Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

LUẬN VĂN: KHẢ NĂNG XỬ LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG BỂ NUÔI TÔM SÚ (Penaeus monodon) CÓ BỔ SUNG VI KHUẨN HỮU ÍCH ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.61 KB, 43 trang )

1



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





NGUYỄN THANH TÂM




KHẢ NĂNG XỬ LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG BỂ NUÔI
TÔM SÚ (Penaeus monodon) CÓ BỔ SUNG VI KHUẨN HỮU
ÍCH








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN












2009




2



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN





NGUYỄN THANH TÂM





KHẢ NĂNG XỬ LÝ MÔI TRƯỜNG TRONG BỂ NUÔI
TÔM SÚ (Penaeus monodon) CÓ BỔ SUNG VI KHUẨN HỮU
ÍCH









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN




CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ths. PHẠM THỊ TUYẾT NGÂN




2009



3


LỜI CẢM TẠ
Tôi vô cùng biết ơn cha mẹ, anh chị và những người thân của tôi đã chia sẽ, động
viên và dành những gì tốt đẹp nhất cho tôi có được thành công như ngày hôm nay.
Xin trân trọng gởi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Phạm Thị Tuyết Ngân đã dành thời
gian tận tình hướng dẫn, động viên, cung cấp nhiều kiến thức quý báo và tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn .
Xin cám ơn thầy Trương Quốc Phú, thầy Vũ Ngọc Út, thầy Lê Minh Trường
phòng thí nghiệm phân tích chất lượng nước, Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng –
Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học Cần Thơ đã tạo điều kiện, tận tình chỉ bảo tôi
trong việc phân tích các chỉ tiêu thuỷ lý, hóa trong luận văn này.
Cảm ơn Thư viện khoa thủy sản, Trung tâm học liệu đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt thời gian viết luận văn nay.
Xin chân thành cảm ơn!
4

TÓM TẮT
Sự phát triển nghề nuôi tôm công nghiệp trong nhiều năm qua đã tạo áp lực lên
môi trường nước và sự tự ô nhiễm, nó đã góp phần phá hủy hệ sinh thái ven biển,
nghề nuôi tôm đang đương đầu với những vấn đề dịch bệnh do nước thải từ các
ao nuôi thâm canh đổ ra với hàm lượng dinh dưỡng cao. Nuôi tôm cá theo hướng
bảo vệ môi trường ngày càng được chú trọng, vi sinh đóng vai trò quan trọng
trong xu thế này. Tuy nhiên hiện nay còn quá ích thông tin về hiệu quả của vi
khuẩn hữu ích. Vì vậy mà đề tài: “Khả năng xử lý môi trường trong bể nuôi
tôm sú (Penaeus monodon) có bổ sung vi khuẩn hữu ích” được thực hiện nhằm
cung cấp thông tin và đưa ra giải pháp quản lý môi trường hiệu quả các vật chất
dinh dưỡng hữu cơ tích lũy trong quá trình nuôi.
Một thí nghiệm được bố trí trong 12 bể 500L nhằm đánh giá hiệu quả xử lý nước
của vi khuẩn Bacillus đã dược thực hiện tại trại cua Khoa Thủy Sản, Đại Học Cần
Thơ. Thí nghiệm bao gồm 4 nghiệm thức với 3 lần lặp lại. Trong đó 3 nghiệm thức
có bổ sung vi khuẩn hữu ích Bacillus được phân lập và chọn lọc từ ao nuôi tôm sú

và một nghiệm thức đối chứng (DC) không bổ sung vi khuẩn. Các yếu tố theo dõi
chủ yếu TAN, NO
2
, NO
3
, TSS, COD và một số yếu tố khác.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quá trình tích lũy vật chất hữu cơ ở những bể có vi
khuẩn giảm rõ rệt, TSS (363 – 174), TN bùn (1,44 – 0,05), COD (12,17 ± 4)….
Ngoài ra tỉ lệ sống (94,87 ± 2,1), tốc độ tăng trưởng (8,99 ± 1,5) của tôm trong các
nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn cũng cao hơn nhiều so với nghiệm thức đối
chứng đặc biệt là nghiệm thức có bổ sung Bacillus 9 (B_9).
Như vậy hiệu quả xử lý nước của vi khuẩn hữu ích đã đựơc khẳng định nhất là
nghiệm thức Bacillus 9 trong thí nghiệm này.

5

MỤC LỤC


LỜI CẢM TẠ i
TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH vi
Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Mục tiêu 2
Nội dung 2
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2. 1 TÌNH HÌNH NUÔI TÔM TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 3
2.1.1 Trên thế giới 3

2.1.2 Việt Nam 4
2.1.3 Đồng bằng sông Cửu Long 4
2.2 Những giải pháp và vấn đề môi trường 5
2.2.2 Giải pháp hóa học 5
2.2.3 Giải pháp sinh học 5
2. 3 BIẾN ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG. 6
2.3 .1 Nhiệt độ 6
2.3.2 pH 6
2.3.3 TSS 7
2.4.6 Oxy hòa tan (DO – Dissolved Oxygen) 7
2.3.5 Ammonia tổng cộng(TAN - Total Ammonia Nitrogen) 8
2.3.6 Nitrite (NO
2
-
) 8
2. 3.7 TN (Total Nitrogen) 9
2.3.8 PO
4
3-
và TP (Total Phosphorus) 9
2.3.9 Chất độc từ đáy ao (H
2
S và NH
3
) 9
2.4. BIẾN ĐỘNG CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG ĐẤT 10
2.4.1. Đặc tính môi trường đất trong ao nuôi tôm 10
2.4.2. Đặc tính lớp bùn đáy trong ao tôm 10
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
3. 1 THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 13

3.1.1 Thời gian nghiên cứu 13
3.1.2 Địa điểm nghiên cứu 13
3. 2 Phương pháp nghiên cứu 13
3.2.1 Vật liệu và phương pháp bố trí thí nghiệm 13
3. 3 Phương pháp nuôi tăng sinh vi khuẩn 14
3. 4 Cách cho ăn và quản lý tôm nuôi thí nghiệm 14
3. 5 Nhịp thu mẫu 14
3. 6 Phương pháp phân tích chất lựơng nước (Andrew, 2005) 14
3.8 Xử lý số liệu 16
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 17
5.1 CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG 17
5.1.1 Nhiệt độ: 17
6

4.1.2 pH 17
4.1.3 DO 18
4.1.4 COD 18
4.1.5 TSS 19
4.1.6 H
2
S 20
4.1.7 NO
2
20
4.1.8 NO
3
21
4.1.9 TAN 22
4.1.10 TN NƯỚC 22
4.1.11 TP NƯỚC 23

4.1.12 TN BÙN 24
4.1.13 TP BÙN 24
4.2.1 Đánh giá tỉ lệ sống và tỉ lệ tăng trưởng của tôm 25
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 27
5.1 Kết luận 27
5.2 Đề xuất 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
PHỤ LỤC 31
Phụ lục 1: Nhiệt độ 31
Phụ lục 2: pH 31
Phụ lục 3: DO 31
Phụ lục 4: COD 31
Phụ lục 5: TSS 32
Phụ lục 6: H
2
S 32
Phụ lục 7: NO
2
33
Phụ lục 8: NO
3
33
Phụ lục 9: TAN 33
Phụ lục 10: TN NƯỚC 34
Phụ lục 11: TP nước 34
Phụ lục 12: TN bùn 34
Phụ lục 13: TP bùn 34
Phụ lục 14: Tỉ lệ sống 34
Phụ lục 15: Tỉ lệ tăng trưởng 35


