1
QUẢN TRỊ KINH DOANH K07407A
Đ ề t à i :
PHONG CÁCH LÃNH
ĐẠO ĐỘC ĐOÁN CỦA
HITLER
Môn : Tâm lý và nghệ thuật
lãnh đạo
Danh sách nhóm:
1. Lê Ngọc Anh K07407
1185
2. Nguyễn Thị Bông K07407
1187
Đại học Quốc gia Tp.HCM
Khoa Kinh tế - Luật
2
Lời mở đầu
Chúng tôi tin rằng bất cứ ai cũng sẽ có cảm giác rùng mình như chúng tôi
khi nhắc đến Hitler cũng như việc lựa chọn Hitler làm đại diện để phân tích cho
phong cách lãnh đạo độc đoán,chuyên quyền. Tuy nhiên không thể phủ nhận tầm
ảnh hưởng vô cùng lớn của con người này trong lịch sử đấu tranh của nhân loại.
Xét qua một người không có sự giáo dục cao, theo Chủ Nghĩa Dân Tộc Đức, chỉ
mang cấp bậc hạ sĩ trong Đệ nhất thế chiến, không có nhân thân tốt, không người
đỡ đầu, không gia sản, những thành tựu của Hitler thật là đáng nể trong các lĩnh
vực ngoại giao, kinh tế và quân sự.Chính phong cách lãnh đạo độc đoán của
Adoft Hitler đã làm bao nhiêu người vừa khiếp sợ,vừa tò mò.Bởi không thể phủ
nhận tẩm ảnh hưởng rộng lớn của ông với nước Đức và với toàn thế giới.
Có thể nói, đối với nhân dân Đức thời đó, Hitler không phải là “tên đồ tể
diệt chủng” mà là vị anh hùng dân tộc.Nhờ vào những quyết định mang tính độc
đoán nhưng hiệu quả,ông đã vực dây một nước Đức thua trận trong Thế chiến
I,phải chịu chiến phí nặng nề,nền kinh tế suy sụp và thêm cuộc đại khủng hoảng
kinh tế thế giới (1929-1933) nhấn chìm nước Đức trong nạn lạm phát, thất nghiệp,
chia rẽ, rối loạn, mất niềm tin. Giữa lúc đó Hitler đưa ra chủ trương cứu đất nước
bằng cách bành trướng lãnh thổ ra nước ngoài và đàn áp trong nước, cam kết lập
lại trật tự. Hắn xé Hoà ước Versailles, dốc sức phát triển công nghiệp nhằm tái vũ
trang nước Đức, nhờ đó kinh tế phục hồi và tăng trưởng nhanh, thất nghiệp giảm.
Sức mạnh và uy tín nước Đức lên cao.Nhưng sự độc đoán bao giờ cũng có hai
mặt:tốt và xấu.Chính cái xấu này đã làm Đức thua trận trong Thế Chiến II,dẫn
đến nước Đức bị chia làm 2 phần và cái chết của ông là không tránh khỏi.Như
vậy trong cách sinh hoạt hằng ngày,với vai trò là người lãnh đạo và trong quân
sự,ta đều có thể thấy phong cách lãnh đạo độc đoán đó.
Qua bài tiểu luận này, thông qua một nhân vật lịch sử rất nổi tiếng - Adoft
Hitler-nhóm muốn đi sâu vào phân tích phong cách lãnh đạo độc đoán, ưu điểm
3
và nhược điểm. Từ đó có thể đưa ra hướng giải pháp để vận dụng vào thực tế.
Bởi không có phong cách nào là hoàn thiện, mỗi phong cách đều có cái hay,cái
dở riêng. Vấn đề là ta phải nhìn nhận dưới con mắt khách quan. Từ đó rút ra
những bài học cần thiết
Tóm lại,trong tiểu luận này, nhóm chúng tôi xin trình bảy những nội dung
chính như sau:
Đối tượng nghiên cứu: Phong cách lãnh đạo độc đoán của Adoft Hitler
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích phong cách lãnh đạo độc đoán trong cuộc
sống hàng ngày, trong vai trò một nhà lãnh đạo và trong quân sự của Adolf Hitler.
Mục tiêu nghiên cứu:
- Giúp hiểu được phong cách lãnh đạo độc đoán một cách toàn diện.
- Thấy được ưu nhược điểm của phong cách này ở Hitler.
- Rút ra những giải pháp cho Hitler và cho mọi người để cái thiện phong cách
lãnh đạo và lựa chọn cách lãnh đạo phù hợp.
4
Chương 1: Cơ sở lý luận về phong cách lãnh đạo độc đoán
1.1. Khái niệm về lãnh đạo:
Lãnh đạo là:
- Khả năng lôi cuốn người khác đi theo mình.
- Biết tạo ra sự thỏa thuận chung của nhóm.
- Biết thông tin cho nhân viên để họ biết làm gì.
- Cách cư sử của một cá nhân khi chỉ đạo các hoạt động của nhóm
để đạt mục đích chung.
1.2. Khái niệm về phong cách lãnh đạo:
Tùy theo mỗi góc nhìn, chúng ta lại thấy phong cách lãnh đạo được hiểu
theo những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên vẫn chưa có được một định nghĩa
hoàn hảo cho Phong cách lãnh đạo. Chúng tôi xin đưa những khái niệm sau:
- Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi của người đó thể
hiện các nỗ lực ảnh hưởng tới hoạt động của những người khác.
- Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo.
- Phong cách lãnh đạo là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng của hoạt động
quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc điểm nhân cách của họ.
- Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện,
và được biểu hiện bằng công thức: Phong cách lãnh đạo bằng cá tính cộng với
môi trường.
Điểm chung của các định nghĩa này là xem phong cách lãnh đạo là hệ
thống các phương pháp mà người lãnh đạo sử dụng trong hoạt động quản lý của
mình để tác động đến những người thừa hành. Tuy nhiên, phần lớn các định
nghĩa chỉ nhấn mạnh đến mặt chủ quan, mặt cá tính của chủ thể lãnh đạo chứ
chưa đề cập, xem xét phong cách lãnh đạo như một kiểu hoạt động. Kiểu hoạt
động đó được diễn ra như thế nào còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường xã hội,
5
trong đó có sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng, của nền văn hoá Như vậy, ta có thể
định nghĩa :
“Phong cách lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của người lãnh đạo được
hình thành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và tác động qua lại biện chứng giữa yếu tố
tâm lý chủ quan của người lãnh đạo và yếu tố môi trường xã hội trong hệ thống
quản lý”.
1.3. Phân loại phong cách lãnh đạo:
1.3.1. Phong cách lãnh đạo dân chủ:
Kiểu quản lý dân chủ được đặc trưng bằng việc người quản lý biết phân
chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ ý kiến cấp dưới, đưa họ tham gia vào
việc khởi thảo các quyết đnh. Kiểu quản lý này còn tạo ra những điều kiện thuận
lợi để cho những người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham gia vào việc lập
kế hoạch và thực hiện kế hoạch, đồng thời tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực
trong quá trình quản lý.
1.3.2. Phong cách lãnh đạo tự do:
Với phong cách lãnh đạo này, nhà lãnh đạo sẽ cho phép các nhân viên
được quyền ra quyết định, nhưng nhà lãnh đạo vẫn chịu trách nhiệm đối với
những quyết định được đưa ra.
Phong cách lãnh đạo uỷ thác được sử dụng khi các nhân viên có khả năng
phân tích tình huống và xác định những gì cần làm và làm như thế nào. Bạn
không thể ôm đồm tất cả mọi công việc! Bạn phải đặt ra các thứ tự ưu tiên trong
công việc và uỷ thác một số nhiệm vụ nào đó.
