Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

PHÂN BIỆT BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI – BH XÃ HỘI – BH Y TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.1 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
BỘ MÔN BẢO HIỂM
BÀI TIỂU LUẬN
PHÂN BIỆT BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI –
BH XÃ HỘI – BH Y TẾ
GVHD:TS. Nguyễn Tấn Hoàng
NHÓM SV THỰC HIỆN:
Nguyễn Lan Trang Đài – NH 10
Nguyễn Thị Bích Triều – NH 10
Thái Thị Quỳnh Anh – NH 10
Lê Thanh Hồng Ngọc – NH 10
Đỗ Thị Mai – NH 10
Nguyễn Thị Thanh – NH 11
Trang 1
Lời mở đầu
Lịch sử Việt Nam với nhiều thăng trầm gắn liền nhiều cột mốc đáng nhớ, một
trong những cột mốc đó phải nói đến Đại hội Đảng lần VI- tạo ra nhiều bước tiến cho sự
phát triển của Việt Nam, trong đó có nội dung chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị
trường, hòa nhập thế giới. Từ đó nhiều ngành nghề kinh doanh có điều kiện phá triển
hơn, và Bảo hiểm có trong số đó.
Ngành bảo hiểm thực sự phát triển từ sau khi chính phủ xóa bỏ thế độc quyền kinh
doanh bảo hiểm theo nghị định 100 ngày 18/12/1993 và thực sự trở thành một ngành
nghề đóng góp nhiều cho đất nước, ngày càng thu hút nhiều lao động
Ngành bảo hiểm, phân chia thành nhiều loại khác nhau tùy vào đối tượng, tính
chất mà phân chia thành bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thương mại, hay bảo
hiểm nhân thọ, phi nhân thọ hoặc bảo hiểm bắt buộc và không bắt buộc. Việc phân chia
như vậy, có những điểm giống và khác nhau mà không phải ai cũng hiểu rõ được, chính
vì thế, trong bài tiểu luận này, sẽ giúp chúng ta phân biệt lại một lần nữa các loại bảo
hiểm dựa vào cơ chế hoạt động, đó là Bảo Hiểm Xã Hội (BHXH), Bảo Hiểm Y Tế
(BHYT) và Bảo Hiểm Thương Mại(BHTM). Và qua đó, sẽ hiểu thêm về thực trạng cũng
như một vài ý kiến đóng góp cho giải pháp để phát triển các loại bảo hiểm hiện nay của


nhóm.
Bài tiểu luận được chia làm 3 phần:
Phần 1: Tổng quan về BHTM, BHXH, BHYT
Phần 2: Phân biệt các loại bảo hiểm : BHTM, BHXH, BHYT
Phần 3: Thực trạng và giải pháp.
Trang 2
Mục lục
1. Tổng quan về BHTM, BHXH, BHYT trang 5
1.1. Bảo hiểm thương mại trang 5
1.1.1. Khái niệm trang 5
1.1.2. Nội dung BH thương mại trang 5
1.1.3. Đặc điểm của BH thương mại trang 5
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của BH thương mại trang 5
1.2. Bảo hiểm xã hội trang 6
1.2.1. Khái niệm trang 6
1.2.2. Nội dung BH xã hội trang 6
1.2.3. Đặc điểm của BHXH trang 7
1.2.4. Nguyên tắc BHXH trang 7
1.3. Bảo hiểm y tế trang 7
1.3.1. Khái niệm trang 7
1.3.2. Nguyên tắc của BH y tế trang 8
2. Phân biệt BHTM, BHXH, BHYT trang 8
2.1. Những điểm giống nhau trang 8
2.2. Những điểm khác nhau trang 9
2.2.1. Mục tiêu hoạt động: trang 9
2.2.2. Cơ quan tiến hành trang 9
2.2.3. Đối tượng bảo hiểm: trang 9
Trang 3
2.2.4. Đối tượng tham gia bảo hiểm: trang 9
2.2.5. Người được bảo hiểm trang 10

