tâm hồn, phát
triển nhân cách. Đó là cái đích của giáo dục. Đối với những từ ngữ khác trong bài khó
hiểu, những từ “chìa khóa” mang ý nghĩa cơ bản, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
giải thích bằng các biện pháp như sau:
- Có sự hiểu biết về từ địa phương (tiếng Hre) và có vốn từ địa phương mình đang
dạy để chọn từ giải nghĩa cho phù hợp;
- Xác định chính xác từ khó cần giải nghĩa phù hợp với trình độ của lớp và phù hợp
với điạ phương không nhất thiết phải theo sách hướng dẫn;
- Giáo viên dùng tranh ảnh để giải nghĩa một số từ ngữ khó. Dùng các từ đồng nghĩa,
từ trái nghĩa hoặc từ ngữ thông dụng ở địa phương để giải nghĩa các từ đó;
- Giáo viên cần đặt câu hỏi gợi ý sát với nghĩa của từ, phù hợp với đối tượng học
sinh, giúp các em nắm được nghĩa của từ thông qua hệ thống câu hỏi của giáo viên;
- Khi giải nghĩa từ, giáo viên nên đặt từ đó vào văn cảnh, ngữ cảnh cụ thể, tránh tình
trạng từ nào cũng đem từ điển ra để giải nghĩa theo;
- Đặt câu với từ ngữ ấy (có nghĩa là dùng từ đó trong một văn cảnh cụ thể);
13


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


- Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tính chất được gọi tên bằng từ ngữ
đó.
VÍ DỤ:
+ Bài “Chú Đất Nung”- TV4, tập 1; Với học sinh vùng miền núi (đặc biệt là vùng núi ở
huyện Ba Tơ) gia đình các em chưa phải dùng đống rấm để giữ lửa, cũng không quen sử
dụng từ “cời”. Vì vậy, tơi phải giải nghĩa từ “đống rấm” dựa vào chú giải sách giáo khoa,
song cũng cần nói thêm tác dụng của đống rấm, ơng Hịn Rấm; rồi tìm từ đồng nghĩa
“khều” để giải nghĩa từ “cời” (gạt vật vụn: tro, than ra bằng que)
+ Bài “Sầu riêng”- TV4, tập 2. Với từ “đam mê”, tôi hướng dẫn các em tìm từ thay thế
như: thích thú, u thích, khát khao…Sau đó cho các em so sánh và thấy được “đam mê”
là sự ham thích quá mức bao gồm cả sự u thích, khát khao và thèm muốn. Vì vậy,
trong câu văn này dùng từ “đam mê” là chính xác nhất, hay nhất. Từ “đam mê” còn
khẳng định sức hấp dẫn, giá trị quí hiếm của quả sầu riêng - đặc sản của miền Nam nước
ta. Đây chính là ý nghĩa khái quát của bài đọc.
+ Bài “Truyện cổ nước mình”- TV4, tập 1. Từ “đa tình” nghĩa trong bài là tấm lịng giàu
tình cảm, ln lo lắng quan tâm đến nhiều người, nhiều việc trong cuộc sống chứ không
phải có nghĩa như trong câu: “Anh chàng đa tình”.
+ Bài “Hoa học trò”,TV4, tập 2. Với từ “đỏ rực” trong hình ảnh “một góc trời đỏ rực”để giải nghĩa được từ này, trước hết tôi cho các em quan sát tranh. Từ hoạt động quan sát,
các em có được nhận xét về màu sắc, đặc điểm, tính chất của hoa phượng nở rộ với số
lượng rất nhiều. Từ đó, các em dễ dàng giải thích được “đỏ rực” có nghĩa là: đỏ thắm,
tươi tắn và tỏa sáng ra xung quanh.