7

DANH SÁCH BẢNG


Bảng 3.1 Phương pháp thu và phân tích các chỉ tiêu 16
Bảng 4.1 Tỉ lệ sống 25
Bảng 4.2 Tỉ lệ sinh trưởng 26
8

DANH SÁCH HÌNH

Hình 4.1 Biến động nhiệt độ trong suốt quá trình thí nghiệm 17
Hình 4.2 Biến động pH trong suốt quá trình thí nghiệm 18
Hình 4.3 Biến động DO trong suốt quá trình thí nghiệm 18
Hình 4.4 Biến động COD trong suốt quá trình thí nghiệm 19
Hình 4.5 Biến động TSS trong suốt quá trình thí nghiệm 20
Hình 4.6 Biến động TSS trong suốt quá trình thí nghiệm 20
Hình 4.7 Biến động NO
2
trong suốt quá trình thí nghiệm 21
Hình 4.8 Biến động NO
3
trong suốt quá trình thí nghiệm 21
Hình 4.9 Biến động TAN trong suốt quá trình thí nghiệm 22
Hình 4.10 Biến động TN nước trong suốt quá trình thí nghiệm 23
Hình 4.11 Biến động TP nước trong suốt quá trình thí nghiệm 23
Hình 4.12 Biến động TN bùn trong suốt quá trình thí nghiệm 24
Hình 4.13 Biến động TP bùn trong suốt quá trình thí nghiệm 25










9

Chương 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, thủy sản đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
nước ta. Sản lượng thủy sản không chỉ đáp ứng nhu cầu thực phẩm trong nước mà
còn xuất khẩu sang thị trường các nước như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,…
Năm 2007, xuất khẩu thủy sản nước ta đạt 3,7 tỷ USD, vượt 2,78% so với kế
hoạch, tăng 10,45% so với năm 2006 (Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn, 2007). Trong đó tôm sú (Penaeus monodon) là một trong những sản phẩm
xuất khẩu chủ lực, chiếm 39,9% tổng sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Theo Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), kế hoạch năm 2009, cả nước
sẽ giảm 35.000 ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản, xuống còn 1.065.000 ha với sản
lượng ước đạt là 2,3 triệu tấn; trong đó, cá tra: 1,2 triệu tấn; tôm sú: 280.000 tấn;
tuy nhiên so với năm 2000 diện tích này vẫn tăng khỏang 10 lần và dự báo sẽ tiếp
tục tăng nhanh trong những năm sắp tới (www.fistenet.gov.vn).
Để tăng năng xuất và lợi nhuận, người nuôi đã không ngừng tăng mật độ thả
giống, sử dụng thuốc và hóa chất trong phòng và trị bệnh chưa hợp lý, thiếu sót
trong quản lý môi trường…vấn đề trên không chỉ làm xáo trộn sự cân bằng sinh
học của hệ sinh thái trong ao nuôi mà còn tạo điều kiện cho dịch bệnh bùng phát
ảnh hưởng tới sức khỏe vật nuôi mà còn làm ô nhiễm môi trường. Do đó phát
triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững với môi trường đang được nhiều

nước quan tâm trong đó có Việt Nam, để giảm rủi ro về kinh tế cho người nuôi
(www.vietlinh.com)
Vi khuẩn hữu ích đóng vai trò quan trọng trong xu thế này: chúng phân hủy chất
hữu cơ, cải thiện chất lượng nước, chuyển hóa các khí độc như NH
3
, NO
2
-
… sang
các dạng không độc hại khác. Trong nuôi trồng thủy sản hiện nay, những vi khuẩn
hữu ích tiềm năng được phân lập trực tiếp từ môi trường nuôi có kết quả tốt
(Burford et al., 1998).Tác giả này cũng chứng minh được hệ vi sinh vật đa dạng
trên trứng cá sẽ bảo vệ vật chủ chống lại mầm bệnh tốt hơn. Phần lớn vi khuẩn đã
được định danh bằng quan sát hình dạng, đặc điểm sinh hóa và sinh học phân tử.
Hầu hết những loài Bacillus không độc hại đối với động vật, kể cả con người và
nó có vai trò quan trọng trong thương mại vì khả năng sinh sản nhiều sản phẩm
biến dưỡng thứ cấp như kháng sinh, thuốc trừ sâu sinh học, hóa chất và enzim
(Ferarri et al., 1993). Ngày nay, sử dụng sinh vật hữu ích trong nuôi trồng thủy
sản công nghiệp đang tăng lên ở mức công nghiệp (Havennaar & Huys., 2003).
10

Chính vì những lợi ích của vi sinh vật hũu ích đó nên đề tài: “Khả năng xử lý
môi trường trong bể nuôi tôm sú (Penaeus monodon) có bổ sung vi khuẩn
hữu ích” được thực hiện với:
Mục tiêu
Đánh giá khả năng làm sạch môi trường của vi khuẩn hữu ích trong bể nuôi tôm
sú (Penaeus monodon).
Nội dung
Xác định ảnh hưởng của ba dòng vi khuẩn Bacillus lên khả năng làm sạch môi
trường dựa trên các chỉ tiêu chất lượng nước và đối chiếu với bể không bổ sung

Bacillus.
Đánh giá khả năng xử lý đạm của ba dòng vi khuẩn Bacillus chọn lọc.

11

Chương 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2. 1 TÌNH HÌNH NUÔI TÔM TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.1.1 Trên thế giới
Ở các quốc gia Đông Nam Á nghề nuôi tôm phát triển mạnh từ những năm cuối
của thập niên 80, bắt đầu thâm canh hóa từ thập niên 90, không những nâng cao
sản lượng tôm nuôi thế giới mà còn tạo việc làm và tăng thu nhập đáng kể cho
nhiều địa phương ven biển (Yi, 2002). Theo FAO, (2003), giai đoạn 1984-1997
sản lượng tôm tăng bình quân 14% mỗi năm, sản lượng tôm nuôi gần 941.000 tấn
năm 1997 và đạt giá trị 6.1 tỉ USD. Năm 2004 sản lượng tôm nuôi của Việt Nam
đạt hơn 150.000 tấn và góp phần đưa kim nghạch xuất khẩu thủy sản của cả nước
đạt khoảng 1.8 USD (Nhường & Hà, 2005). Sự thành công của người nuôi tôm ở
các nước châu Á và Nam Mỹ, đã khẳng định sự tiến bộ của nghề nuôi thủy sản
thế giới. Tôm sú là loại tôm được nuôi nhiều ở Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Việt
Nam, Philippinse chiếm khoảng 52% sản lượng toàn cầu. Ở Trung Quốc nuôi tôm
thẻ (Penaeus chinesis), tôm thẻ chân trắng (Litopeneaeus vanamei) là loài nuôi
chủ yếu ở Ecuador và các nước Mỹ La Tinh chiếm khoảng 18% sản lượng tôm
nuôi (FAO, 2003).
Theo báo cáo của Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) công bố tại một
cuộc họp liên chính phủ vào ngày 2/6, năm 2006, giá trị xuất khẩu thuỷ sản thế
giới tăng 9,5% so với 2005, đạt 86 tỉ USD. Năm 2007, giá trị xuất khẩu thuỷ sản
thế giới đạt 92 tỉ USD, tăng 7 % so với năm 2006. Tài liệu trên được phát cho 60
nước tham gia cuộc họp lần thứ 11 của Tiểu ban Thương mại thủy sản của FAO
diễn ra từ ngày 2-6/6. Năm 2007, tổng sản lượng thuỷ sản toàn cầu ước đạt 145
triệu tấn, trong đó thủy sản xuất khẩu chiếm 38% tổng sản lượng. Các nước đang