2.2.6. Người thụ hưởng bảo hiểm: trang 10
2.2.7. Mức phí bảo hiểm: trang 10
2.2.8. Thời hạn bảo hiểm và hình thức bảo hiểm: trang 11
2.2.9. Phương thức thanh toán: trang 12
3. Thực trạng NHTM, BHXH, BHYT trang 12
3.1. Bảo hiểm thương mại trang 12
3.1.1. Một số nét nổi bật trong thị trường BHTM hiện nay trang 12
3.1.2. Một số mặt hạn chế trang 14
3.1.3. Một số đề xuất giải pháp trang 15
3.1.3.1. Về phía Nhà nước trang 15
3.1.3.2. Về phía các công ty bảo hiểm trang 15
3.2. Bảo hiểm xã hội trang 17
3.2.1. Những hạn chế trước mắt trang 17
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BHXH trang 18
3.3. Bảo hiểm y tế trang 19
3.3.1. Một số bất cập cho BHYT trang 19
3.3.2. Một số thay đổi của BHYT trong năm nay trang 19
3.3.2.1. Đối với HSSV trang 19
3.3.2.2. Các đối tượng khác trang 20
Trang 4
1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI, BH XÃ HỘI VÀ BH Y TẾ
1.1. BH THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
Bảo hiểm thương mại hay hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi các
tổ chức kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại
chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở
người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm
bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp đồng.
1.1.2. Nội dung BH thương mại
Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh

nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là Người mua bảo hiểm) còn được thể
hiện trong mối quan hệ giữa người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo hiểm khi thực
hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt động của trung gian bảo hiểm như: môi giới, đại
lý Nhà bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận trong
việc đảm bảo rủi ro cho khách hàng của mình.
1.1.3. Đặc điểm của BH thương mại
Hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo
hiểm tự nguyện).
Sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một "cộng đồng có
giới hạn", một "nhóm đóng";
Bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân
con người mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự.
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của BH thương mại
Nguyên tắc cơ bản nhất của bảo hiểm nói chung, bảo hiểm thương mại nói riêng
là hoạt động theo quy luật số đông. Hoạt động bảo hiểm thương mại tạo ra “ sự đóng góp
của số đông vào sự bất hạnh của số ít” trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro thành
Trang 5
cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia
càng đông thì tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể
hiện ở mức phí bảo hiểm phải đóng là nhỏ nhất.
Nguyên tắc cơ bản thứ hai là “nguyên tắc trung thực tối đa”. Bảo hiểm thương
mại tạo ra được một sự hoán chuyển rủi ro từ những người được bảo hiểm sang những
người bảo hiểm trên cơ sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm. Tất cả các giao dịch
kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin tưởng, đồng thuận giữa các bên. Cả bên
doanh nghiệp bảo hiểm và bên được bảo hiểm cần thực hiện một cách trung thực các điều
khoản trên hợp đồng bảo hiểm.
1.2. BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.2.1. Khái niệm
Bảo hiểm xã hội là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần cho người
lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng

lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng
một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và các nguồn thu
hợp pháp khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình
họ đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Theo quy định tại Điều 3 Luật BHXH: BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào Quỹ BHXH.
1.2.2. Nội dung BH xã hội
Việc thực hiện BHXH ở từng quốc gia cũng rất khác nhau về nội dung tùy thuộc
vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo nhu cầu an toàn cho đời
sống người lao động, ngoài ra còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí
để có thể áp dụng.
Trang 6
1.2.3. Đặc điểm của BHXH
BHXH là 1 chế định pháp lý bắt buộc.
BHXH là 1 trung tâm phân phối lại của hệ thống kinh tế - xã hội.
BHXH được thực hiện trên 1 “nhóm mở” của những người lao động.
BHXH là cơ chế đảm bảo cho người lao động chống đỡ rủi ro của chính bản thân.
1.2.4. Nguyên tắc BHXH
Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo
hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.
Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở
tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính
trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp
hơn mức lương tối thiểu chung.
Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian
đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở
thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch,

được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của bảo
hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp
thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.
1.3. BẢO HIỂM Y TẾ
1.3.1. Khái niệm
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có
trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này.( Luật BHYT năm 2008).
Trang 7
1.3.2. Nguyên tắc của BH y tế
Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế.
Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền
công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính (sau
đây gọi chung là mức lương tối thiểu).( tối đa bằng 6% mức lương tối thiểu)
Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi
quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.
Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm y tế và người tham
gia bảo hiểm y tế cùng chi trả.
Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo
đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.
2. PHÂN BIỆT BH THƯƠNG MẠI, BH XÃ HỘI, BH Y TẾ
2.1. Những điểm giống nhau
Các loại bảo hiểm này được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là: có tham gia
đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi, không đóng góp thì không được đòi
hỏi quyền lợi.
Hoạt động của các loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho các đối
tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại trong khuôn khổ
bảo hiểm đang tham gia.
Phương thức hoạt động của các loại hình bảo hiểm này đều mang tính “cộng đồng