14

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



- Khi dạy tập đọc xuất hiện các từ đã giải nghĩa ở phân môn Luyện từ và câu hay ở
môn học khác, giáo viên chỉ gợi nhớ để học sinh tự nhắc lại nghĩa của từ đó, giáo viên
khơng nên giải nghĩa nhiều lần, tránh tạo cho học sinh có thói quen chỉ biết trơng đợi vào
giáo viên.
* Tóm lại khi giải nghĩa từ giáo viên phải hết sức thận trọng, tránh gây rắc rối, khó hiểu
cho học sinh. Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ cần giải nghĩa để kiểm tra xem
học sinh có hiểu nghĩa từ hay không. Nếu học sinh đặt câu đúng, hợp lí thì có nghĩa là
học sinh đã hiểu nghĩa của từ.
3.2.3 Sử dụng câu hỏi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản:
Để khơi gợi kiến thức của học sinh vào việc kiến tạo nghĩa cho văn bản, để giờ đọc
hiểu thực sự tác động đến nhận thức và tình cảm của học sinh, giúp các em qua hành
động đọc khơng chỉ hiểu văn bản mà cịn hiểu bản thân, hiểu người khác, hiểu cuộc sống,
khi dạy đọc hiểu giáo viên có thể đưa ra các loại câu hỏi sau:
Câu hỏi rèn kĩ năng tổng hợp, hiểu vẻ đẹp của văn bản mà tác giả muốn gửi gắm.
Để giúp các em trả lời tốt các câu hỏi và làm tốt các bài tập (sách giáo khoa), bản
thân tôi đã áp dụng các biện pháp như:

15

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


* Cho học sinh đọc thầm câu hỏi (bài tập) rồi trình bày lại - nếu là những câu hỏi (bài
tập) dễ. Đồng thời giáo viên cần giải thích thêm cho rõ yêu cầu của câu hỏi (bài tập) - nếu
học sinh chưa định hướng, chưa xác định rõ yêu cầu của câu hỏi (bài tập).
* Có thể thay thế hoặc tách câu hỏi (bài tập) khó, diễn đạt dài dòng thành một số câu
hỏi (bài tập) nhỏ hoặc bổ sung câu hỏi phụ để học sinh dễ thực hiện. (Mục đích làm giảm
độ khó của câu hỏi nhưng cũng cần lưu ý: tránh đặt thêm những câu hỏi không phù hợp
với chủ điểm học tập hoặc vượt quá khả năng nhận thức của các em).

Ví dụ:
- Bài “Người ăn xin” TV4, tập 1:
Câu hỏi 1: Hình ảnh ơng lão đáng thương như thế nào? Các em thường đọc cả đoạn văn
để trả lời chứ không chịu phát huy năng lực tư duy của bản thân. Vì vậy cần thay bằng
câu hỏi: Tìm những từ ngữ miêu tả ơng lão ăn xin? Em có nhận xét gì về ơng lão?
Hoặc bài: “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi” TV4,tập 1:
Câu hỏi 2: Bạch Thái Bưởi đã thắng trong cuộc cạnh tranh khơng ngang sức với các chủ
tàu người nước ngồi như thế nào? Có thể thay bằng câu hỏi: Bạch Thái Bưởi đã làm gì
trước sự cạnh tranh của các chủ tàu người nước ngoài?
- Bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” TV4, tập 1 (tiết 2):
+ Câu hỏi 2: Dế Mèn đã làm cách nào để bọn nhện phải sợ? giáo viên có thể chia thành
các câu hỏi nhỏ:
 Dế Mèn đã hành động như thế nào khi thấy chúa trùm nhà nhện?
 Dế Mèn đã dùng lời lẽ nào để ra oai?
 Thái độ của bọn nhện ra sao khi gặp Dế Mèn?
+ Câu hỏi 4: Để tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh lựa chọn một danh hiệu phù hợp
nhất tặng cho Dế Mèn, giáo viên cần giải thích ngắn gọn về nghĩa của từng danh hiệu và
chấp nhận danh hiệu do học sinh lựa chọn (vì mỗi danh hiệu đều ghi nhận những phẩm
chất đáng ca ngợi ở Dế Mèn). Song, muốn khẳng định danh hiệu thích hợp nhất đối với
Dế Mèn trong truyện là danh hiệu “HIỆP SĨ”, giáo viên chỉ cần gợi ý bằng câu hỏi dẫn
dắt cụ thể như: Với hành động mạnh mẽ, kiên quyết và hào hiệp nhằm chống lại áp bức,
bất công luôn che chở, bênh vực, giúp đỡ kẻ yếu - Dế Mèn được tặng danh hiệu nào là
thích hợp nhất? (hiệp sĩ).
* Giáo viên có thể chuyển đổi câu trả lời miệng bằng hệ thống bài tập trắc nghiệm cho
học sinh lựa chọn.
16