1.4. Phong cách lãnh đạo độc đoán:
Phong cách lãnh đạo độc đoán còn được gọi là phong cách lãnh đạo
chuyên quyền, phong cách lãnh đạo theo hành chính xử phạt, phong cách lãnh
đạo theo chỉ thị, phong cách lãnh đạo cương quyết. Ở đây nhà lãnh đạo sẽ áp đặt
nhân viên; các nhân viên nhận lệnh và thi hành mệnh lệnh. Nhà lãnh đạo sẽ tập
trung hết quyền lực vào tay của mình.
Kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán được đặc trưng bằng việc tập trung mọi
quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo - quản lý bằng ý chí
của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể.
6
Một người quản lý có phong cách làm việc độc đoán sẽ điều hành với tư
tưởng nhân viên phải làm những gì họ nói, hoàn thành công việc theo định
hướng được các ông chủ vạch ra và đã được xác định bởi mong muốn của việc
sản xuất. Các nhà quản lý độc tài thường gọi cho các nhà quản lý cấp dưới và đưa
cho họ chỉ thị cũng như lời khuyên với tư tưởng nhân viên sẽ tuân theo. Họ cảm
thấy nhân viên cần sự chỉ đạo nghiêm ngặt hơn, các biện pháp kiên quyết và
quyết định mạnh mẽ hơn. Điều này tạo nên các kỹ năng quản lý. Phong cách
quản lý này cho phép nhân viên biết những gì họ cần phải làm, họ sẽ làm như thế
nào và lúc nào.
1.4.1. Một số đặc điểm cơ bản:
Đặc điểm của phong cách này là công việc quản lý do một người lãnh đạo
chịu trách nhiệm. Chính anh ta là người đa ra quyết định, điều chỉnh và kiểm tra
hoạt động của tổ chức. Việc khen thưởng, kỷ luật mang tính chủ quan, mệnh lệnh
đưa ra không theo một hệ thống.
Chất lượng của quyết định quản lý phụ thuộc vào thông tin mà người lãnh
đạo thu nhận được, phụ thuộc vào năng lực phân tích thông tin của anh ta. Quyết
định thường ngắn gọn, rõ ràng. Việc ra quyết định quản lý phụ thuộc vào uy tín
và năng lực thuyết phục của người lãnh đạo.
1.4.2. Ưu điểm và nhược điểm của phong cách lãnh đạo độc đoán:
Ưu điểm:
- Làm nhân viên thực hiện đúng theo ý của nhà lãnh đạo
- Quyết định được đưa ra nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, tránh được sự
đối đầu trong nhóm
- Tránh được trường hợp nhân viên quá ỷ lại vào quyền lực riêng của mình
Nhược điểm:
- Nhân viên ít thích lãnh đạo.
- Hiệu quả làm việc thấp khi không có mặt lãnh đạo.
- Không khí trong tổ chức: gây hấn, phụ thuộc vào định hướng cá nhân
1.4.3. Các loại phong cách độc đoán:
Phong cách lãnh đạo độc đoán gồm có Phong cách lãnh đạo "độc đoán - áp chế”,
Phong cách lãnh đạo “độc đoán - nhân từ
7
Độc đoán - áp chế:
Các nhà lãnh đạo, quản lý chuyên quyền cao độ, ít có lòng tin với cấp dưới.
Họ thúc đẩy nhân viên bằng đe doạ. Quá trình quản lý thông tin tiến hành từ trên
xuống và giới hạn ở việc ra quyết định ở cấp cao nhất, không cho phép nhân viên
trực tiếp tham gia vào quá trình ra quyết định.
Độc đoán - nhân từ:
Các nhà lãnh đạo có lòng tin của cấp trên và tin vào cấp dưới. Họ thúc đẩy
nhân viên bằng khen thưởng và bằng một ít đe doạ, trừng phạt. Họ có tiếp thu ý
kiến từ cấp dưới, và có giao quyền, có cho phép cấp dưới ra quyết định nhưng
kiểm tra chặt chẽ về mặt chính sách.
8
Chương 2: Phân tích thực trạng phong cách lãnh đạo
độc đoán của Hitler
2.1. Thực trạng phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler:
2.1.1. Sơ lược về Hitler:
Tiểu sử và cuộc đời Hitler:
Adolf Hitler sinh ngày 20/4/1889 tại Braunau am Inn, tự sát ngày
30/4/1945, là con một chủ hiệu nhỏ ở thành phố Bruno nước Áo, 14 tuổi cha chết,
5 năm sau thì mẹ chết. Hai lần thi vào khoa Hội hoạ
của Học viện Nghệ thuật thành Viên đều rớt, hắn vô
cùng cay cú doạ nổ bom Học viện này. Lớn lên, để
nuôi mấy anh em, hắn làm nghề vẽ tự do, bán tranh
kiếm tiền thêm vào phụ cấp trẻ mồ côi và tiền tiết
kiệm cha để lại.
Năm 1913, Hitler dọn đến ở Munich, tiếp tục
vẽ và bắt đầu hoạt động chính trị. Đại chiến I nổ ra,
ông đi lính, chiến đấu dũng cảm, từng 2 lần bị thương
và được thưởng huân chương Thập tự sắt.
Xuất ngũ năm 1918 với lon hạ sĩ và nỗi hận nước Đức thua trận, tham gia
Đảng Công nhân Đức ở Munich và trở thành đảng viên thứ 9. Hitler ra sức tuyên
truyền quan điểm kết tội người Do Thái, cộng sản và xã hội dân chủ Đức đã làm
cho Đức thua trận và phải chịu các điều kiện khắc nghiệt của Hoà ước Versailles.
Năm 1920, hắn đề ra cương lĩnh “Chủ nghĩa xã hội quốc gia”, nêu khẩu hiệu mị
dân “công nhân được chia lợi nhuận của nhà máy”, “nông dân không phải nộp
địa tô”, và đổi tên đảng thành Đảng Công nhân XHCN Quốc gia Đức (viết tắt
NAZI hoặc Quốc Xã).
Năm 1921, Hitler công khai tuyên truyền tư tưởng độc tài, chống cộng,
chống Do Thái, đề cao quan điểm chủng tộc Đức ưu việt.
9
Năm 1923, hắn tổ chức đảo chính ở Munich nhưng thất bại và bị tù 9
tháng. Trong tù, hắn đọc cho bạn tù là Rudolf Hess viết Cuộc chiến đấu của tôi
(Mein Kampf) trình bầy chiến lược tái tạo nước Đức thành cường quốc số 1 châu
Âu.
Năm 1929, cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới nhấn chìm nước Đức
trong nạn lạm phát, thất nghiệp, chia rẽ, rối loạn, mất niềm tin. Giữa lúc đó Hitler
đưa ra chủ trương cứu đất nước bằng cách bành trướng lãnh thổ ra nước ngoài và
đàn áp trong nước, cam kết lập lại trật tự. Người Đức coi hắn như một vị cứu tinh
và hăng hái đi theo hắn. Đảng Nazi phát triển nhanh, năm 1932 đã có gần 1 triệu
đảng viên.
Năm 1933, sau khi Nazi thu được nhiều phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội,
qua dàn xếp với các thế lực tài phiệt, Hitler được Tổng thống Đức cử làm Thủ
tướng. Hắn xé Hoà ước Versailles, dốc sức phát triển công nghiệp nhằm tái vũ
trang nước Đức, nhờ đó kinh tế phục hồi và tăng trưởng nhanh, thất nghiệp giảm.
Sức mạnh và uy tín nước Đức lên cao.