- lấy số đông bù số ít” tức là dùng số tiền đóng góp của số đông người tham gia để bù
đắp, chia sẻ cho một số ít người gặp phải biến cố rủi ro gây ra tổn thất.
Trang 8
2.2. Những điểm khác nhau
2.2.1. Mục tiêu hoạt động:
BHTM hoạt động dựa trên lợi nhuận, thông qua mức phí mà người tham gia bảo
hiểm đóng trong các hợp đồng bảo hiểm.
Nhưng mục tiêu hoạt động của BHXH là nhằm thực hiện các chính sách xã hội
của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia
định họ vì vậy, hoạt động của BHXH là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an
sinh xã hội. Bên cạnh đó, BHYT cũng hoạt động phi lợi nhuận, vì sức khỏe con người.
2.2.2. Cơ quan tiến hành
BHTM được tiến hành bởi các tổ chức kinh doanh bảo hiểm.
Trong khi đó, BHXH lại do cơ quan BHXH, quỹ bảo hiểm y tế quốc gia, hoặc các
nghiệp đoàn,các hội tương tế do nhà nước tổ chức quản lý. Còn BHYT là cơ quan bảo
hiểm y tế quốc gia, phối hợp với Ủy ban nhà nước các cấp trong phạm vi quyền hạn của
mình.
2.2.3. Đối tượng bảo hiểm:
Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động, chỉ khi thu nhập của người
lao động bị giảm hoặc bị mất mà nguyên nhân do bị giảm hoặc mất khả năng lao động thì
người lao đống sẽ nhận được khoản chi trả từ quỹ bảo hiểm xã hội. Và của BHYT là tập
trung vào sức khỏe con người.
Trong khi đối tượng bảo hiểm của BHTM rộng hơn bao gồm: Tài sản, con người,
trách nhiệm dân sự…
2.2.4. Đối tượng tham gia bảo hiểm:
Trong khi đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động và như vậy bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động. Trong quá trình
lao động, bản thân người lao động phải tham gia để tự bảo hiểm cho mình đồng thời
Trang 9
người sử dụng lao động phải có trách nhiệm với người lao động thông qua việc trích một

phần quỹ lương đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Đối với BHYT, là tất cả mọi người là người cư trú ở Việt Nam, thuộc 1 trong 25
đối tượng theo quy định.
Đối tượng tham gia bảo hiểm của BHTM là các tổ chức có tư cách pháp nhân, các
cá nhân có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý, cụ thể là những người từ 16 tuổi
trở lên, đặc biệt quan trọng với người lao động tự do.
2.2.5. Người được bảo hiểm :
BHTM được thực hiện thông qua các hợp đồng bảo hiểm, nên người được bảo
hiểm sẽ là người có tên trên hợp đồng. Đối với BHXH là các đối tượng lao động hưởng
lương, và BHYT là những người có tham gia BHYT.
2.2.6. Người thụ hưởng bảo hiểm:
Đối với BHTM, người thụ hưởng có thể là người được bảo hiểm, hoặc là người
thụ hưởng có ghi trên hợp đồng bảo hiểm, hoặc theo pháp luật qui định.
Còn BHYT là người được bảo hiểm không vi phạm pháp luật, trừ những đối tượng
không được hưởng quy định tại điều 23, Luật BHYT 2010. Và người thụ hưởng đối với
BHXH là những người theo pháp luật định.
2.2.7. Mức phí bảo hiểm:
Phí BHXH được xác định bằng số tương đối và phụ thuộc chủ yếu vào tiền lương
và quỹ lương của doanh nghiệp. Theo kết cấu các chế độ bảo hiểm xã hội thì mỗi chế độ
có một loại phí tương ứng, đồng thời có phí bảo hiểm xã hội tổng hợp chung cho tất cả
các chế độ gọi là phí tổng hợp hay phí toàn phần. Phí toàn phần được xác định theo công
thức:
Ptp = Ptt + Pql + Pdp
Trong đó: Ptp: Phí toàn phần
Ptt: Phí thuần túy
Trang 10
Pql: Chi phí quản lý
Pdp: Phần an toàn, dự phòng phí
Phí BHTM được xác định bằng số tuyệt đối và phụ thuộc chủ yếu vào số tiền bảo
hiểm, xác suất rủi ro. Phí bảo hiểm thương mại là giá cả của sản phẩm bảo hiểm và được