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Ví dụ:
- Bài: “Nếu chúng mình có phép lạ”.
Câu hỏi 1: Câu thơ nào được lặp lại nhiều lần trong bài? Việc lặp lại nhiều lần câu thơ ấy
nói lên điều gì?
Cần chuyển như sau: Việc lặp lại câu thơ “Nếu chúng mình có phép lạ” ở đầu mỗi khổ
thơ và khổ thơ cuối nói lên điều gì? Đánh dấu x vào câu em chọn là đúng:
 Đây là những ước mơ thiết tha của các bạn nhỏ.
 Nhằm để các bạn nhỏ mau thuộc bài.
 Nhằm để các bạn nhỏ chú ý đến bài thơ.
- Bài “Người tìm đường lên các vì sao”.
Câu hỏi 3: Ngun nhân chính giúp Xi-ơn-cốp-xki thành cơng là gì? Hãy đánh dấu x vào
ơ vuông chỉ ý em cho là đúng:
 Do ông gặp nhiều may mắn.
 Do ơng kiên trì khơng nản chí.
 Do ơng được Sa hồng tin tưởng…..
* Chú ý: Khi học sinh trả lời, giáo viên cần nhắc nhở các em trả lời đủ câu, đủ ý, rõ nội
dung. Giáo viên đọc lại câu trả lời đầy đủ để học sinh khắc sâu kiến thức.
3.2.4 Giúp học sinh không lúng túng khi trả lời câu hỏi hoặc giải nghĩa từ:
Để giúp những học sinh còn lúng túng khi trả lời câu hỏi hoặc giải nghĩa từ thì giáo
viên cần có câu hỏi gợi để dẫn dắt học sinh đi tới câu trả lời hồn chỉnh hoặc cho học sinh
khá nói trước rồi cho học sinh yếu nhắc lại. Có những học sinh hiểu được ý nhưng khi
diễn đạt bằng lời thì lại lúng túng. Giáo viên tích cực gọi nhiều lần học sinh đó để khuyến
khích tính bạo dạn của các em. Với những học sinh đọc chậm, giáo viên đưa ra yêu cầu
phù hợp để các em hăng hái, tích cực học tập. Nếu học sinh trả lời chưa đúng hoặc thiếu
ý, giáo viên nhẹ nhàng nhắc nhở, hướng dẫn để học sinh trả lời tốt hơn.
Đây là vấn đề quan trọng nhất trong phần hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài. Để đạt hiệu
quả cao, giáo viên cần phải quan tâm tới cách tổ chức có hệ thống, lơgíc. Giáo viên người nghệ sĩ phải đưa ra được các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với từng bài
dạy cũng như phù hợp với từng đối tượng học sinh mình phụ trách. Đặc biệt với bài dài,
bài có nhiều từ mang tính nghệ thuật cao hoặc khó hiểu. Các biện pháp tôi đã áp dụng là:


17

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


* Tổ chức học sinh làm việc cá nhân (đối với những câu hỏi, bài tập dễ). Yêu cầu học
sinh hoạt động theo nhóm đơi, nhóm bàn, nhóm lớn, theo dãy, theo tổ…để trả lời câu hỏi
hoặc thực hiện bài tập (đối với những câu hỏi,bài tập khó hơn).
* Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức phong phú,sinh động khác
nhau như: nêu miệng, thi đua tiếp sức, bảng con, bảng phụ, hoặc trên những đồ dùng dạy
học tự làm…
* Giáo viên có thể trao đổi hoặc sửa lỗi cho học sinh, hoặc tổ chức để học sinhgiải đáp
thắc mắc cho nhau, bổ sung góp ý cho nhau, đánh giá lẫn nhau trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ tìm hiểu bài.
* Giáo viên sơ kết, tổng kết ý kiến của học sinh và có thể ghi bảng những nội dung cần
thiết.
Ví dụ: Bài “Trăng ơi…từ đâu đến?” TV4, tập 2.
Câu hỏi 3: Trong mỗi khổ thơ tiếp theo, vầng trăng được gắn với một đối tượng cụ thể
đó là những gì? Những ai?
+ Với câu hỏi này, tơi u cầu học sinh trao đổi nhóm đôi, đồng thời treo sơ đồ Mạng ý
nghĩa trống lên bảng.
+ Sau thời gian thảo luận, giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày kết quả trước lớp. Nhóm
khác nhận xét, bổ sung. Đồng thời giáo viên viết (hoặc gắn những thẻ từ đã chuẩn bị sẵn)
để hoàn chỉnh sơ đồ theo ý kiến của học sinh.