Đến năm 1935, Hitler đã giành được sự ủng hộ thật lòng của hầu hết nhân
dân Đức. Hắn bắt đầu chương trình bành trướng lãnh thổ
Thủ tướng Anh D. L. George đã nói về Hitler như sau: “Người già tín nhiệm ông
ta, thanh niên sùng bái ông ta. Đó không phải là sự khâm phục một lãnh tụ nhân
dân mà là sự sùng bái một anh hùng dân tộc đã cứu đất nước ra khỏi nỗi chán
chường và suy sụp. Ông ta như một nhà quân chủ độc tài không bị bất cứ ai phê
bình. Nói như vậy chưa đủ, phải gọi ông ta là George Washington của nước
Đức…Ai chưa tận mắt chứng kiến thì có thể nghĩ nói như vậy là quá lời”.
Những thành tựu đạt được của Hitler:
Xét qua một người không có sự giáo dục cao, chỉ mang cấp bậc hạ sĩ trong Đệ
nhất thế chiến, không có nhân thân tốt, không người đỡ đầu, không gia sản,
những thành tựu của Hitler thật là đáng kể trong các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế
và quân sự.
- Sự hồi phục kinh tế của Đức sau chiến tranh là thành tựu nổi bật, mà
trong đảng cũng như các nhà kinh tế nước ngoài ca ngợi là phép lạ. Số người thất
nghiệp từ 6 triệu năm 1932 giảm còn không đến 1 triệu bốn năm sau. Sản lượng
10
và thu nhập quốc nội tăng gấp đôi trong thời gian 1932-37. Tuy Hitler không giỏi
về kinh tế, ông quy tụ được những kinh tế gia giỏi, đặc biệt là TS. Hjalmar
Schacht, được coi như là nhà phù thủy kinh tế.
- Về quân sự, từ quân đội bị Hòa ước Versailles hạn chế ở mức 100.000
người, Hitler tăng quân số lên gấp ba vào cuối năm 1934. Khi phát động tiến
công Nga năm 1941, Đức huy động 3,2 triệu quân tiến theo trận tuyến dài 1.600
km.
Đến giữa năm 1942, Đức đã chiếm khoảng 90% Tây Âu, trừ Thụy Điển,
Vương quốc Anh, Scotland, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ; còn
Bắc Phi, Đức đang chiếm đóng Tunisia, Lybia và một phần Ai Cập.
Có vài điểm pha trộn trong lĩnh vực chỉ huy quân sự của Hitler. Nhờ quyết
định của ông, Đức đánh chiếm thần tốc các nước Bắc Âu với thiệt hại không
đáng kể, chỉ một nhóm nhỏ bính sĩ Đức chiếm được pháo đài hiện đại Eben
Emael của Bỉ, được xem là có cấu trúc kiên cố nhất Châu Âu, và đánh thần tốc
qua Pháp
Quyết định nhất quán của Hitler là quân Đức phải trụ lại nơi tiến quân chứ
không được rút lui. Các tướng lĩnh Đức mâu thuẫn nhau về việc này. Một số
chống đối, cho rằng đó là quyết định gây thêm thiệt hại cho Đức, nhưng một số
tán thành, cho rằng trến chiến trường đầy băng tuyết, lệnh rút lui chỉ làm cho
binh sĩ tháo chạy mà không có căn cứ ở phía sau để họ có thể lui về trú ẩn, và
cũng không có phòng tuyến nào để trụ lại.
Những tố chất trong con người Hitler:
Trong con người của Hitler có nhiều tố chất đặc biệt, mỗi tố chất phụ trợ
và kết hợp với những tố chất khác giúp cho ông đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, đánh bại hoặc dẹp tan những thể chế chính trị cộng hòa, quân đội, nghiệp
đoàn.
- Tinh thần ái quốc cực đoan
Tinh thần này vừa giúp Hitler chiếm được con tim của người dân Đức và
tranh thủ được sự ủng hộ của quân đội. Ban đầu, các nước Đồng Minh chỉ nhận
ra khía cạnh "ái quốc" trong con người Hitler, còn khía cạnh "cực đoan" thì được
che giấu bởi tài hùng biện.
11
- Việc làm và lời nói đi đôi với nhau
Một khi đã định hình tư tưởng, xuyên suốt qua cương lĩnh đảng, quyển
sách Mein Kampf và những bài phát biểu, Hitler đều mang ra thực hiện những gì
ông nói. Cũng có nhiều điều ông không làm như đã hứa, nhưng đấy là chiến thuật
mị dân trong bước đầu khi Quốc xã muốn chiếm quyền lực bằng lá phiếu dân chủ.
Còn lại, Hitler đều thi hành những sách lược chủ chốt đúng như ông đã nói.
- Bản chất độc tài, chuyên chế
Bản chất này đã bộc lộ ngay trong giai đoạn Hitler mới gia nhập Đảng Lao
động Đức, tiền thân của Quốc xã. Cũng nói là làm, Hitler đã trình bày rất rõ ý
định thiết lập một nước Đức dưới chế độ chuyên chế, độc đảng, và đảng này dưới
quyền một lãnh tụ chuyên chế.
- Tài hùng biện
Đây là một vũ khí rất lợi hại của Hitler. Nhờ tài hùng biện cộng với tính
lừa dối, Hitler đã chinh phục được người dân Đức, giới quân đội, ngay cả giới
truyền thông và các nhà lãnh đạo nước ngoài.
Ngoại hình Hitler không có dáng lãnh tụ: hắn chỉ cao có 1,75m – chưa đủ
tiêu chuẩn vào lính SS, chân nhỏ và dài, tóc lật trái, để bộ ria như một anh hề.
Thế nhưng hắn cực kỳ có sức lôi cuốn, chủ yếu ở ánh mắt xuyên thấu tim gan
người khác và khí thế nói dồn ép người ta phải nghe theo. Hitler còn là nhà diễn
thuyết đại tài trên thế giới. Hắn rất chú ý tập luyện và cải tiến kỹ xảo nói, rất thạo
kết hợp nói với động tác. Trong Mein Kampf hắn viết: “tôi tin rằng lời nói, chứ
không phải là bài viết, có khả năng gây ra những sự kiện làm rung chuyển thế
giới”. Hắn dốc toàn bộ nhiệt tình vô tận của mình vào bài nói, tới mức những lời
dối trá trắng trợn nhất cũng có mầu sắc chân lý. Hắn luyện kỹ sảo nói với mục
đích không chỉ để thuyết phục, mà là làm cho người nghe phát điên lên như bị
thôi miên. Hắn thường diễn thuyết vào buổi tối để có thể dùng ánh đèn tăng thêm
hiệu quả. Vài ngày sau khi Hitler nhậm chức Thủ tướng, 1 triệu người Đức kéo
đến sân bay Berlin để nghe hắn diễn thuyết suốt từ 20 h cho đến 22 h đêm. Hitler
nói hay đến mức khi hắn nghiêng ngả người thì cả triệu thính giả cũng nghiêng
ngả theo, như một đại dương sôi sục. Phụ nữ bị xúc động hơn cả, có bà thét lên
nằm vật xuống. Một số cán bộ ngoại giao các nước trung lập cũng giơ tay hô lớn
12
“Hailơ Hitler”. Khi xúc động lên tới cao điểm, Hitler trợn mắt, vung nắm đấm
như đánh vào kẻ thù không đội trời chung của hắn - người Do Thái, bọn Đỏ và
những kẻ phản quốc.Tài hùng biện được xem là một phương tiện, vũ khí lợi hại
nhất mà Hitler có được.