phát triển chiếm khoảng 50% tổng sản lượng xuất khẩu toàn cầu, còn các nước
phát triển chiếm khoảng 80% tổng sản lượng nhập khẩu về mặt giá trị
(www.việtlinh.com.vn)
Tuy nhiên theo FAO, (2003) sản lượng tôm giảm mạnh do dịch bệnh và thời tiết
không thuận lợi ở nhiều quốc gia như Ecuador, Peru, Mexico, Bangladesh và Ấn
Độ. Sự sụp đổ của nghề nuôi tôm công nghiệp ở Đài Loan do sự ô nhiểm môi
trường làm phát bệnh gây sản lượng giảm 90.000 tấn xuống 20.000 tấn trong năm
1997-1989, sản lượng tôm của Ecuador từ 70.000 tấn vào năm 1988 xuống
40.000 tấn vào năm 1989 mà nguyên nhân chủ yếu là vấn đề môi trương và bộc
phát của bệnh (FAO, 2002). Sản lượng tôm ở Thái Lan giảm từ 60% vào năm
1988. Nguyên nhân gây ra sự giảm sục này là do môi trường bị suy thoái, nước có
12

chất lượng kém và do nạn phá rừng (Macitosh et al., 1992). Diện tích nuôi tôm ở
Việt Nam tăng nhanh chóng trong thời gian qua nhưng năng suất giảm trên một
đơn vị diện tích đất sử dụng (Johson et al., 2000).
Trong thực tế nguồn nước thải trong các trang trại hay ao nuôi đều đổ trực tiếp ra
kênh rạch không qua xử lý là rất phổ biến ở Việt Nam, Philippin, Indonesia,….
Ngoài ra các khu vực nuôi tôm đều tập trung ven biển do đó có sự hạn chế về
công trình thủy lợi ảnh hưởng tới quá trình trao đổi nước dẫn tới ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh bộc phát (FAO, 1998).
Sự thâm canh và tăng diện tích hiện nay trong nuôi tôm ở nước ta là vượt ngoài
tầm kiểm soát của Nhà Nước, sự phát triển cơ sở hạ tầng không đáp ứng kịp, phần
lớn hệ thống kênh rạch là hệ thống thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp trước đây.
Ngoài ra các trang trại tôm thường tập trung và dùng chung nguồn nước cấp từ
sông, kênh, rạch là nơi hòa trộn giữa nước cấp và nước thải nên dịch bệnh thường
xuyên xảy ra và tình hình ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng (Boyd et al., 2001).
2.1.2 Việt Nam
Việt Nam với bờ biển trải dài 3.260 km từ Quảng Ninh đến Cà Mau vòng qua Kiên
Giang nên rất có tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản nước lợ phát triển. Diện tích

nuôi tôm gia tăng nhanh chóng từ 50.000 ha (1985) lên đến 295.000 ha (1998) với
30 tỉnh nuôi tôm sú và tăng lên 449.275 ha (2001). Đến năm 2004 diện tích nuôi
tôm nước lợ cả nước khoảng 600.000 ha, với mô hình nuôi quãng canh cải tiến là
chủ yếu, ngoài ra còn có các mô hình bán thâm canh, thâm canh chiếm diện tích
nhỏ trong đó nuôi thâm canh đạt được năng suất cao khoảng 5 -7 tấn/ ha. Đồng
bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích nuôi lớn nhất cả nước có khoảng
680.000 ha (2005). Sản lượng tôm cùng tăng theo từ 65.282 tấn (1999), tăng lên
103.845 (2000) đến năm 2001 sản lượng tôm nuôi là 162.713 tấn và sản lượng tiếp
tục tăng đến 210.000 tấn (2003) (Nguyễn Văn Hảo, 2004). Kim ngạch xuất khẩu
các mặt hàng thủy sản năm 2005 là 2,65 tỷ USD (Tạp chí khuyến ngư Việt Nam số
45). Năm 2007, xuất khẩu thủy sản của cả nước đã đạt khoảng 925 nghìn tấn trị giá
3,756 tỷ USD, tăng 12,2% về khối lượng và 14% về giá trị so với cùng kỳ năm
ngoái. Tuy nhiên, trị giá xuất khẩu trên khi được bổ sung đầy đủ số liệu luỹ kế của
cả năm, rất có thể đạt đến mức 3,8 tỷ USD. (Báo thương mại, 2008). Việc xuất
khẩu thủy sản được xem là một trong các ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam.
2.1.3 Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu long là vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước và cũng là
một trong các ngành kinh tế mũi nhọn của vùng. Tổng diện tích nuôi tôm của khu
vực ở năm 2003 chiếm 88% diện tích nuôi tôm của cả nước, sản lượng 146.000
13

tấn, chiếm 69.5% sản lượng tôm của cả nước, với hình thức nuôi quãng canh cải
tiến là chủ yếu như tôm rừng tập trung chủ yếu ở Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, tôm
lúa ở Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng, bán thâm canh ở Sóc Trăng, thâm canh ở
Sóc Trăng, Bạc Liêu. Sóc Trăng là tỉnh có nghề nuôi tôm với tốc độ thâm canh hóa
cao, năng suất bình quân cao nhất vùng. Năm 2005, tổng diện tích nuôi tôm của
Sóc Trăng là 43.211 ha, sản lượng 42.817 tấn, trong đó diện tích nuôi thâm canh và
bán thâm canh là 17.481 ha, sản lượng tôm nuôi thâm canh là 13.400 tấn, bán thâm
canh là 17.850 tấn, quãng canh cải tiến là 11.567 tấn (Sở Thủy Sản Sóc Trăng,
2005). Năm 2005, Bạc Liêu có diện tích nuôi tôm là 116.473 ha, trong đó có