MẠNG Ý NGHĨA
Mẹ

Chú Cuội


Sân chơi
CÁC
ĐỐI
TƯỢNG

Quả bóng

Chú bộ đội

Đường hành quân

18

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Qua sơ đồ, giáo viên giảng thêm: Để lý giải về nơi trăng đến, tác giả đã đưa ra những sự
vật, con người rất gần gũi, thân thương đối với trẻ. Điều đó cho thấy: với tác giả, trăng
thân thiết như người bạn và lớn hơn, đẹp hơn đó chính là tình yêu quê hương đất nước
tha thiết của tác giả. Có như vậy, học sinh mới hiểu bài hơn, khắc sâu kiến thức hơn.
Tương tự như thế với câu hỏi 2 bài “Nếu chúng mình có phép lạ”; câu hỏi bài “Hơn
một nghìn ngày vịng quanh trái đất”…
3.2.5. Giúp học sinh tìm ra nội dung chính của bài:
Việc đọc hiểu chỉ xem là hoàn tất khi học sinh đã nắm nội dung chính của tồn văn bản.
Lúc này học sinh phải hiểu được nội dung văn bản như một chỉnh thể. Để có kĩ năng làm
rõ nội dung chính của văn bản, bằng những phương pháp và hình thức khác nhau, giáo
viên yêu cầu học sinh phải làm các cơng việc như sau:
* Ghi nhớ sự kiện chính, ý chính của từng đoạn.
* Tổng hợp ý chính của các đoạn theo lập luận của người viết thành ý chung cả bài.
* Phát biểu ý chung này dưới dạng một vài câu mà lõi thông báo của câu là nội dung

tổng qt của tồn văn bản.
Ví dụ:
- Bài “Ăng - co Vát” TV4, tập 2. học sinh chỉ cần dựa vào câu chủ đề để phát hiện nội
dung chính: Ăng-co Vát là một cơng trình kiến trúc và điêu khắc tuyệt diệu của nhân dân
Cam-pu-chia. Vì bài đọc được viết theo thể diễn dịch;
- Bài “Ông Trạng thả diều” TV4, tập 1. Sau khi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi,
bài tập (SGK), để rút ra được nội dung chính của bài, tơi đã đưa ra câu hỏi: Câu chuyện
ca ngợi ai? Ca ngợi về điều gì?; Đồng thời đính sơ đồ “Mạng nhân vật” lên bảng.
Học sinh suy nghĩ cá nhân, nêu ý kiến và nhận xét, bổ sung. Giáo viên kết hợp ghi
(hoặc gắn các thẻ từ đã chuẩn bị sẵn) để hoàn chỉnh sơ đồ.

19

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


MẠNG NHÂN VẬT

Ham học

Chịu khó

Thơng minh

TRẠNG
NGUN
NGUYỄN
HIỀN

Sự quyết tâm

tâm

Có ý chí vượt khó

Qua sơ đồ Mạng nhân vật trên bảng, học sinh dễ dàng nêu được nội dung chính của
bài một cách chính xác, đầy đủ (Câu chuyện ca ngợi Nguyễn Hiền thơng minh, có ý chí,
quyết tâm vượt khó nên đã đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi).
Tương tự như thế với các bài: Con sẻ, Văn hay chữ tốt, Người tìm đường lên các vì
sao…
- Bài “Con chuồn chuồn nước” TV4, tập 2. Bài văn có hai đoạn, viết về vẻ đẹp của con
chuồn chuồn nước và vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước theo cánh bay của chú chuồn
chuồn, nhưng các em cịn phải cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước của tác giả
gửi gắm trong bài tập đọc. Dựa vào câu hỏi, bài tập đọc hiểu mà các em nêu được.
Như vậy, để hiểu rõ được nội dung bài đọc, giáo viên cần quan tâm hướng dẫn học sinh
dựa vào các yếu tố của văn bản như: tên chủ đề, tên bài, tranh ảnh, từ ngữ, câu đoạn,
những biện pháp nghệ thuật…trong bài. Tuy nhiên không phải bài nào chúng ta cũng
phải quan tâm đến tất cả các vấn đề đó mà tùy thuộc vào từng bài, tùy thuộc trình độ học
sinh mà tập trung đặt ra trọng tâm tìm hiểu sao cho học xong chương trình, các em có kĩ
năng đọc hiểu cơ bản. Các em biết sử dụng công cụ đọc khá thành thạo để tiến hành hoạt
động đọc không những trong giờ tập đọc mà cịn học tập các mơn khác và đọc để tự học
suốt đời.
20