Nguyên nhân Hitler có phong cách lãnh đạo độc đoán:
Dựa trên những phân tích về tính cách cuộc đời để chúng tôi rút ra những nguyên
nhân như sau:
- Trong bản chất con người hắn vốn là một kẻ độc đoán, chuyên chế, nên
ngay từ đầu Hitler đã trình bày rất rõ ý định thiết lập một nước Đức dưới chế độ
chuyên chế, độc đảng, và đảng này dưới quyền một lãnh tụ chuyên chế. Nên tất
nhiên sẽ có phong cách làm việc theo kiểu độc đoán , chuyên chế.
- Hiter là một kẻ quá tự tin vào khả năng quân sự của mình, không tin
tưởng bất cứ ai nên mọi việc hắn quyết định hắn đều cho là đúng và không nghe
theo bất cứ ai. Cộng thêm một tài hùng biện được coi là một vũ khí lợi hại nhất
của hắn càng làm cho hắn tự phụ hơn. Hắn có thể làm mọi điều và tự tin là nếu
sai thì chỉ cần một bài nói nghiêng ngả hắn có thể biến cái suy nghĩ của hắn thành
suy nghĩ đúng đắn cho mọi người.
- Một trong những nguyên nhân là ở tinh thần ái quốc cực đoan của hắn.
Hắn có một mục đích là đưa nước Đức thoát khỏi những ràng buộc sau thất bại
của chiến tranh thế giới thứ nhất, xây dựng một nước Đức siêu cường nhưng
bằng chế độ phát xít độc tài, chuyên chế. Đó chính là động lực để hắn lãnh đạo
như vậy. Cũng là thứ để hắn thuyết phục được người dân Đức tin ở khả năng và
quan điểm của hắn.
- Hitler là một kẻ cô độc, yếu đuối, cha mẹ mất sớm, sự nghiệp không đâu
vào đâu, hắn không có bạn bè nên hắn không tin tưởng vào bất cứ ai, không nghe
bất cứ ai, thậm chí có thể ra tay với cả thân tín của mình. Đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến cách lãnh đạo độc đoán đó.
- Hắn coi nhân dân như những người được “nữ tính hóa” và tỏ ra hãnh
diện vì mình được điều khiển họ, họ phải nghe lời hắn, chỉ có theo hắn mới có
cuộc sống như họ mong đợi.
13
- Bên cạnh đó, hắn kết thân với tên độc tài người Ý Musolini, kết thân với
hắn thì tất nhiên sẽ chịu ảnh hưởng nhiều cách lãnh đạo độc đoán chuyên quyền
của hắn.
Đó là những nguyên nhân xây dựng nên phong cách lãnh đạo độc đoán,
chuyên quyền, cực đoan của Hitler.
2.1.2. Thực trạng phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler:
Một trong những tố chất độc tài – chuyên chế, Hitler là một đại diện tiêu
biểu cho phong cách lãnh đạo độc đoán. Điều đó được chứng minh qua những
hành động trong đời sống riêng khi Hitler đối xử với những người dưới trong
cuộc sống hàng ngày, trong công việc với mọi quyết định và hành xử của ông.
Trong cuộc sống hàng ngày:
Hitler độc đoán cho rằng mình luôn đúng và không chịu sửa các thói quen
cổ quái của mình. Ông chẳng quan tâm đến chức năng quản lý quốc gia của một
Thủ tướng. Thiếu kiến thức điều hành Chính phủ nhưng lại không chịu học. Tự
cho mình là một nghệ sĩ cao quý và một nhà tư tưởng nhạy bén, Hitler tin vào tín
điều: “Một ý nghĩ thiên tài giá trị hơn cả một đời ngồi trong phòng làm việc.” Vì
thế Hitler thoải mái chờ cho tới khi bất chợt xảy ra tình huống hiểm nghèo thì
ông nhảy lên sân khấu diễn một vở kịch xuất chúng.
Hàng ngày Quốc trưởng ngủ dậy rất muộn, vừa ăn sáng vừa đọc báo, sau
đó tạt qua phòng làm việc, giải quyết vài việc ông quan tâm, bỏ mặc mọi việc
khác. Ông tự bố trí việc tiếp khách, không ưa ai thì không tiếp, dù việc khẩn cấp
đến đâu. Hitler ít ngồi mà hay đi lại trong phòng, ghét viết lách, thích ra lệnh
miệng cho bất cứ ai có mặt, hoặc đọc cho thư ký chép. Buổi “biểu diễn” đặc sắc
nhất của ông là bữa ăn trưa, bắt đầu lúc 14 hoặc 15h, kéo dài cả buổi chiều,
thường có mặt dăm chục cộng sự. Suốt bữa, ông huyên thuyên độc thoại một
mình, người nghe chỉ biết phụ hoạ, không dám nói lại. Bữa tối vắng hơn, người
giầu tự trọng thường tránh ăn chung với Hitler. Ngày làm việc ở Phủ Thủ tướng
thường kết thúc bằng xem phim – thú tiêu khiển duy nhất của Quốc trưởng. Xem
đến chỗ nào không thích là ông hét lên: “Rác rưởi !”, lập tức người ta thay phim
khác.
14
Trong vai trò một nhà lãnh đạo: Tính độc đoán thể hiện trong việc
- Thứ nhất, chiếm quyền độc tài trong đảng
Vào mùa hè 1921, lần đầu tiên Hitler đã cho các đồng chí của mình nếm
trải bản tính tàn độc và óc tinh ranh về chiến thuật. Trong khi Hitler đi Berlin để
tiếp xúc với vài phe nhóm theo chủ nghĩa quốc gia hầu mở rộng phong trào Quốc
xã, những ủy viên trung ương khác của Đảng Quốc xã thấy có cơ hội để thách
thức quyền lãnh đạo của ông. Hitler đã trở nên quá độc đoán với họ. Thế là họ trù
định sáp nhập với những phe nhóm có chủ kiến tương tự.
Nhận ra vị thế của mình bị đe dọa. Hitler vội vã trở về München để dập tắt
những người mà ông gọi là "mất trí điên rồ". Ông xin rút ra khỏi đảng. Những ủy
viên trung ương khác thấy ngay là đảng không thể mất ông. Hitler không chỉ là
nhà hùng biện tài giỏi nhất, mà còn là nhà tổ chức và tuyên truyền hữu hiệu nhất.
Hơn nữa, chính Hitler là người mang về phần lớn ngân khoản đóng góp cho đảng.
Nếu ông ra đi, chắc chắn Đảng Quốc xã sẽ tan rã. Trung ương đảng khước từ ý
nguyện của Hitler. Sau khi đã nhận thức rõ vị thế của mình, bây giờ Hitler bắt
buộc các nhà lãnh đạo khác của đảng phải nhượng bộ. Kết quả là Hitler xóa bỏ
Trung ương Đảng, nắm quyền lãnh đạo độc tôn của đảng, nhà sáng lập đảng
Drexler được đẩy lên làm chủ tịch danh dự, và chẳng bao lâu bị cho ra rìa. Tháng
7 năm 1921, "nguyên tắc lãnh đạo" được thiết lập, trở thành điều luật trước nhất
cho Đảng Quốc xã và sau đấy cho Đế chế Thứ Ba. "Lãnh tụ" đã xuất hiện trên
chính trường nước Đức. Vị "lãnh tụ" bây giờ bắt đảng, tiếp tục nhận đầu lo tái tổ
chức thêm đóng góp tài chính.