10.929 ha nuôi thâm canh và bán thâm canh, sản lượng đạt 63.616 tấn (Sở Thủy
Sản Bạc Liêu, 2005)
Cà Mau là tỉnh có diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước mà
chủ yếu là thủy sản nước lợ. Do Cà Mau có ba mặt giáp biển, hệ thống sông ngòi
chằng chịt, nguồn tài nguyên và nguồn lao động dồi dào nên rất thuận lợi cho thủy
sản phát triển. Diện tích và sản lượng nuôi tôm trong những năm 1981 có 14.000
ha đạt 4.500 tấn, năm 1991 tăng lên 60.000 ha, 28.600 tấn, và năm 2000 có tới
153.373 ha với 35.700 tấn (Sở Thủy Sản Cà Mau, 2005)
Năm 2001 có 217.898 ha; năm 2002 có 239.398 ha; năm 2003 có 245.338 ha; năm
2004 có 248.174 ha. Năm 2008, Cà Mau có diện tích nuôi tôm 249.000 ha, gồm
35.000 ha rừng - tôm, 40.000 ha lúa - tôm, 1.000 ha tôm - vườn, 900 ha tôm công
nghiệp, còn lại là diện tích chuyên tôm dạng sinh thái (Sở Thủy Sản Cà Mau,
2005)
Trước sự phát triển cua con tôm sú nói riêng và thủy sàn nói chung đã dẫn tới ô
nhiễm môi trường và những giải pháp khắc phục đã đựơc đặt ra.
2.2 Những giải pháp và vấn đề môi trường
2.2.1 Giải pháp cơ học (dùng cát để lọc)
Lọc nước bằng cơ học: Được thực hiện thông qua việc cho nước chảy qua một
lớp sàng (sử dụng đá, sỏi, san hô, than hoạt tính ), hoặc qua một miếng bọt biển
mỏng, hoặc chảy qua một miếng vải sồi (hoặc có thể kết hợp tất cả các loại hình
trên) nhằm loại bỏ các mảnh vụn đất cát, chất bẩn ra khỏi nước
(www.nongthon.net).
2.2.2 Giải pháp hóa học (kết tủa, tạo bong trong xử lý nước, phèn nhôm,
ozon,…)
Lọc nước bằng hoá chất: Được thực hiện bằng việc cho nước chảy qua các mẩu
than (carbon) hoặc zô-lit (zeolit = một loại đất khoáng) nhỏ, đây là những loại
14

khoáng sản tự nhiên. Than hoặc zô-lit sẽ loại bỏ các phân tử như ammonia ra khỏi
nước (www.nongthon.net).

Hai loại hình lọc nước trên có ưu điểm là tạo được sự luân chuyển nước khá lớn
trên một đơn vị thời gian (kiểm soát qua việc sử dụng các máy bơm với công suất
khác nhau) nên quá trình làm trong nước nhanh, tạo Oxi tốt song lại có nhược
điểm về độ ồn và khả năng kiểm soát lượng vi chất, chất thải được lọc kém linh
hoạt. Ngoài ra 2 loại hình lọc nước trên còn có tác động khá lớn đến kết cấu của
bể, đến tính thẩm mỹ và chiếm diện tích tương đối lớn.
Vì vậy hiện nay mô hình đang được chú ý tới là lọc sinh học bằng vi sinh vật hữu
ích và thực vật thủy sinh.
2.2.3 Giải pháp sinh học
2.2.3.1 Sử dụng hệ vi sinh vật để phân hủy các chất hữu cơ trong chất thải
Có một số loài vi sinh vật có khả năng sử dụng các chất hữu cơ và một số chất
khoáng làm nguồn dinh dưỡng và tạo năng lượng, sinh trưởng và nhờ vậy sinh
khối của chúng tăng lên. Các vi sinh vật này được sử dụng phân hủy các chất ô
nhiểm hữu cơ và vô cơ có trong chất thải từ nuôi trồng thủy sản. quá trình phân
hủy này được gọi là quá trình phân hủy oxy hóa sinh hóa. Có thể phân phương
pháp này thành hai loại (Lin, 1999).
Phương pháp hiếu khí: là phương pháp sử dụng các nhóm vi sinh vật hiếu khí. Để
đảm bảo hoạt động sống của chúng cần cung cấp oxy liên tục cho chúng và duy
trì ở nhiệt độ khoảng 20-40
0
C.
Phương pháp yếm khí: là phương pháp sử dụng các nhóm vi sinh vật yếm khí.
Trong xử lí nước thải công nghiệp, phương pháp xử lí yếm khí được sử dụng rộng
rãi.
Lọc sinh học: Hệ lọc sinh học bao gồm cột lọc tầng sôi và cột lọc nhỏ giọt với
chất mang khác nhau cho hiệu quả xử lí amon trung bình khác nhau: lô nhựa đạt
47,77%; sỏi nhẹ đạt 75,25%, san hô đạt 70,75%. Kết quả thử nghiệm cho thấy sử
dụng sỏi nhẹ làm vật liệu cố định vi sinh vật trong hệ lọc có triển vọng nhất. Hệ
lọc sinh học với cột lọc tầng sôi và cột lọc nhỏ giọt cải tiến sử dụng sỏi nhẹ đã
thực hiện quá trình nitrat hóa NO

2
, NO
3
cao, đạt hàm lượng NO
2
trong môi trường
nước ở mức 0,1-0,79 mg/L; NO
3
ở mức 0,61-21,2 mg/L (www.nongthon.net)
2.2.3.2 Lọc bằng thực vật thủy sinh
Dùng hệ thực vật trong nước để lọc và giữ lại các vật chất lơ lững (rong, san
hô,lục bình, bần….) (www.nongthon.net).
15

2. 3 BIẾN ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG.
2.3 .1 Nhiệt độ
Trong ao nuôi nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các quá trình sinh tổng
hợp các chất hữu cơ cho sinh vật. Theo Whetstone et al., (2002) tôm có thể sống
tốt ở nhiệt độ 23 – 34ºC , tối ưu là 26 – 29ºCvà nhiệt độ trong ngày không thay
đổi quá 5ºC (Boyd et al.,2003).
2.3.2 pH
Theo Chanratchakool et al., (1995) thì pH của nước rất quan trọng, có ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp đến tôm nuôi và phiêu sinh vật, giá trị pH ở mức thích hợp
cho sự sinh trưởng tối ưu của tôm sú từ 7,5-8,35 và khoảng dao động hàng ngày
không được vượt quá 0,5 đơn vị pH. Theo Phạm Văn Tình, (1994) thì pH trong ao
thường thấp vào buổi sáng và cao vào buổi chiều, pH của nước trong ao nuôi tôm
tốt nhất là 7,5-8,9. Theo Kungvankij et al., (1986); Nguyễn Trọng Nho và ctv.,
(2002) thì giá trị pH từ 7,5-8,5 là thích hợp cho nuôi tôm sú. Theo Chanratchakool
(2003) thì cần khống chế pH dưới 8,3 nhằm đảm bảo sự cân bằng ion của độ kiềm.
pH thích hợp cho nuôi tôm sú dao động từ 7-9 (Whetstone et al., 2002; Boyd et

al., 2002).
Nguồn nước có độ pH từ 7,5-8,5 là điều kiện tối ưu để vi khuẩn nitrate hóa tăng
trưởng. Khi giá trị pH > 8,5 vi khuẩn Nitrobacter có thể bị ức chế nhiều hơn
Nitrosomonas làm cho nitrite được tích lũy (Briggs et al., 1994). Nitrite được
chuyển hóa thành Nitrate nhờ vi khuẩn Nitrobacter (Soon et al., 1999).
Từ những kết quả trên có thể nhận định pH thích hợp nuôi trồng thủy sản nói
chung là từ 6-9 và riêng nuôi tôm sú từ 7,5-8,5 là phù hợp nhất (pH tốt nhất nên
gần bằng 8,0).
2.3.3 TSS
Độ đục biểu thị vật chất lơ lửng trong nước làm hạn chế quá trình quang hợp của
thực vật thủy sinh do cản trở khả năng xuyên ánh sáng vào nước, làm giảm hàm
lượng oxy hòa tan trong nước. Trong ao nuôi tôm nếu độ đục được thể hiện bởi
sinh lượng của phiêu sinh vật thì đây là một yếu tố có lợi, trong khi đó độ đục
được biểu thị bởi vật chất lơ lửng, hạt sét thì sẽ gây bất lợi cho tôm nuôi
(Hargreaves, 1999). Theo Boyd et al., (2002) thì độ đục tốt cho ao nuôi dao động
từ 40-100 ppm nhưng không dao động quá 10%. Trong thực tế ao nuôi thì độ đục
thường tăng dần về cuối vụ, chúng chịu tác động của các yếu tố nội tại như sục khí
(quạt nước) hay do bên ngoài tác động (sóng gió) làm xói lỡ thành ao hay nguồn
nước cấp và thức ăn dư thừa theo thời gian (Hargreaves, 1999).
16