xác định theo công thức:
P = f + d
Trong đó: P là phí bảo hiểm toàn bộ
f là phí thuần
d là phụ phí
Trên thực tế mức phí bảo hiểm toàn bộ còn được xác định theo công thức:
P = Tỷ lệ phí x Số tiền bảo hiểm
Trong đó tỷ lệ phí phụ thuộc rất nhiều vào xác suất rủi ro, cường độ tổn thất
Thêm vào đó, trong khi phí bảo hiểm xã hội được đóng đều đặn theo tiền lương
hoặc thu nhập hàng tháng của người lao động từ lúc bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội
cho đến khi hết tuổi lao động, ngược lại nhìn chung phí bảo hiểm thương mại được nộp
ngay khi hợp đồng bảo hiểm thương mại được ký kết. Trong trường hợp phí bảo hiểm
thương mại là một khoản tiền lớn thì người tham gia có thể thỏa thuận với công ty bảo
hiểm để đóng làm nhiều lần, lúc đó công ty bảo hiểm có thể thu định kỳ 3 tháng hoặc 6
tháng .
Riêng đối với phí BHYT, theo điều 13 của luật BHYT 2010 thì sẽ đóng phí sẽ tùy
theo nhóm đối tượng mà phí khác nhau, trong đó tối đa là 6% mức tiền công, tiền lương
hay mức lương hưu, mức lương tối thiểu…
2.2.8. Thời hạn bảo hiểm và hình thức bảo hiểm:
Hình thức bảo hiểm trong quan hệ bảo hiểm giữa người tham gia với công ty bảo
hiểm trong bảo hiểm thương mại chủ yếu mang tính tự nguyện (Trừ nghiệp vụ bảo hiểm
Trang 11
trách nhiệm dân sự) đồng thời mối quan hệ này chỉ phát sinh và tồn tại trong một khoảng
thời gian xác định kể từ khi người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm, thời hạn
này thường là một năm hoặc một chu kỳ hoạt động.
Trong khi mối quan hệ này trong bảo hiểm xã hội là mối quan hệ lâu dài, tương
đối ổn định và hình thức bảo hiểm chủ yếu là mang tính chất bắt buộc dựa trên quan hệ
lao động và quan hệ phân phối theo quy định của Nhà nước mục đích nhằm bảo vệ người
lao động trước những sự kiện, "rủi ro xã hội" như: ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp vv…bên cạnh đó còn ràng buộc trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với

người lao động từ đó thắt chặt tình đoàn kết giữa "chủ" với "thợ" góp phần thúc đẩy ổn
định xã hội.
Và BHYT thường là thời hạn một năm khám chữa bệnh.
2.2.9. Phương thức thanh toán:
Đối với BHTM, các tổ chức bảo hiểm sẽ trả tiền trực tiếp cho người được bảo
hiểm hoặc người thụ hưởng.
BHXH sẽ thanh toán dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, trong đó gián tiếp là
chủ yếu.
BHYT thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế với cơ sở khám, chữa
bệnh theo hợp đồng bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế hoặc thanh toán trực tiếp cho người
có thẻ bảo hiểm y tế đi khám, chữa bệnh trong các trường hợp quy định tại điều 31 Luật
BHYT 2010.
3. THỰC TRẠNG BHTM, BNXH, BHYT Ở NƯỚC TA
3.1. BH THƯƠNG MẠI
3.1.1. Một số nét nổi bật trong thị trường BHTM hiện nay
Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây cũng đã khá sôi động và
đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các loại hình
sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm
Trang 12
con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các
công ty đã và đang từng bước thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các khách hàng.
Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trên cơ
sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm – đầu tư bảo vệ, được công luận đánh giá cao như
sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm
sản phẩm của người chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo…
Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu
vực. Một số công ty bảo hiểm tuy đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa lâu nhưng cũng đã
đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư cho
hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo hiểm trong
nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui định của nhà nước về tái bảo hiểm bắt buộc qua