- Thứ hai, thiết lập thể chế độc tài
Nghị viện và chính quyền bang bị giải tán ngay trong năm đầu Quốc xã
nắm quyền lực. Bang được chuyển thành tỉnh, và tỉnh trưởng được Hitler bổ
nhiệm. Thành phố cũng mất quyền tự quản, được đặt dưới Bộ Nội vụ. Bộ trưởng
Nội vụ bổ nhiệm thị trưởng của thành phố có trên 100.000 dân, và tỉnh trưởng bổ
nhiệm thị trưởng của thành phố từ 100.000 dân trở xuống. Riêng Hitler giữ quyền
bổ nhiệm thị trưởng Berlin, Hamburg và Wien (sau năm 1938, khi Áo được sáp
nhập).
15
Ngày 14 tháng 7 năm 1933, một luật mới quy định Đảng Lao động Quốc gia Xã
hội Chủ nghĩa Đức là đảng chính trị duy nhất ở Đức. Các nghiệp đoàn bị dẹp bỏ.
Ngày 30 tháng 1 năm 1934, kỷ niệm tròn năm Hitler nhậm chức Thủ tướng,
Hitler chính thức hoàn tất công việc qua Luật Tái lập Đế chế. Tất cả thể chế dân
cử bị xóa bỏ, quyền điều hành bang được chuyển về trung ương, mọi cơ cấu
chính quyền bang được tập trung dưới chính phủ Đế chế, thống đốc bang được
đặt dưới hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế.
- Thứ ba, thanh trừng và đàn áp các nhân vật chống đối
Ngày 5 tháng 11 năm 1937, Hitler thông báo cho giới chỉ huy quân đội và
ngoại giao cao cấp ý định tiến hành chiến tranh, sáp nhập Áo và Tiệp Khắc vào
Đức. Các tư lệnh quân đội và ngoại trưởng tin chắc việc này sẽ dẫn đến chiến
tranh toàn Châu Âu. Họ đều cảm thấy choáng váng. Đấy không phải là do yếu tố
đạo lý mà vì lý do thực tế hơn: nước Đức vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến
lớn; nếu khiêu khích chiến tranh bây giờ sẽ có nguy cơ gặp thảm họa. Dựa trên
những lý do ấy, Werner von Blomberg, Freiherr Wernner von Fritsch và
Konstantin von Neurath đã lên tiếng cật vấn lý lẽ của Lãnh tụ. Trong vòng 3
tháng, cả ba đều mất chức.
Do những mưu đồ của các thuộc hạ dưới quyền, lần lượt Thống chế, Tổng Tham
mưu trưởng Quân lực von Blomberg và Đại tướng cấp cao Tư lệnh Lục quân von
Fritsch đều bị mất chức do bị Heinrich Himmler dàn cảnh, kết tội đồng tính.
Hitler tuyên bố đích thân ông chỉ huy toàn quân lực. Là nguyên thủ quốc gia, dĩ
nhiên Hitler là Tư lệnh Tối cao Quân lực, nhưng bây giờ ông nắm luôn chức
Tổng Tham mưu trưởng Quân lực và bãi bỏ Bộ Chiến tranh. Bộ Tổng Tham mưu
Quân lực bây giờ có tên mới: Oberkommando der Wehrmacht – gọi tắt là OKW,
chỉ huy ba binh chủng Lục quân, Không quân và Hải quân. Hitler là Tư lệnh tối
cao của OKW.
Ngày 4 tháng 2 năm 1938 là điểm ngoặt quan trọng trong lịch sử của Đế
chế thứ Ba, là cột mốc trên đường tiến đến chiến tranh. Vào ngày này, những
người bảo thủ cuối cùng ngáng trở Hitler trên con đường ông nhất quyết theo
đuổi đã bị gạt qua một bên. Trong suốt 5 năm cho đến ngày 4 tháng 2 năm 1938
16
này, quân đội có đủ sức mạnh để lật đổ Hitler và Đế chế thứ Ba, nhưng họ đã
không làm gì cả.
Có nhiều âm mưu chống đối Hitler với mục đích chính ban đầu là lật đổ
ông nhằm ngăn ông gây chiến tranh mà họ nghĩ sẽ đem đến chiến bại cho nước
Đức. Kế tiếp, khi chiến tranh đã bùng phát, những người chống đối muốn ngăn
chặn việc Đức bị thất trận nhục nhã, cần vớt vát ít nhiều bằng cách ám sát Hitler
và đàm phán với Đồng Minh. Riêng năm 1943, có ít nhất hàng chục kế hoạch ám
sát Hitler
Tất cả âm mưu đều thất bại. Giới dân sự không thể lôi kéo Quân đội Đức vào âm
mưu của họ. Như Thống chế von Blomberg khai trước Tòa án Nürnberg:
“Trước 1938-39, các tướng lĩnh Đức không chống lại Hitler. Không có lý
do gì chống lại ông, vì ông tạo ra thành quả mà họ mong ước”.
Sau vụ Claus von Stauffenberg ám sát hụt Hitler, trong cơn giận dữ tột
cùng và lòng thèm khát trả thù không gì kiềm chế được, Hitler quát tháo:
“Lần này, sẽ cho can phạm xưng tội ngắn gọn. Không có tòa án quân sự.
Họ sẽ đứng trước Tòa án Nhân dân. Không cho phép họ phát biểu. Tòa án
sẽ xét xử chớp nhoáng. Án tử hình được thi hành hai tiếng đồng hồ sau.
Bằng cách treo cổ – không có sự khoan hồng”.
Những người bị cáo buộc trong giới quân sự không ra tòa án binh, mà bị
tước quân tịch để đứng trước Tòa án Nhân dân, vốn là loại hình tòa án bù nhìn,
nhận lệnh trực tiếp từ Hitler. Tử tội bị đưa vào một gian phòng nhỏ đã có sẵn tám
cái móc treo thịt. Từng người bị lột trần cho đến eo, một thòng lọng bằng sợi dây
dương cầm được tròng vào cổ họ và phía trên buộc vào cái móc treo thịt. Một
máy quay phim thu hình toàn bộ diễn tiến trong khi tử tội đong đưa và ngạt thở,
chiếc quần không có dây lưng cuối cùng tụt xuống, khiến cho họ trần truồng
trong khi chết một cách đau đớn. Theo chỉ thị, trong đêm ấy cuốn phim được
tráng rồi được chuyển đến cho Hitler xem cùng với những ảnh chụp trong phiên
tòa.
17
Nhân vật có can dự nổi tiếng nhất là Thống chế Erwin Rommel, thì bị Hitler bức
tử để đổi lại gia đình ông không bị trừng phạt và lễ tang của ông được cử hành
theo cấp nhà nước
Trong quân sự:
Phong cách độc đoán của Hitler càng thể hiện rõ ràng khi ông nói: “Tôi không
yêu cầu các tướng lĩnh phải hiểu mệnh lệnh của tôi, mà chỉ yêu cầu họ chấp
hành”.
Đầu năm 1938, đa số các chỉ huy cao cấp phản đối việc Hitler định chiếm
châu Âu, họ sợ nước Đức sẽ cuốn vào một cuộc chiến không thể thắng. Hitler
bèn thay hầu hết người ở các chức vụ cao nhất, bãi bỏ chức tổng tư lệnh lực
lượng vũ trang và Bộ Chiến tranh, lập Bộ Thống soái Tối cao (OKW) do Hitler
trực tiếp chỉ huy, thực chất chỉ là ban tham mưu cho cá nhân ông.