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.2.6 Xây dựng thói quen đọc thường xuyên cho học sinh:
Xây dựng thói quen đọc thường xuyên cho học sinh giúp ích rất nhiều trong việc dạy đọc
hiểu cũng như rèn kĩ năng đọc hiểu cho các em. Muốn việc rèn kĩ năng đọc thường xuyên
cho học sinh đạt hiệu quả thì giáo viên cần định hướng cho các em:

- Đọc sách theo chủ đề trong tháng.
Ví dụ: Trong tháng 10 với chủ đề Chào mừng ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam 20/10.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh tìm đọc những mẫu chuyện kể về các bạn nữ, các chị, các
cô…là những phụ nữ giỏi, năng động; những thành tích và sự đóng góp của họ cho xã
hội. Giới thiệu mẫu chuyện em đọc được trước lớp để các bạn cùng nghe.
Giáo viên cung cấp cho học sinh những mẹo vặt thường sử dụng khi đọc sách để học sinh
áp dụng làm tăng khả năng đọc hiểu của các em như:
+ Nhớ lại chủ đề mình đọc.
+ Đọc từ mới, ghi từ mới ra giấy.
+ Tự đặt câu hỏi sau khi đọc xong bài văn (thơ), đoạn văn (thơ).
+ Tìm hiểu chủ đề mình đọc.
* Chú ý: Giáo viên nên có tổng kết kết quả tìm đọc sách của học sính sau mỗi chủ đề,
mỗi tiết kể chuyện để kích thích hứng thú đọc của học sinh và làm cho việc đọc sách trở
thành nhu cầu của mỗi em.
3.2.7 Tạo môi trường tương tác trong lớp học:
Trong giờ Tập đọc thường xảy ra tình trạng giáo viên chỉ nêu câu hỏi cho một số học sinh
khá - giỏi tích cực trả lời đúng, sai. Điều này khơng kích thích được tất cả học sinh thuộc
mọi đối tượng tham gia vào tìm kiếm, kiến tạo kiến thức. Để khắc phục nhược điểm trên,
giáo viên cần tổ chức cho học sinh thảo luận trong nhóm nhỏ, nhóm lớn, khuyến khích
mọi học sinh tham gia tìm câu trả lời, mời gọi học sinh khác nhóm phản hồi, đánh giá
nhóm bạn. Từ đó học sinh biết chia sẻ kiến thức, hợp tác cùng nhau lĩnh hội kiến thức,
đồng thời học sinh sẽ nhận ra rằng có nhiều câu trả lời khác nhau, nhiều cách khác nhau
khi giải quyết một vấn đề. Học sinh cũng học được cách lắng nghe.
- Tôi tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm 4 (học sinh đọc thầm và trả lời câu hỏi) sau
đó đại diện các nhóm trả lời câu hỏi trước lớp. Chỉ định 1 em điều khiển lớp trao về nội
dung bài đọc dựa vào câu hỏi. Giáo viên chỉ là người cố vấn, giải thích khi học sinh cần,
kết luận những nội dung học sinh trao đổi được.
21