VINARE (Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam) đã giúp mức phí giữ
lại của toàn thị trường tăng đều qua các năm. Tổng mức phí giữ lại chiếm khoảng 70%
tổng phí bảo hiểm gốc, giảm được một lượng không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước
ngoài. Theo đánh giá của Hiệp hội Bảo Hiểm Việt Nam, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm
của thị trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực
thường đạt mức 8-10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển
của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh
tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn
tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng
Chinfon, Nhà máy điện Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà
xưởng, văn phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn
cho xã hội.
Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng có lợi.
Các công ty bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác bảo hiểm cháy và các
rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đại diện cho các
doanh nghiệp cũng thể hiện những bước tiến tích cực của bảo hiểm ViệtNam.
Trang 13
3.1.2. Một số mặt hạn chế
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Năng lực hoạt
động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc
cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh
tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm
giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa
đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã
đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan
trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y
dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa
thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng

với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể
thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước
cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm.
Việc mở cửa thị trường sẽ vừa tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của
ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước nói
riêng. Bắt đầu từ ngày 1/1/2008, theo cam kết WTO, thị trường bảo hiểm của Việt Nam
thực sự mở cửa hoàn toàn, với việc cho phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài
được cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc. Lúc này, các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước phải chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn, khi sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài
vào thị trường bảo hiểm Việt Nam nhiều hơn, sâu hơn và rộng hơn. Điều này đòi hỏi sự
nỗ lực từ rất nhiều phía: các cơ quan Nhà nước, các công ty bảo hiểm trên thị trường,
cũng như những cá nhân, tổ chức khác có lên quan.
Trang 14
3.1.3. Một số đề xuất giải pháp
3.1.3.1. Về phía Nhà nước
Nhà nước cần thực hiện tốt công tác quản lý, tạo được môi trường pháp lý thuận
lợi, đồng thời có những cơ chế, chính sách ưu đãi để ngành bảo hiểm có được những
bước phát triển ổn định và đúng hướng; tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh an
toàn, ổn định, bình đẳng và thuận lợi, trước hết ở việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý
phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường, đồng thời đổi mới phương thức và nâng
cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiến dần tới thực
hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo hiểm quốc tế.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước phải
mở cửa thị trường theo các hiệp định và cam kết quốc tế, ngành bảo hiểm đang đứng
trước thách thức và vận hội mới, đòi hỏi công tác quản lý Nhà nước phải có những cải
cách phù hợp. Do vậy, việc đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ
quản lý Nhà nước về lĩnh vực bảo hiểm là rất cấp thiết.
Đồng thời, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động kinh
doanh bảo hiểm để thị trường phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu hội
nhập; bảo đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh

bảo hiểm. Một chính sách phù hợp để khuyến khích việc tham gia bảo hiểm của các cá
nhân, tổ chức, khuyến khích việc mở rộng thị trường, phạm vi hoạt động của các công ty
bảo hiểm là rất cần thiết
3.1.3.2. Về phía các công ty bảo hiểm
Đối với một công ty bảo hiểm, năng lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, kinh
doanh… là những yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh. Nếu không tự hoàn thiện và
nâng cao năng lực, các công ty bảo hiểm trong nước sẽ khó có thể đứng vững và thành
công trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay. Ngay từ bây giờ,
các công ty bảo hiểm trong nước cần tự tạo cho mình một vị thế vững chắc, duy trì và mở
rộng thị phần, tạo niềm tin ở khách hàng. Các công ty bảo hiểm không chỉ phải đa dạng
Trang 15
hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, mà còn phải chú trọng đến việc chăm sóc
khách hàng, giải quyết nhanh chóng, hợp lý công tác bồi thường tổn thất trong các trường
hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, xúc tiến
thương mại là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên thành công của một doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, yếu tố này có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là ở Việt Nam
hiện nay, khi mà nhận thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm đối với nền kinh
tế, cũng như đối với đời sống xã hội vẫn còn hạn chế. Đây là một cơ hội tốt để các doanh
nghiệp bảo hiểm nâng cao hiểu biết của người dân về bảo hiểm, đồng thời xây dựng được
hình ảnh của công ty mình trong những khách hàng tiềm năng.
Các công ty cũng cần nhanh chóng đa dạng hoá các kênh phân phối thông qua
nhiều hình thức khác nhau. Một trong các phương pháp thường gặp hiện nay ở các công
ty bảo hiểm là tiến hành qua hệ thống ngân hàng, qua các tổ chức tài chính. Qua đây, các
công ty bảo hiểm sẽ có cơ hội tiếp cận với đông đảo các khách hàng giàu tiềm năng với
khả năng tài chính cao và nhu cầu lớn. Ngoài ra, việc tiếp cận khách hàng bằng thư trực
tiếp hoặc Internet cũng có thể mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh việc phát huy nội lực, các
công ty bảo hiểm rất cần hợp tác với nhau trong nhiều mặt. Thông qua Hiệp hội bảo
hiểm, các thành viên có thể có những tác động tích cực nhằm mở rộng, định hướng cho
thị trường, duy trì sự cạnh tranh lành mạnh, chống trục lợi bảo hiểm… tạo điều kiện phát
triển có lợi cho toàn ngành. Không chỉ tăng cường hợp tác trong nước, các công ty bảo

hiểm Việt Nam cũng phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Cần nhanh chóng tạo lập, củng cố
mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm có kinh nghiệm, uy tín trong khu vực
và quốc tế nhằm hợp tác trong các lĩnh vực đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho nguồn
nhân lực, trợ giúp về kỹ thuật, công nghệ, trao đổi thông tin… Việc thúc đẩy hợp tác
quốc tế cũng sẽ mở ra những cơ hội kinh doanh mới cho cả hai phía, tạo thuận lợi cho
ngành bảo hiểm Việt Nam vươn ra với thế giới.
Trang 16
3.2. BH XÃ HỘI
3.2.1. Những hạn chế trước mắt
Những hạn chế trong công tác truyền thông vận động nên số đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện chưa cao, quỹ chưa được tăng vốn đáng kể. Triển khai Luật BHXH vào
thực tiễn còn phải dựa nhiều bộ luật có liên quan nên Luật BHXH chưa đủ mạnh về chế
tài để đôn đốc và xử phạt các doanh nghiệp vi phạm như cố tình dây dưa, khai man, chậm
đóng và chiếm dụng BHXH. Bản thân ngành BHXH cũng không thể nắm được cụ thể,
cập nhật số đối tượng bắt buộc tham gia BHXH, từ đó ảnh hưởng đến công tác đốc thu.
Luật BHXH quy định chủ sử dụng lao động giữ lại 2 % quỹ tiền lương, tiền đóng BHXH
của đơn vị để tạm chi trả cho người lao động khi ốm đau, sai thản rồi quyết toán với tổ
chức BHXH, tuy nhiên quy định này là không hiệu quả, thủ tục thanh toán phức tạp, dễ
gây thất thoát và cần sớm xoá bỏ.
Theo quy định hiện hành, Quỹ BHXH được dùng để chi trả các chế độ BHXH
như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, lương hưu, tử tuất, dưỡng
sức và phục hồi sức khoẻ; khám chữa bệnh BHYT. Công tác quản lý hoạt động chi trả
các chế độ BHXH rất khó khăn, phức tạp. Nếu không quản lý tốt khâu này sẽ dẫn đến
thất thoát, tổn thất Quỹ BHXH. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước và các văn bản
hướng dẫn của BHXH Việt Nam, cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố đã thực hiện chi trả
kịp thời, thuận tiện cho các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH; nhưng về phía người lao
động, người sử dụng lao động vẫn có những trường hợp không nghiêm túc, tìm các sơ hở
trong quản lý để mưu lợi cá nhân gây thất thoát Quỹ BHXH. Trong các cơ quan BHXH
cũng có những trường hợp do sơ xuất, lơi lỏng công tác kiểm tra, quản lý dẫn đến chi trả
không đúng quy định như: chi trả các chế độ về khám chữa bệnh BHYT, đặc biệt là chi