Khi Hitler ra lệnh chiếm Áo (3. 1938), đa số các tướng phản đối; ông bèn
tự chỉ huy toàn bộ chiến dịch này. Tháng 5, Hitler thông báo kế hoạch chiếm
Tiệp Khắc do OKW thảo, không hề hỏi ý kiến lục quân. Tổng tham mưu trưởng
lục quân bèn từ chức để phản đối. Khi quyết định chiếm Ba lan, Hitler sai lầm
cho rằng phương Tây sẽ không can thiệp, nhưng Anh và Pháp đã tuyên chiến với
Đức sau khi Đức tiến vào Ba Lan; chiến tranh thế giới nổ ra. Khi Hitler thông báo
kế hoạch tháng 8 tấn công sang mặt trận phía Tây, ngay cả phó thứ nhất của ông
là Goering cũng bất ngờ vì các tướng Đức vẫn muốn hoà bình với Anh, Pháp.
Chiến dịch tấn công Na Uy tháng 4.1940 bộc lộ rõ nhược điểm chủ quan của
Hitler. Hải quân Anh đánh đắm 10 tàu tuần dương Đức. Phải mất 6 tuần Hitler
mới chiếm được Na Uy.
Hitler càng tự phụ và thể hiện tính độc đoán của mình khi cho rằng mình
có thiên tài quân sự, bằng chứng là sau khi chiếm nước Pháp, hắn phớt lờ các
tướng lĩnh Đức và không cung cấp cho họ mọi thông tin cần thiết, nhằm tước
đoạt quyền chỉ huy của họ. Kết quả là trong cuộc tấn công Liên Xô, Hitler tưởng
là chỉ vài tuần là chiếm được Moskva nên quân Đức không mang quần áo rét, do
đó khi bị cầm chân trong băng tuyết ở ngoại vi Moskva, chúng đã bị thua đau
trước sự phản công của quân Nga. Lúc đó Hitler không cho quân Đức rút lui theo
đề nghị của các tướng, vì vậy thiệt hại càng nặng. Như mọi lần, ông lại đổ tội cho
18
cấp dưới, khiến nguyên soái Brauchitsch xin từ chức Tổng tư lệnh. Trong trận
Stalingrad, Hitler càng chủ quan đến bệnh hoạn. Khi nghe báo cáo Liên Xô tập
trung 1 triệu quân phản công và Stalingrad mỗi ngày sản xuất được 1200 xe tăng,
Hitler không thèm nghe các tin này. Ông phản đối đề nghị phá vây của tướng
Paulus, ra lệnh đánh đến cùng. Cuối cùng Paulus dẫn 92 nghìn lính Đức ra đầu
hàng Hồng quân. Hitler gầm lên: “Tôi không thể hiểu tại sao một người đàn ông
như Paulus lại không chọn cách tự tử ?”
Trên mặt trận phía Tây, quân Đức ở Bắc Phi đầu hàng; Đồng Minh chiếm
đảo Sicile của Ý, Mussolini bị hạ bệ. Từ đó trở đi, Hitler ngày một rút vào cô đơn,
hắn không ăn chung với các hầu cận nữa và chỉ còn diễn thuyết có hai lần trước
đám đông. Hitler giam mình trong phòng riêng tại Sở Chỉ huy của Quốc trưởng ở
Đông Phổ, đôi lúc sang tận Sở Chỉ huy ở gần Kiev (Ukraine), cho đến
20.11.1944 mới về Berlin. Khi Đồng Minh đổ bộ Normandy, Hitler vẫn không tin
là quân Đức có thể thua. Ông ra lệnh chiến đấu đến cùng, mắng nhiếc các tướng
lĩnh là dát như chuột và lừa dối.
Cuối cùng để bảo vệ danh dự và không bị người khác coi thường Hitler đã
lựa chọn cái chết thay vì đứng trước mặt mọi người để chịu tội
2.2. Phân tích thực trạng phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler:
2.2.1. Ưu điểm:
- Hitler là một người rất có tài về quân sự kết hợp với tài hùng biện được
tôi luyện để đạt đến mức xuất sắc, do đó việc vận dụng phong cách lãnh đạo
chuyên chế độc đoán đã phát huy được toàn bộ những khả năng của ông, giúp
ông đạt đươc những thành công theo mục đích của mình.
- Thay đổi toàn bộ đất nước, nước Đức đang trong tình trạng khủng hoảng
sau thất bại của chiến tranh thế giới thứ nhất nên đang rất cần một đường lối
chính sách tư tưởng mới có thể làm cho nước Đức vực dậy, những tư tưởng của
Hitler được đưa ra còn rất mới lạ, nên việc thực hiện những tư tưởng đó yêu cầu
phải sử dụng phong cách lãnh đạo độc đoán là phù hợp nhất. Cũng nhờ phong
cách lãnh đạo này đã tạo ra những thành tựu đáng kể như đã nhắc tới ở thành tựu
của Hitler đối với nước Đức, đó là điều cơ bản nhất để xây dựng lòng tin tuyệt
đối của người dân Đức đối với Hitler.
19
- Việc sử dụng phong cách độc đoán giúp Hitler giải quyết công việc một
cách nhanh chóng, đảm bảo đạt được mục tiêu một cách chính xác. Thể hiện ở
chỗ chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm kể từ khi Hitler công khai tuyên truyền tư
tưởng độc tài (1921) đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, từ những bước
đi đầu tiên trong Đảng Quốc xã đến việc nắm quyền cao nhất nhà nước, từ việc
vực nước Đức lên về nền kinh tế tới việc xây dựng một lực lượng quân đội hùng
hậu, từ việc khởi động chiến tranh thế giới thứ 2 đến những thắng lợi đạt được
trong chiến tranh. Tất cả đều được áp dụng phong cách lãnh đạo độc đoán chuyên
quyền.
- Với việc sử dụng phong cách lãnh đạo độc đoán giúp Hitler thâu tóm
toàn bộ quyền lực về mình cả về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao … việc
thâu tóm quyền lực đó giúp cho những quyết định của Hitler rất có uy lực, không
ai có quyền được chối cãi, chống đối, cũng như làm thất bại những âm mưu tham
vọng lật đổ ông. Ở đây xin nói thêm là trong thời kỳ trước và sau khi Hitler lên
nắm quyền thủ tướng Đức có rất nhiều đảng phái tồn tại đấu đá nhau, do đó việc
Hitler thâu tóm quyền lực là rất cần thiết để chóng lại những mưu đồ của các
Đảng phái có thể gây hỗn loạn. Điều đó là một trong những lý do giúp Hitler thực
hiện được mục tiêu một cách nhanh chóng.
- Về mặt quân sự, việc lãnh đạo theo phong cách lãnh đạo chuyên quyền là
yêu cầu cao nhất, vì bản chất của quân đội là nhận thông tin từ trên xuống, chấp
hành và thực hiện. Hitler đã xây dựng được một lực lượng quân đội hùng mạnh
và gây ra chấn động mạnh mẽ trên khắp thế giới bằng việc gây ra chiến tranh thế
giới thứ 2.
Tóm lại, qua phân tích ưu điểm chúng tôi thấy rằng việc áp dụng phong cách lãnh
đạo độc đoán là rất cần thiết đối với Hitler nói riêng và nước Đức nói chung trong
thời kỳ đó, bởi vì yêu cầu đặt ra cao nhất trong thời kỳ này chính là làm sao để
đưa nước Đức vực dậy một cách nhanh chóng nhất có thể,cả về chính trị, kinh tế,
quân sự… và chỉ có lãnh đạo theo phong cách độc đoán chuyên quyền mới làm
được.
20
2.2.2. Nhược điểm:
Rõ ràng việc lãnh đạo theo cách độc đoán của Hitler là điều cần thiết tuy nhiên
phong cách nào cũng có ưu điểm và nhược điểm. Có phong cách phù hợp với
hoàn cảnh, tình huống này nhưng không phù hợp với hoàn cảnh, tình huống khác.