2.4.6 Oxy hòa tan (DO – Dissolved Oxygen)
Oxy hòa tan trong nước lý tưởng cho tôm là trên 5 ppm (Swingle, 1969 được trích
bởi Lê Bảo Ngọc, 2005) và không được vượt 15 ppm (Whetstone et al., 2002).
Theo nghiên cứu của Summerfelt (1996) thì hàm lượng oxy hòa tan vào trong
nước chịu sự chi phối bởi nhiệt độ, nhiệt độ càng tăng thì hàm lượng oxy bão hòa
trong nước càng giảm. Nếu nhiệt độ nước ở 10
o
C thì hàm lượng oxy bão hòa là
11,3 ppm, khi nhiệt độ tăng lên ở 25

o
C thì hàm lượng oxy bào hòa giảm xuống 8,5
ppm. Hàm lượng DO ở mức thích hợp cho sự sinh trưởng tối ưu của tôm sú từ 5-6
ppm (Boyd, 2003).
Nghiên cứu tốc độ tiêu thụ oxy hòa tan cho thấy sự hô hấp của quần thể sinh vật
đáy có thể dễ dàng tiêu thụ từ 2-3 ppm oxy hòa tan trong nước ao trong vòng 24
giờ (Boyd, 1998). Wang et al., (2000) nghiên cứu sự phân phối oxy trong ao cho
thấy có 70% lượng oxy tiêu hao cho các sinh vật đáy, sự oxy hóa các hợp chất hữu
cơ và chỉ có 20% lượng oxy tiêu tốn cho quá trình hô hấp của tôm.
2.3.4 Tiêu hao oxy hóa học (COD – Chemical Oxygen Demand)
Theo TCVN 5943 (1995), nước sử dụng cho nuôi trồng thủy sản phải nhỏ hơn 35
ppm, trên 35 ppm được xem là ô nhiễm và dưới 10 ppm là nghèo dinh dưỡng. Kết
quả thí nghiệm của Briggs và Fung-Smith, (1994) khi nuôi tôm ở mật độ 20
con/m
2
, 30 con/m
2
, 75 con/m
2
thì hàm lượng COD lần lượt là 18,7 ppm, 27,6 ppm
và 39 ppm. Ngoài ra còn cho thấy càng về cuối vụ thì hàm lượng COD trong
nước ao nuôi càng tăng.
2.3.5 Ammonia tổng cộng (TAN - Total Ammonia Nitrogen)
Nồng độ NH
3
được coi là an toàn cho ao nuôi là 0,13 ppm (Chen et al., 1998).
Trong ao nuôi tôm sú thì hàm lượng NH
3
phải nhỏ hơn 0,1 ppm được xem là thích
hợp (Whetstone et al., 2002).

Các hợp chất vô cơ hòa tan quan trọng của nitơ là NH
3
, NH
4
+
, NO
3
-
và NO
2
-
.
Trong đó NH
3
và NO
2
-
độc đối với các loài động vật thủy sinh còn NH
4
+
và NO
3
-

là nguồn dinh dưỡng tốt mà thực vật thủy sinh dễ hấp thu nhất tạo nên các hợp
chất hữu cơ trong thủy vực. Ngoài ra, NH
3
và muối của nó sẽ biến thành dạng đạm
Nitrite (NO
2

-
) và Nitrate (NO
3
-
) nhờ vi khuẩn Nitrite và Nitrate hóa. Tuy nhiên
NH
3
được cung cấp trong các thủy vực từ quá trình phân hủy bình thường các
protein, xác bã động thực vật, sản phẩm bài tiết của động vật hay từ phân bón vô
cơ và hữu cơ, trong đó nguồn NH
3
chủ yếu từ sự bài tiết trực tiếp của động vật
thủy sinh (Chen et al., 1992; 1998).
17

Theo Adhikari, (2003) cho rằng NH
3
trong khoảng 0,02-0,05 ppm là tối ưu cho ao
nuôi thủy sản, trong môi trường nước mặn NH
3
và NO
2
-
ít gây độc cho tôm, việc
xử lý Formalin có thể làm giảm độ độc của NH
3
và việc bón phân là phương pháp
tốt nhất làm giảm độc tính của Nitrite trong ao nuôi (Adhikari, 2003; Limsuwan et
al., 1997).
2.3.6 Nitrite (NO

2
-
)
Nitrate là một trong những dạng đạm được thực vật hấp thu dễ nhất, hàm lượng
NO
-
3
trong nước biển thường dao động từ 0,2 - 0,4 ppm, nồng độ thích hợp cho các
ao nuôi cá là từ 2 - 3 ppm (Nguyễn Văn Bé, 1996 được trích bởi Lê Bảo Ngọc,
2004).
Vi khuẩn tham gia vào quá trình này ở các thủy vực nước ngọt có vi khuẩn
Nitrobacter europara, trong các thủy vực nước lợ và mặn có Nitrospina gracilic và
Nitrosococcus mobilis. Vi khuẩn nitrate hóa phân bố rất ít trong các thủy vực sạch,
nghèo dinh dưỡng. Quá trình nitrate hóa chỉ xảy ra khi có mặt oxy, trong môi
trường yếm khí với sự có mặt của các hydrat carbon sẽ xảy ra quá trình phản
nitrate hóa, quá trình này khử nitrate qua nitrite thành NO, N
2
O, NH
2
OH, NH
3

N
2
. Vi khuẩn tham gia quá trình này bao gồm các loài kỵ khí không bắt buộc như
Bacillus, Pseudomonas (Soon et al., 1999).
Trong điều kiện hiếu khí, chúng oxy hóa các hợp chất hữu cơ bằng oxy hòa tan
trong nước, còn trong điều kiện kỵ khí chúng oxy hóa các hợp chất hữu cơ bằng
con đường khử hydro để chuyển hydro cho nitrate và nitrite. Quá trình này không
có lợi vì nó làm mất nitơ trong thủy vực và tạo thành các chất độc hại cho thủy

sinh vật như NH
3
, NO
2
-
(Pekar, 2002).
Theo Jackson và Preston, (2003) nghiên cứu sự tích tụ và thải ra ngoài của hợp
chất Nitrogen trong ao nuôi tôm sú thâm canh cho thấy có 14% N đầu vào được
giữ lại trong bùn đáy ao và có tới 57% đạm đưa vào môi trường, 3% có thể thất
thoát do bay hơi ở mùa nắng. Trong mùa mưa đạm trong vật chất hữu cơ hòa tan
(Dissolved Organic N = DON) chiếm 37- 43% và tổng ammonia (TAN) chiếm 12-
21%.
Theo Boyd, (1998) thì Nitrate thích hợp cho ao nuôi từ 0,2-10 ppm và theo tiêu
chuẩn Việt Nam 5942-1995 cho nước bề mặt là 10 ppm.
2. 3.7 TN (Total Nitrogen)
Hàm lượng N bài tiết ra tích lũy trong chất cặn lắng tăng theo mật độ tôm nuôi,
nguồn đạm trong ao có đến 90% từ thức ăn đưa vào ao qua quá trình cho tôm ăn.
18