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


3.2.8 Phối hợp với gia đình học sinh rèn kĩ năng đọc hiểu cho các em:
Gia đình góp phần quan trọng trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh, nhất là học
sinh lớp 4, các em cần có ý thức tự học ở nhà tốt, chuẩn bị sẵn sàng cho việc đến lớp. Cơ
giáo có dạy giỏi đến đâu mà thiếu sự hỗ trợ của gia đình thì học sinh cũng không đạt kết
quả cao trong học tập. Giáo viên cần trao đổi với gia đình hạn chế của từng em, định
hướng cho phụ huynh nhắc nhở, giúp các em đọc trôi chảy văn bản để giáo viên dễ dàng
giúp học sinh đọc hiểu trên lớp vì có đọc trôi chảy văn bản mối thông hiểu văn bản được.
4. HIỆU QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC:
Qua thời gian nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm, đúc kết kinh nghiệm thành các biện pháp
cụ thể tơi có áp dụng những biện pháp này vào giảng dạy một số lớp do mình đảm nhiệm
bộ mơn. Đặc biệt tơi áp dụng có hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm này trong 2 năm học gần
đây (năm học 2012 - 2013 và năm học 2013 - 2014) với học sinh lớp 4 điểm trung tâm do
tôi giảng dạy. Tơi nhận thấy học sinh đã có nhiều tiến bộ. Các em hứng thú hơn với môn
Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập đọc. Trong giờ học, học sinh trao đổi nội dung bài
một cách cởi mở, học sinh trả lời được các câu hỏi do giáo viên nêu ra, thỉnh thoảng cịn
có những học sinh đưa ra câu hỏi hoặc nêu những thắc mắc để cả lớp cùng trao đổi.
Trong các bài kiểm tra định kì, điểm bài kiểm tra môn Tiếng Việt được nâng lên. Điểm
kiểm tra lần sau cao hơn điểm kiểm tra lần trước. Qua một năm rèn luyện (năm học 2013
– 2014), bài kiểm tra định kì cuối học kì II, mơn Tiếng Việt, với bài kiểm tra đọc hiểu cả
lớp đều đạt trung bình trở lên. Sự tiến bộ của học sinh đựợc thể hiện qua kết quả kiểm tra
định kì môn Tiếng Việt phần đọc hiểu của học sinh lớp 4 trong 2 năm học gần đây:

22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐỌC HIỂU
Năm học 2012 - 2013
Điểm

Điểm
giỏi

Điểm khá

HS Các
4C đợt kiểm tra

S
L

SL

TL
%

SL

TL
%

SL

TL
%


25

KSCL đầu năm

01 4

03

12

11

44

10

40,0

25

KTĐK cuối kì I 02 8

05

20

14

56


04

16

25

KTĐK cuối kì
06 24
II

10

40

09

36

T
S

TL
%

Điểm TB

Điểm yếu

Năm học 2013 - 2014
Điểm

giỏi

Điểm khá

HS Các
4C
đợt kiểm tra

S
L

SL

TL
%

SL

TL
%

SL

TL
%

22

KSCL đầu năm


01 5

05

23

06

27

10

45

22

KTĐK cuối kì I 03 14

08

36

08

36

03

14


T
S

Điểm

TL
%

Điểm TB

Điểm yếu

5. TIỂU KẾT:
Những kết quả mà tơi đã thu được trong q trình thực hiện trong nhiều năm là cái mới
so với kiến thức chung về dạy đọc hiểu ở bậc tiểu học đối với bản thân tôi. Qua kết quả
23

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


học tập của học sinh lớp tôi cũng như học sinh trong khối 4, các đồng nghiệp trong khối
cũng nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả.
PHẦN III
KẾT LUẬN
1. Ý NGHĨA
Giáo dục là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân trên mọi miền đất nước mà giáo
dục Tiểu học là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp phát triển của toàn Ngành. Để đáp ứng
nhu cầu trên thì vấn đề chất lượng dạy học nói chung và chất lượng dạy đọc hiểu cho học
sinh Tiểu học nói riêng là một vấn đề rất quan trọng. Muốn đạt được kết quả cao thì
người làm cơng tác giáo dục và đặc biệt là giáo viên trực tiếp đứng lớp cần phải:

- Nhiệt tình say mê cơng tác, say mê sự nghiệp giáo dục, tâm huyết với nghề, coi học
sinh cũng như chính con em của mình;
- Có trình độ chun mơn nghiệp vụ sư phạm nhất định và năng động, sáng tạo trong
việc đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt là thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay giáo án điện tử đã đến với từng trường, từng thầy cô;
- Với môn Tiếng Việt, giáo viên phải có hiểu biết về đặc điểm riêng của từng vùng
miền, từng đối tượng học sinh. Và nhất là phải có khả năng nhất định về năng lực cảm
thụ văn học;
- Giáo viên phải có kế hoạch kèm cặp, phụ đạo và bồi dưỡng học sinh một cách cụ thể.
Đồng thời cũng cần có những biện pháp động viên, khuyến khích kịp thời sự tiến bộ của
học sinh như: một lời khen dịu dàng, một tràng vỗ tay của cả lớp hay một phần thưởng
nho nhỏ trong những tiết sinh hoạt cuối tuần…;
- Thông tin, liên lạc chặt chẽ với phụ huynh học sinh về tình hình học tập của các em để
gia đình hợp tác, tiếp tay trong việc kèm cặp, bồi dưỡng, quản lý…tạo điều kiện cho học
sinh được học tập, rèn luyện tốt hơn.
2. NHẬN ĐỊNH CHUNG:
Gần 20 năm làm nghề dạy học với nhiều đối tượng và nhiều thế hệ học sinh tôi
nhận thấy kĩ năng đọc hiểu của học sinh là điều mà nhiều giáo viên trăn trở. Cũng như
nhiều giáo viên khác, tơi ln tìm cách để nâng cao chất lượng giờ dạy Tập đọc, nâng cao
chất lượng đọc hiểu cho các em. Qua nhiều năm nghiên cứu, xây dựng và áp dụng các
biện pháp nói trên, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Học sinh yêu
24

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


thích phân mơn Tập đọc hơn, các em đọc thành tiếng nhanh hơn, kĩ năng đọc hiểu cũng
được nâng lên rõ rệt, kết quả học tập của học sinh ngày càng được nâng cao.
Đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 4” đã
được áp dụng có hiệu quả với giáo viên, học sinh trường Tiểu học Ba Tơ và cịn được
nhân rộng đến các trường bạn. Nhiều giáo viên trường bạn khi áp dụng những biện pháp

do tôi trao đổi đều đạt những kết quả nhất định. Tuy nhiên, khi áp dụng đề tài giáo viên
cần linh hoạt cho phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với điều kiện của trường để
giờ dạy đạt hiệu quả cao.
3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Trong giảng dạy Tiếng Việt, với phân môn Tập đọc, đặc biệt là đọc hiểu thì việc
đánh giá đúng thực trạng dạy và học phân mơn, tìm hiểu ngun nhân, từ đó xây dựng
các biện pháp khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng giờ dạy Tập đọc, nâng cao chất
lượng đọc hiểu cho các em, đó là cái đích mà giáo viên hướng tới. Nhưng để làm được
điều đó thật khơng dễ dàng, nó địi hỏi sự kiên trì, chịu khó ở giáo viên vì sự tiến bộ của
học sinh khơng thể có được trong một sớm một chiều. Để học sinh đọc hiểu tốt giáo viên
phải tâm huyết với nghề, phải học hỏi, nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm, đổi mới
phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Song, điều không thể
thiếu được là giáo viên phải tận tụy với trẻ, biết quan tâm giúp đỡ các em, làm cho học
sinh thấy được mỗi ngày đến trường là một niềm vui. Trong giảng dạy phải có sự phối
hợp với gia đình học sinh và các lực lượng giáo dục khác, tạo ra cho các em một môi
trường học tập thân thiện và chất lượng.
4. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
1. Đối với phụ huynh học sinh:
- Nhắc nhở các em tự học ở nhà, đọc trước các bài Tập đọc và luyện viết các từ khó có
trong bài Tập đọc;
- Rèn cho các em thói quen nói từ đúng, câu hay đặc biệt là Tiếng Việt khi giao tiếp trong
gia đình.
2. Đối với nhà trường:
Ban giám hiệu chỉ đạo cho Cán bộ thư viện mua sắm đầy đủ sách tham khảo, tài liệu, từ
điển Tiếng Việt để giáo viên mượn và sử dụng trong giảng dạy mơn Tiếng Việt nói chung
và phân mơn Tập đọc nói riêng.
3. Đối với Phịng Giáo dục và Đào tạo:
Tổ chức thao giảng Tập đọc theo cụm để giáo viên dự giờ rút kinh nghiệm.
25


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


×