Hitler là con người chỉ vận dụng một phong cách độc đoán đã tạo ra nhiều nhược
điểm đáng kể. Đặc biệt, điều đó đã gây ra một hậu quả vô cũng nghiêm trọng khi
tư tưởng của người lãnh đạo này bị sai lệch đó mà không ai có thể ngăn chặn
được đó là việc phát động chiến tranh thế giới thứ 2 và nhận thất bại nặng nề.
Mặt trái của phong cách lãnh đạo của Hitler còn thể hiện rất rõ:
- Thói ngông nghênh trong lúc làm việc và đón tiếp người khác tại văn
phòng, khi làm việc ông muốn tiếp ai thì tiếp, không muốn thì đuổi họ đi, công
việc gì mình quan tâm thì giải quyết, không để ý đến trọng trách quốc gia, chỉ
chú ý đến quyền lực trong tay mình nên tạo ra rất nhiều kẻ chống đối muốn lật đổ
ông.
- Hitler quá tự tin vào tài năng của bản thân, tự phụ đối với tài hùng biện
của mình, ông đã dần mắc bệnh hoang tưởng, ngủ quên trong tài năng và vinh
quang của mình nên không thèm lắng nghe bất cứ lời khuyên của ai, luôn tự cho
mình đúng điều đó đã làm cho Hitler phải gánh chịu nhiều thất bại đau đớn.
- Phong cách độc đoán đưa thông tin một chiều từ trên xuống, những ý
kiến sáng tạo của cấp dưới đều bị Hitler bác bỏ nhanh chóng, ông không nghe lời
bất cứ ai nên đã dẫn đến nhiều quyết định sai lầm, và phải nhận thất bại đau đớn
nhất là thất bại ở chiến tranh thế giới thứ 2.
- Việc áp đặt người khác đã làm hạn chế tinh thần sáng tạo của họ, làm
cho họ thấy bất mãn và dần dần trở nên buông xuôi, chỉ nghe mà không cần hiểu,
làm mà không có mục đích. Điều đó là nguyên nhân dẫn tới tai họa của nước Đức.
- Vì phong cách lãnh đạo độc đoán đã làm Hitler xa rời với ý chí nguyện
vọng của nhân dân, không biết thương dân, những người đã từng rất tin tưởng
ông, nhưng kết quả là không ai tiếc thương cho cái chết của ông.
- Hitler đàn áp rất dã man những người chống đối mình, người bị buộc từ
chức, người bị giết, kẻ bị ép chết… không từ một ai. Những hành động đó đã làm
cấp dưới khiếp sợ, không dám chống lại, không dám đưa ra ý kiến nên Hitler mất
21
đi những sáng kiến của cấp dưới. Họ chỉ biết sợ chứ không hề tôn kính trung
thành với ông, thậm chí còn căm ghét ông. Trước mặt ông, dưới sự điều khiển
của ông thì răm rắp làm theo một cách trung thành nhưng khi thoát khỏi sự chi
phối của ông thì sẵn sàng phản bội, sẵn sàng từ bỏ ông để chạy theo mong muốn
bị kìm nén bao lâu của họ. Thể hiện như ở trân Staligrat tướng Paulus đã dẫn
quân đầu hàng đồng minh trong sự cay đắng của Hitler.
- Khi gặp thất bại, vì sợ mất phong độ, sợ bị người khác nhìn ông là một
kẻ không có tài năng nên ông không ngần ngại đổ lỗi cho người khác, không chịu
nhìn nhận cái sai của mình. Thậm chí ông đánh đổi cả cái chết vì quá tự cao tự
đại để không chịu nhục.
Tóm lại, phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler mang cả ưu và nhược điểm,
tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của Hitler chính là nguyên nhân dẫn tới thất bại
lớn nhất cuộc đời ông và gây thảm họa cho người Đức và cả thế giới lại xuất phát
từ chính quan điểm mục tiêu sai lầm, kết hợp với sự độc đoán chuyên quyền của
ông đã làm cho Hitler trở thành một kẻ vĩ đại nhưng bị căm ghét.
22
Chương 3: Giải pháp cho phong cách lãnh đạo độc đoán của
Hitler
3.1. Mục tiêu:
- Từ những phân tích thực trạng về những vấn đề tích cực và tiêu cực
trong việc quản lý và lãnh đạo bằng phong cách này so với những phong cách
lãnh đạo khác.
- Đưa ra những suy nghĩ, nhận xét và bài học kinh nghiệm nói chung cho
việc lựa chọn các cách thức để quản lý con người và công việc thông qua việc
phân tích hình ảnh lãnh đạo của hitler.
- Nhằm đưa ra các đề xuất ,các ý kiến của nhóm về việc xác định biện
pháp phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm trong phong cách lãnh đạo độc
đoán,chuyên quyền nói chung và phong cách lãnh đạo của hitler nói riêng.
- Vận dụng vào tổ chức phong cách lãnh đạo độc đoán trong các trường
hợp cụ thể một cách linh hoạt và hiệu quả.
3.2. Giải pháp cho phong cách lãnh đạo độc đoán của Hitler:
3.2.1. Những giải pháp nhằm phát huy ưu điểm trong phong cách lãnh
đạo của Adoft Hitler:
- Phát huy trong tài hung biện trước dân chúng thể hiện tính cương quyết
và nhất quán của một nhà lãnh đạo đất nước. Không thể không nhắc đến tài hùng
biện của Hitler,có thể nói đây là tài năng xuất chúng mà ông có được đã giúp ông
đạt được sự tin tưởng, thuyết phục nhân dân và tướng lĩnh tin theo và phục vụ .
Đây là tài năng mà các nhà lãnh nhà lãnh đạo mong ước. Có thể nói tài hung
biện không chỉ là kĩ năng mà còn là tài năng thiên bẩm, là nghê thuật. Hitler rất
coi trọng việc này nên đã tập diễn thuyết hăng say.
- Quyết đoán trong việc thay đổi đất nước trên tinh thần dám nghĩ dám
làm. Có thể nói Hitler là người tiên phong thổi những luồng khí mới vào bộ máy
điều hành cứng nhắc của Đức. Bởi là người chưa được đào tạo qua trường lớp
nên ông không bị bó buộc bởi các tư tưởng cứng nhắc và sáo mòn. Hơn ai hết,
23
ông biết nước Đức cần thay đổi theo hướng hoàn toàn khác - hướng Hitler hóa -
tức chỉ dựa vào ý chí,quyết định của ông là chính. Trên cương vị là một nhà lãnh
đạo đại tài, ta có thể xét đến những ý tưởng táo bạo, đi trước thời đại. Nếu xét
đến những nhà lãnh đạo thành công và nổi tiếng trên thế giới, không khó khi
nhận ra yếu tố đưa họ đến vinh quang chính là những ý tưởng độc đáo mới lạ mà
không ai nghĩ đến
- Phát huy phong cách độc đoán khi cần giải quyết công việc một cách
nhanh chóng, đảm bảo đạt được mục tiêu một cách chính xác. Khi cần truyền đạt
mệnh lệnh xuống cấp dưới hay ra chiến trường một cách chính xác thì nên sử
dụng cách này, tuyên truyền vận động sức mạnh quyền lực của mình để người
khác không có ý định lật đổ hay chống đối. Áp dụng chính sách thưởng phạt nếu
người chuyển thông tin không đúng sự thật và không đúng lúc.