Đạm trong tôm tích lũy được là 22% tổng đạm đầu vào (Jackson & Preston, 2003)
và 38,4% hàm lượng N cung cấp vào ao nuôi tôm là từ nguồn nước lấy vào,
nguồn bốc hơi vào không khí và quá trình nitrate hóa chiếm từ 9,7-32,4% trên tổng
số (Martin et al., 1998).
Teichert-Coddington et al., (2000) nghiên cứu dinh dưỡng trong ao nuôi tôm
bán thâm canh cho thấy sự tăng thêm đạm trong ao nuôi tôm chủ yếu từ
nguồn nước lấy vào chiếm 63% và thức ăn chiếm 36%, lượng đạm mất đi từ
sự trao đổi nước là 72% và thu hoạch tôm là 14%. Sản xuất được một
kilogram tôm thì có đến 16,8 g đạm bị mất đi bởi sự trao đổi nước. Theo
Wahab et al., (2003) nghiên cứu sự thay nước cho thấy có khả năng làm giảm
70% N hòa tan trong nước ao nuôi tôm sú thâm canh.

2.3.8 PO
4
3-
và TP (Total Phosphorus)
Lân là một yếu tố dinh dưỡng rất cần thiết cho thủy sinh vật, quá trình tổng hợp
protein chỉ tiến hành được khi có sự tham gia của H
3
PO
4
và sự thiếu hụt nó trong
thủy vực còn hạn chế quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ bởi vi sinh vật
(Limsuwan et al., 1997).
Trong môi trường tự nhiên lân tồn tại dưới các dạng muối orthophosphate hòa tan
như: H
2
PO
4
-
, HPO
4
2-
và PO
4
3-
hay dưới dạng phosphate ngưng tụ (Pyrophosphate,
P
2
O
7
4-

Metaphosphate và polyphosphate). Dạng phosphate ngưng tụ dễ bị thủy
phân thành Orthophosphate hòa tan, dạng lân hữu cơ hòa tan dễ dàng chuyển hóa
lẫn nhau và chuyển thành dạng muối orthophosphate hòa tan nhờ hoạt động của vi
sinh vật (Preedalumpabutt et al.,1989).
2.3.9 Chất độc từ đáy ao (H
2
S và NH
3
)
Như đã đề cập trên, đất ao và các chất lắng tụ sinh ra hai sản phẩm chính có tính
độc cao đối với tôm nuôi là NH
3
và H
2
S. Khi NH
3
sinh ra từ sự bài tiết của tôm và
sự phân hủy chất đạm chứa trong các chất hữu cơ ở điều kiện hiếu khí và yếm
khí. Khí H
2
S do vi khuẩn sinh ra trong điều kiện yếm khí từ các chất lắng tụ có
hàm lượng chất hữu cơ cao. Những lớp đất yếm khí với hàm lượng chất hữu cơ
cao thường có màu đen đặc thù do có sự hiện diện của các hợp chất sắt khử. Nếu
H
2
S hiện diện trong ao nuôi với hàm lượng cao, ta thể nhận ra bằng đặc điểm có
mùi trứng thối đặc trưng của chúng. Tuy nhiên, khi nồng độ H
2
S cao đủ để phát
hiện bằng mùi thối thì có lẻ chúng đã vượt quá mức gây hại cho tôm. Mặc dù tất

cả các ao nuôi có khuynh hướng sinh ra NH
3
nhất là khi kết thúc vụ nuôi thứ ba
nhưng không phải tất cả các ao các ao sinh đều H
2
S. Khí H
2
S thường sinh ra
nhiều nhất trong những ao nuôi được xây trên đất rừng ngập mặn hay những ao ít
được dọn tẩy. tính độc của NH
3
và H
2
S tùy vào nồng độ của chúng, pH và các
19

thông số khác. NH
3
sẽ trở nên độc hơn khi pH cao còn H
2
S độc hơn khi pH thấp
(Trương Quốc Phú, 2006).
Một phương pháp làm giảm đến mức tối thiểu tác động của chất lăng tụ trong ao
là làm cho chúng gom lại giữa ao. Chúng ta có thể thực hiện điều này bằng cách
kết hợp với việc thiết kế hình dạng ao nuôi và vị trí đặt máy sục khí. Tập trung
được các chất thải sẽ làm giảm được diện tích bề mặt mà chất thải chiếm trong ao.
Việc này có hai điểm lợi: thứ nhất là tập trung các hợp chất hữu cơ để hạn chế tối
đa sự phân hủy của khuẩn yếm khí và kết quả làm giảm lượng NH
3
, sinh ra trên

bề mặt các chất thải, thứ hai là làm giảm diện tích bề mặt của chất thải thì cũng
hạn chế được sự khuếch tán NH
3
và H
2
S từ các lớp đất yếm khí. Xáo trộn chất
thải lắng tụ có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng trong môi trường ao nuôi. Sự xáo
trộn này sẽ phóng thích các chất độc tích tụ trong chất vẩn và phân hủy một lượng
lớn chất hữu cơ, kết quả NH
3
được sinh ra (Trương Quốc Phú, 2006).
2.4. BIẾN ĐỘNG CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG ĐẤT
2.4.1. Đặc tính môi trường đất trong ao nuôi tôm
Vật chất hữu cơ có khuynh hướng tích lũy tăng dần theo thời gian trong đất ở đáy
ao (Boyd, 1995), sự phân hủy vật chất hữu cơ diễn tiến nhanh ở giá trị pH từ 7 đến
8. Do vậy, trong những ao nuôi có tính acid, nếu không dùng vôi để khoáng hóa thì
vật chất hữu cơ khó được phân hủy (Boyd, 1995).
2.4.2. Đặc tính lớp bùn đáy trong ao tôm
Lớp nước giữa bùn đáy và nước ao nuôi là chất lắng từ nhiều nguồn khác nhau có
khả năng tiềm tàng gây độc cho các loài thủy sản (Briggs et al., 1994).
Sự tương tác giữa đất bùn đáy ao và nước ao rất quan trọng ảnh hưởng đến tính
chất sinh hóa học của N (Hargreaves, 1998).
Một hecta ao nuôi tôm thâm canh ở Thái Lan phóng thích mỗi ngày khoảng 46 kg
chất hữu cơ, hầu hết chúng tồn tại trong ao dạng chất bồi lắng ở đáy ao (Briggs et
al.,1994), nhưng hàng ngày có khoảng 1,2 kg N/ha và 0,1 kg P/ha ao nuôi thải vào
môi trường ven biển (Midlen & Redding, 1998).
Theo nghiên cứu về chất thải của ao nuôi tôm sú thâm canh ở Thái Lan cho thấy
lượng bùn sau một vụ nuôi ước lượng khoảng 90 m
3
/ha với độ ẩm là 73,8%, độ