trả trực tiếp; các đối tượng chết hoặc hết hạn được hưởng chế độ BHXH không được cắt
giảm kịp thời.
Đối với các DN có vốn đầu tư nước ngoài, các DN lớn, các DN thuộc khu vực nhà
nước thì việc thực thi và áp dụng các chính sách, Luật BHXH không gặp nhiều trở ngại.
Tuy nhiên đối với các DN ngoài quốc doanh, đặc biệt là các DN nhỏ và cực nhỏ thì việc
Trang 17
thực hiện đầy đủ và đúng các quy định trong Luật BHXH là tương đối khó khăn. Đó cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gần 80% các DN nhỏ và cực nhỏ không
tham gia đóng BHXH bắt buộc cho người lao động vừa qua.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BHXH
Một trong những nhân tố có tác động mạnh đến mở rộng đối tượng, tăng thu quỹ
BHXH là công tác thông tin tuyền truyền. Xuất phát điểm nền kinh tế nước ta đi lên từ
nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp; do vậy sự hiểu biết về BHXH, BHYT còn hạn chế nên
công tác thông tin tuyền truyền rất cần được tăng cường thường xuyên, liên tục.
Kiểm tra về thu BHXH: Công tác kiểm tra là biện pháp nhằm tăng cường pháp chế
trong hoạt động BHXH, đảm bảo mọi người lao động đều dược tham gia BHXH theo
đúng quy định hiện hành. Qua công tác kiểm tra để phát hiện những vi phạm trong thực
hiện chính sách BHXH, nộp chậm hoặc không nộp BHXH cho người lao động của chủ sử
dụng lao động, qua đó có biện pháp xử lý kịp thời buộc họ phải chấp hành nghiêm chỉnh
chính sách, chế độ BHXH.
BHXH Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ, được Chính phủ giao nhiệm vụ
quản lý Quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ lớn, quản lý tập trung tại cơ quan
BHXH - là hệ thống quản lý theo 3 cấp dự toán từ Trung ương đến địa phương (đến cấp
huyện, thị). Quản lý tốt Quỹ BHXH là thiết lập một nền tài chính BHXH lành mạnh, dân
chủ, công khai, minh bạch; đảm bảo an toàn Quỹ BHXH, không để thất thoát, không bị
lãng phí; là một trong những nhân tố quyết định đến sự ổn định vững chắc Quỹ BHXH.
Quỹ BHXH hoạt động theo phương thức dồn tích, trong khoảng 10 đến 20 năm
tới, Quỹ BHXH sẽ có số tích lũy ngày càng lớn. Nhưng đây là nguồn dồn tích mang tính
tạm thời, nếu cân đối dài hạn trong thời gian 30 - 40 năm thì khả năng mất cân đối Quỹ
sẽ diễn ra do tốc độ tăng thu BHXH không theo kịp tốc độ tăng chi, đặc biệt là chi cho

các đối tượng hưu trí. Do vậy, yêu cầu cần thiết là phải xây dựng một nền tài chính
BHXH lành mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch với tạo lập một Quỹ BHXH an toàn,
cân đối, ổn định vững chắc, lâu dài. Để làm được việc này phải thực hiện các giải pháp
Trang 18
sau: tăng thu, mở rộng đối tượng tham gia BHXH; tăng cường công tác quản lý các hoạt
động thu - chi Quỹ BHXH; triệt để tận dụng các nguồn tạm thời nhàn rỗi đưa vào hoạt
động đầu tư tăng trưởng Quỹ.
3.3. BH Y TẾ
3.3.1. Một số bất cập cho BHYT
Giá thuốc có sự chênh lệch giữa các địa phương, làm BHYT vẫn phải chi trả
Bội chi quỹ BHYT, quy trình chuyên môn, phác đồ điều trị chuẩn dẫn đến tình
trạng các cơ sở y tế tha hồ lạm dụng chỉ định các DVKT y tế, kê đơn thuốc quá tay Có
lẽ thực trạng đáng báo động hơn là việc một số cơ sở KCB tăng cường việc mua và đặt
máy móc từ nguồn xã hội hóa, chỉ định bao vây rộng rãi các loại DVKT để tăng nguồn
thu từ BHYT đã làm tình trạng bội chi quỹ BHYT ngày càng trầm trọng.
Trong khi quỹ BHYT bội chi thì số người tham gia BHYT lại giảm đáng kể. Đối
tượng người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên, người lao động tại
các doanh nghiệp, nhóm tự nguyện đều giảm đến mức đáng ngại. Người cận nghèo mặc
dù được Nhà nước hỗ trợ đến 80%, người dân chỉ phải đóng 20% nhưng số người cận
nghèo do quá khó khăn vẫn không thể mua thẻ BHYT. Nhóm học sinh, sinh viên do có
cùng mức đóng nên học sinh khu vực nông thôn từ chối mua BHYT. Mức phí đóng tăng
cũng là lí do nhóm người tự nguyện không muốn tham gia
3.3.2. Một số thay đổi của BHYT trong năm nay
3.3.2.1. Đối với HSSV
Trong năm học 2010 - 2011, mức đóng BHYT đối với HSSV là 282.800 đồng/12
tháng, trong đó HSSV phải đóng 184.000 đồng và ngân sách nhà nước hỗ trợ 78.800
đồng.
Đối với HSSV thuộc diện cận nghèo tại TPHCM, được mua BHYT theo diện cận
nghèo tại địa phương. Riêng HSSV diện cận nghèo ở các tỉnh, TP khác nếu chưa mua
Trang 19