- Nhất quán và quyết liệt trong môi trường quân đội. Trong quân sự,
phong cách lãnh đạo độc đoán là lựa chọn duy nhất, mọi mệnh lệnh của cấp trên
phải được thi hành, không chấp nhận sự đình trệ. Điều này đã trở thành khuôn
khổ được áp dụng từ xưa đến nay. Có thể khẳng định về mặt quân sự không một
phong cách lãnh đạo nào khác có thể thay thế được. Không bị bất kỳ ý kiến nào
chi phối quyết định của mình, tự tin thực hiện kế hoạch của mình. Hitler cũng đã
đạt được những kết quả nhanh chóng, công việc được tiến hành rất hiệu quả. Như
đã nói ở trên, ông đưa ra chủ trương cứu đất nước bằng cách bành trướng lãnh
thổ ra nước ngoài và đàn áp trong nước, cam kết lập lại trật tự, đưa nước Đức trở
lại vị trí dẫn đầu .Chính nhờ những thành tựu này mà không ít người tôn sùng, tin
tưởng và đi theo Hitler. Nhìn vào kết quả trước và sau khi ông đưa ra cam kết
trong lĩnh vực kinh tế cũng như quân sự,có thể nói là ngoài sức tưởng tượng. Nhờ
đó mà lời nói và mệnh lệnh của ông có sức thuyết phục,dẫn dắt người khác thực
hiện. Đó là ưu điểm mà ở những phong cách lãnh đạo khác khó có thể thấy được.
- Ra lệnh nhanh chóng và nhất quán trong tình huống cấp bách, nhất là
trong quân sự. Chúng ta không thể phủ nhận ưu điểm nổi bật cũa phong cách này
trong những tình huống cấp bách, nếu người lãnh đạo không có thái độ dứt khoát
như vậy sẽ làm công việc bị đình trệ và tệ hơn là làm cấp dưới hoang mang,lo
lắng, mất long tin. Đó là hậu quả cón ghê gớm hơn rất nhiều so với thất bại.
24
- Đối với việc quản lý một quốc gia hay việc thống lĩnh phần lớn châu Âu
của nước Đức thì gặp rất nhiều khó khăn nên cần phong cách lãnh đạo độc đoán
có rất nhiều hiệu quả từ việc thống nhất các quyền lực vào tay mình đến điều
hành một cách hiệu quả. Từ đó thấy được hiệu quả của phong cách lãnh đạo độc
đoán của Hitler như thế nào, Hitler dần có tầm ảnh hưởng lớn không những ở
Châu Âu mà trên toàn thế giới. Làm được tất cả những điều đó thì một phần dựa
vào tham vọng, hoài bão, sách lược được ông tạo dựng trong tư tưởng và tâm trí
của người dân qua hệ thống chính trị độc quyền của mình,giúp hitler thực hiện
các kế hoach,chính sách một cách suôn sẽ và thuận lợi nhất.Để phát huy yếu tố
tích cực này,thì hitler nên có chính sách chia sẻ bớt quyền lực cho những thành
viên thân cận,một mặt san sẻ rủi ro,một mặt cũng giảm tránh được bớt gánh nặng
trong quản lý,lãnh đạo.nhưng vẫn đảm bảo được quyền ra quyết định của mình.
3.2.2. Những giải pháp nhằm khắc phục nhược điểm trong phong cách
lãnh đạo của Adoft Hitler:
Trong cuộc sống hàng ngày:
- Giảm bớt thói ngông ngênh, làm phản cảm mọi người xung quanh là
không cần thiết, chỉ cần giảm bớt những thói quen cổ quái làm mọi người khó
chịu và sợ hãi như vậy là có thể thêm được sự ủng hộ trong lòng những cấp dưới
của mình. Những cấp dưới họ không chỉ tuân theo lời mình mà còn ủng hộ hết
cho quyền lực của mình hết lòng, chứ không phải vì sợ hãi mà làm, thật lòng ủng
hộ thì sẽ mang lại hiệu quả hơn, giảm bớt được những sự chống đối không cần
thiết trong can đường chính trị.
- Không nên lạm dụng quyền lực trong cuộc sống hàng ngày. Tạo một lối
sống hoàn toàn độc lập với cuộc sống trong công việc. Công việc và cuộc sống
hàng ngày phải tách bạch, không nên lạm dụng phong cách lãnh đạo độc đoán
bừa bải sẽ mất đi tác dụng, ngược lại còn đem đến hậu quả xấu là mọi người
khiếp sợ, “bằng mặt mà không bằng lòng” . Nói rộng hơn, nhà lãnh đạo phải linh
hoạt, biết khi nào nên và không nên áp dụng phong cách lãnh đạo độc đoán.
Trong vai trò một nhà lãnh đạo:
- Không nên đàn áp dã man những người chống đối mình, họ chống đói
ông vì cho rằng quyết định của ông có sai sót hoặc không khả thi, không thể thực
25
hiện thành công được. Cần thương lượng với những người đó để biết thêm thông
tin trước khi ra quyết định cho một kế hoạch lớn. Cái chưa hoàn thiện của Hitler
là để giữ vững quyền lực và thị uy với đối phương, ông đã cho thi hành hang loạt
án tử hình cho những cáo buộc ám sát với hình thức rất dã man càng gậy nên sự
căm hờn, sợ hãi trong lòng người. Ông đã cho thi hành kế hoạch, gây ra chiến
tranh thế giới, bành trướng lãnh thổ ra bên ngoài ,đàn áp bên trong nước. Cứ
thế ,thay vì phối hợp phong cách độc đoán áp chế và độc đoán nhân từ đúng
lúc,đúng chỗ thì ông lại áp đặt mọi người theo một khuôn khổ nhất định.Nếu có
bất cứ ai lệch ra khỏi khuôn khổ này dù là một chút cũng chịu hậu quả rất nặng
nề.Nhà lãnh đạo đốc đoán-nhân từ vẫn nắm giữ quyền ra những quyết định quan
trọng mà vẫn không làm cho cấp dưới khiếp sợ,mất lòng tin,ngấm ngàm chống
đối.
- Một trong những giải pháp đề ra là hạn chế sự hoài nghi đến cưc đoan.
Người lãnh đạo là phải cận thận nhưng không được hoài nghi quá đáng. Cận thận
trong các quyết định lớn nhưng những công việc nhỏ có thể giao cho người thân
tín thi hành. Không ít lần vì những hoài nghi không căn cứ này mà một lượng lớn
những thuộc cấp phải chịu mất chức hay thanh trừ. Như hành động ban hành luật
chấm dứt thương thuyết tập thể, giải tán các nghiệp đoàn, bắt các nhà lãnh đạo,
chấm dứt tự do ngôn luận đã làm mất đi cơ hội đóng góp ý kiến,sự động viên tập
thể. Và cũng vì sự cực đoan này mà Hitler gây ra nạn diệt chủng người Do Thái,
hậu quả hết sức nặng nề. Tổng cộng 104 tỉ USD đã được bồi thường cho các nạn
nhân.
- Thay đổi các suy nghĩ của bản thân con người ông, vì không ý thức được
bản thân vẫn còn nhiều hạn chế nên ông không quan tâm, để ý tới lời nói của
những người khác dẫn đến hậu quả là bác bỏ cái đúng, thực hiện cái sai. Có thể
thấy ở Hitler sự tự đại cao, tự cho mình là hay là giỏi đã dẫn Hitler đến thất bại
trước Hồng quân. Mới hay “kẻ thù lớn nhất của con người chính là bản thân
người đó”. Luôn luôn chấp nhận cái sai của mình một cách công khai và quyết
tâm sửa đổi mới tạo nên người lãnh đạo thực thụ, được mọi người tin theo và ủng
hộ.
- Dám chấp nhận khuyết điểm của mình và tích cực sữa đổi là điều cần