khô là 26,2%, mỗi hecta tôm nuôi thải ra khoảng 99 tấn bùn ướt và khoảng 26 tấn
bùn khô (Latt, 2002).
Macintosh, (2002) cho rằng chất bồi lắng ở vùng triều của rừng ngập mặn có đặc
tính lý, hóa tương tự như chất bồi lắng ở khu vực bờ ao nuôi tôm, điều này cho
20

thấy đất đáy ao tôm đã tích trữ một lượng lớn chất hữu cơ tương đương với chất
hữu cơ mà đất rừng đã nhận được trong nhiều năm.
Ngoài các chất thải hữu cơ từ ao nuôi tôm gây ô nhiễm môi trường, thì việc xói
mòn đất ao cũng là nhân tố quan trọng. Ở Thái Lan đã có quy định cấm các hoạt
động thải trực tiếp bùn sên vét ao vào môi trường nước công cộng, nhưng vẫn xảy
ra hàng ngày, đặc biệt hoạt động này thường diễn ra khi thu hoạch tôm, giai đoạn
làm sạch ao để chuẩn bị cho vụ mới (Dierberg & Kiattisimkul, 1996).
Sự giải phóng chất dinh dưỡng vô cơ hòa tan (đạm và lân) từ ao nuôi tôm thâm
canh có khả năng gây nên sự phú dưỡng (tăng năng suất sơ cấp) trong nước, nước
được cung cấp trong quá trình nuôi như thức ăn, vitamin, thuốc kháng sinh có thể
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng hoặc gây độc cho các loài thực vật phù du (Gowen
& Rosenthal, 1993).
Khi mô hình thâm canh và bán thâm canh phát triển trên diện rộng thì một lượng
lớn chất thải từ thức ăn dư thừa, các loại phân bón, hóa chất xử lý nước và chất
thải của tôm được thải ra môi trường nước làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước
và giảm đi tính ổn định trong nuôi tôm (Boyd, 1990). Nồng độ của các chất dinh
dưỡng, vật chất hữu cơ, ammonia và chất rắn lơ lửng gia tăng ứng với mức độ tăng
sản lượng của tôm nuôi. Vì vậy, nuôi trồng thủy sản quy mô thâm canh có khả
năng gây ô nhiễm cao hơn nhiều so với quảng canh và bán thâm canh (Whetston et
al., 2002). Mức độ thâm canh hóa của mô hình nuôi chuyên tôm càng cao sẽ rủi ro
càng cao, làm giảm năng suất do bùng phát dịch bệnh bởi chất lượng nước
(Burford et al., 2002).
Trong ao nuôi tôm thâm canh có lượng thức ăn dư thừa và vật chất hữu cơ chôn
vùi nhiều vào trong đất, tạo điều kiện yếm khí cho vi khuẩn phát triển và gây độc

cho nguồn nước ao nuôi (Peterson et al., 1999). Nguồn nước thải trong nuôi tôm
chứa các chất phospho, ammonia, nitrate và chất hữu cơ với hàm lượng cao (Tilley
et al., 2002). Việc sử dụng quá đáng nguồn tài nguyên, đưa đến sử dụng thức ăn
không hiệu quả và phóng thích các dưỡng chất, chất rắn lơ lửng vào nguồn nước
(Macintosh, 2002)
Năng suất tôm nuôi đã suy giảm nghiêm trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới,
nguyên nhân cơ bản là môi trường diễn biến ngày càng xấu ở nhiều quốc gia
(Funge-Smith & Briggs, 1998). Một trong những vấn đề chủ yếu đối với chất thải
của ao nuôi tôm là chất thải của hộ này có thể là nguồn nước cấp của hộ khác ở
gần đó, sẽ gây lan truyền ô nhiễm nước và dịch bệnh giữa các nông hộ nuôi tôm
(Boyd, 1998).
21

Thakur et al., (2003) nghiên cứu về dinh dưỡng ao nuôi tôm sú thâm canh cho thấy
hàm lượng đạm lân mà tôm hấp thụ vào cơ thể chỉ chiếm 23-31% và 10-13%
tương ứng. Lượng nitrogen và phostphorus cho vào ao từ thức ăn chiếm 76-92% N
và 70-91% P tổng lượng đầu vào. Lượng tích lũy ở bùn đáy ao là 14-53% N và 39-
67%P đầu vào. Hàm lượng đạm lân trong nước khi thu hoạch chứa 14-28% N và
12-29%P tổng lượng đầu vào.
Theo Yusoff et al., (2003) (trích dẫn bởi Đặng Thị Hòang Oanh, Nguyễn Thanh
Phương, 2006) cho rằng ranh giới giữa lớp bùn đáy trên và lớp đất đáy ao là nơi vi
sinh vật hoạt động mạnh nhất bởi chính nơi đây tập trung nhiều vật chất hữu cơ,
trong điều kiện kị khí các chất hòa tan như Nitrite, Ammonia, Phosphorus và
Hydrogen sulphide được phóng thích trở lại tầng nước từ lớp bùn đáy. Ngoài ra
nền đáy là nơi cư trú cho phần lớn các vi khuẩn nhất là các vi khuẩn gây bệnh
(Burford et al., 1998).
Kết thúc vụ nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh mật độ vi khuẩn trung bình
trong nước (1,8-4,5 x 10
3
CFU/mL) và trong lớp bùn đáy (1,85 x 10

5
- 6,18 x 10
6

CFU/g) đặc biệt một số mẫu bùn đáy có số lượng vi khuẩn gram âm chiếm hơn
50% và phần lớn là những vi khuẩn gây bệnh (Sharmila et al., 1996). Theo
Burford et al., (1998) nghiên cứu về vi khuẩn trong bùn đáy ao nuôi cho thấy mật
độ vi khuẩn rất cao (15,5 x 10
9
CFU/g) và tập cao nhất ở giữa ao. Trong ao nuôi từ
tháng thứ 3 trở đi hàm lượng dinh dưỡng tăng lên, đồng thời hàm lượng oxy trong
ao giảm thấp là cơ hội cho các vi khuẩn gia tăng về mật độ để tham gia vào các
quá trình phân hủy yếm khí sinh ra nhiều khí gây độc cho tôm nuôi như NH
3
, H
2
S,
CH
4
(Tookwinas, 1995). Tất cả các yếu tố trên ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh
trưởng của tôm nuôi đồng thời làm cho ao nuôi tự thoái hóa nội tại và khi thải ra
ngoài môi trường nhất là vùng cửa sông làm cho vùng cửa sông bị ô nhiễm, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả vùng nuôi (Green & Boyd, 1996).
Hơn một thập kỷ qua, có rất ít nghiên cứu nhằm cải thiện việc sử dụng hiệu quả
nguồn đạm cho trại nuôi tôm thâm canh. Vì vậy thách thức chủ yếu mà ngành công
nghiệp nuôi tôm phải đối mặt là thực hiện cải tiến cả hai vấn đề về môi trường
bằng việc phát triển kỹ thuật, phương tiện, phương pháp tổng hợp nhằm làm giảm
thiểu lượng đạm dư thừa vào môi trường ao nuôi (Jackson et al., 2003).
Theo Boyd, (1995) nghiên cứu khả năng sử dụng NaNO
3

để cải thiện môi trường
ao nuôi thủy sản. Kết cho thấy NaNO
3
để ngăn cản điện thế oxy hóa khử ở lớp
ngăn cách giữa đất với nước, làm giảm bớt hàm lượng lân trong ao