BHYT tại địa phương thì mức tự đóng là 131.400 đồng, ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ
phần còn lại.
Đối với HSSV có thẻ BHYT bắt buộc thuộc nhóm đối tượng khác: lưu học sinh,
thân nhân của các đối tượng theo pháp luật về sĩ quan quân đội nhân dân, nghĩa vụ quân
sự, công an nhân dân và cơ yếu; HSSV thuộc hộ nghèo, cận nghèo… đã được cấp thẻ
BHYT bắt buộc theo quy định của Chính phủ thì nhà trường lập danh sách riêng (kèm
theo bản photocopy thẻ BHYT còn giá trị) và tính chung vào tỷ lệ tham gia của nhà
trường để được cấp kinh phí chăm sóc sức khỏe ban đầu.
3.3.2.2. Các đối tượng khác
Bộ Y tế cho biết dự thảo về chế độ hỗ trợ từ nguồn quỹ khám chữa bệnh cho
người nghèo đang được trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Dự kiến, 4 đối tượng được hưởng sự hỗ trợ này là người thuộc hộ nghèo theo quy
định hiện hành về chuẩn hộ nghèo; đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở xã,
phường, thị trấn vùng khó khăn; người thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng theo
quy định của pháp luật và người đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội của
Nhà nước; người gặp khó khăn khác do mắc bệnh nặng, chi phí cao mà không đủ khả
năng chi trả viện phí.
Trang 20
Kết luận
Bảo hiểm là một lĩnh vực tài chính rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và
với Việt Nam nói riêng hiện nay. Không chỉ là một biện pháp để giúp chia sẻ rủi ro cho
số đông, mà nó còn trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng hiệu quả
cho nền kinh tế.
Trải qua nhiều biến cố, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế 2007 vừa qua, Bảo hiểm
chịu ảnh hưởng lớn, nhiều tổ chức lớn phải giải thể, nhưng qua đó, từ từ, ngành bảo hiểm
sẽ rút ra được bài học cho chính mình để có thể phát triển cao hơn, góp phần vào sự phát
triển chung của đất nước, thực hiện các định hướng của chính phủ đề ra.
Với bài tiểu luận nhỏ này, chúng ta sẽ có cái nhìn tổng thể hơn về ngành bảo hiểm -
đặc biệt là hiểu một cách rõ ràng hơn về các loại bảo hiểm khác nhau, đó là Bảo Hiểm Xã
Hội, Bảo Hiểm Y Tế và Bảo Hiểm Thương Mại – và đó còn là một vài điều về thực trạng

và một số đóng góp để nâng cao chất lượng bảo hiểm hiện nay.
Trang 21
Một số tài liệu tham khảo
Các website
www.webbaohiem.net
www.anphuctrondoi.com
www.baohiem.pro.vn
www.baohiem24g.net
www.ebook.edu.vn
Giáo trình nguyên lý và thực hành bảo hiểm-Nguyễn Tiến Hùng
Cùng các văn bản Luật hiện hành.
Trang 22

×