22

Chương 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3. 1 THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
3.1.1 Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 01 năm 2009 đến tháng 05 năm 2009
3.1.2 Địa điểm nghiên cứu
Tại Trại Cua và Phòng phân tích thủy hóa –Bộ môn thủy sinh học ứng dụng
khoa thủy sản –Trường Đại Học Cần Thơ
3. 2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Vật liệu và phương pháp bố trí thí nghiệm
3.2.1.1 Dụng cụ và trang thiết bị:
Chuẩn bị 12 bể composite có thể tích 500L
Máy đo độ mặn
Máy đo pH
Nhiệt kế
Máy sục khí
Hóa chất cố định mẫu.
Hóa chất phân tích mẫu.
Môi trường nuôi cấy vi khuẩn.
3.2.1.2 Chuẩn bị bùn
Nguồn gốc bùn: Ao nuôi tôm tại Huyện Vĩnh Châu –Tỉnh Sóc Trăng
Lượng bùn cho vào mỗi bể 5-6 cm tính từ đáy bể

Xử lý bùn bằng cách cho vào túi nhựa chịu nhiệt, cột chặt bằng dây chịu nhiệt và
hấp tiết trùng 121
0
C trong 30 phút
3.2.1.3 Chuẩn bị nước
Nguồn nước được lấy từ biển Bạc Liêu
Xử lý bằng chlorine ở nồng độ 30 ppm, tiệt trùng bằng ozon khoảng 7-8 giờ
Thể tích nước được bố trí vào mỗi bể 450 L
Độ mặn 16‰
3.2.1.4 Bố trí tôm vào mỗi bể
Nguồn tôm lấy từ trại giống tại thành phố Cần Thơ
Cở tôm giống khoảng post 15
Xử lý tôm trước khi cho vào bề bằng cách ngâm formol nồng độ 30 ppm khoảng
15-30 phút.
Mỗi bể bố trí 24 con.
23

Mỗi bể bố trí 3 viên đá bọt dùng để sục khí
Sục khí liên tục trong suốt quá trình thí nghiệm
3. 3 Phương pháp nuôi tăng sinh vi khuẩn
Chọn 3 dòng vi khuẩn Bacillus đã được phân lập từ bùn đáy ao nuôi tôm sú
thâm canh tại Ấp Tân Tĩnh –Xã Vĩnh Hiệp –Huyện Vĩnh Châu –Tỉnh Sóc Trăng
vào tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2008 (Lê Mỹ Phương, 2008)
Môi trường nuôi tăng sinh là môi trường LB (Luria_Bertani)
Mỗi dòng vi khuẩn Bacillus được nuôi cấy trong đĩa petri trong 24 giờ sau đó thu
sinh khối bằng cho vào ống fancon ly tâm, sau đó nuôi tăng sinh trong môi trường
LB và lắc đều bằng máy lắc, ở 30
o
C trong vòng 24 - 48 giờ.
Bố trí thí nghiệm với bốn nghiệm thức:

Nghiệm thức 1: Nghiệm thức đối chứng, 3 lần lặp lại.
Nghiệm thức 2: Vi khuẩn Bacillus_ 9 (B_9), 3 lần lặp lại.
Nghiệm thức 3: Vi khuẩn Bacillus _41 (B_41), 3 lần lặp lại.
Nghiệm thức 4: Vi khuẩn Bacillus _67 (B_67), 3 lần lặp lại.
Mật độ vi khuẩn cho vào mỗi bể là 10
6
CFU/mL
3.4 Nhịp độ bổ sung vi khuẩn.
Nghiệm thức 1: Nghiệm thức đối chứng không bổ sung vi khuẩn.
Nghiệm thức 2: Vi khuẩn Bacillus_ 9, 7 ngày/lần
Nghiệm thức 3: Vi khuẩn Bacillus _41, 5 ngày/lần
Nghiệm thức 4: Vi khuẩn Bacillus _67, 5 ngày/lần
3. 4 Cách cho ăn và quản lý tôm nuôi thí nghiệm
Dùng thức ăn công nghiệp.
Cho tôm ăn 5 lần trên ngày: 06 giờ, 10 giờ, 14 giờ, 18 giờ, 22 giờ.
Thường xuyên bổ sung vitamin C vào thức ăn.
Theo dõi các chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa.
DO và pH ngày 2 lần đo vào lúc 6.00 giờ và 15.00 giờ.
Độ mặn đo mỗi tuần một lần.
Độ trong được đo vào lúc 15.00 giờ hằng ngày.
Chạy máy sục khí liên tục trong suốt quá trình thí nghiệm.
24


3. 5 Phương pháp thu và phân tích các chỉ tiêu
Bảng 3.1 Phương pháp thu và phân tích các chỉ tiêu
Chỉ tiêu Chu kỳ
theo dõi
Giờ thu mẫu Phương pháp phân tích
Môi trường nước

1. Nhiệt độ 3 ngày/lần Sáng – Chiều Máy đo
2. pH 3 ngày/lần Sáng – Chiều Máy đo
3. H
2
S 2 lần/tháng 7-8 h sáng So màu
4. TSS 2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng Lọc, sấy 105
o
C
5. Oxy (DO) 3 ngày/lần 7 – 8 giờ sáng Winkler
6. COD 2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng Oxi hóa KMnO
4
trong mt kiềm
7.
TAN

3 ngày/l
ần

7

8 gi
ờ sáng

Indo
-
phenol Blue

8. NO
2
-

3ngày/ lần 7 – 8 giờ sáng Diazonium
9. NO
3
-
3 ngày/ lần 7 – 8 giờ sáng Salicylate
10. PO
4
3-
2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng SnCl
2

11. TN 2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng Kjeldalh
12. TP 2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng Kjeldalh
Mẫu đất
13. TN 2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng Kjeldalh
14. TP 2 lần/tháng 7 – 8 giờ sáng Kjeldalh
*mt: Môi trường
Tất cả các chỉ tiêu chất lượng nước phân tích theo phương pháp Griess llosvay
(Andrew, 1995) đang được áp dụng tai phòng phân tích thủy hóa. Bộ môn thủy sinh
học ứng dụng, Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ.
3.6 Xử lý số liệu
Số liệu phân tích bởi phần mềm Microsoft Exel. Phân tích phần mềm thống kê
SPSS.
25

Chương 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG
4.1.1 Nhiệt độ:
Nhìn chung nhiệt độ trong bốn nghiệm thức không có sự biến động

(29,17±0,06
o
C) phù hợp cho sự phát triển của tôm. Nhiệt độ giữa các nghiệm thức
không biến động là do các nghiệm thức được bố trí cùng một khu vực nên cùng
chịu sự chi phối của nhiệt độ từ môi trường bên ngoài vào là như nhau. Theo
Whetstone et al., (2002) tôm sú có thể sống và sinh trưởng tốt ở nhiệt độ từ 23-
34
o
C và theo Boyd et al., (2002) chênh lệch nhiệt độ ngày đêm không quá 5
o
C
trong ngày được xem là tối ưu cho tôm nuôi. Như vậy nhiệt độ trong thí nghiệm
này là phù hợp cho sự phát triển của tôm.
28.7
28.8
28.9
29
29.1
29.2
29.3
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Số lần đo
Nhiệt độ (ºC)
B_9
B_41
B_67
DC

Hình 4.1 Biến động nhiệt độ trong suốt quá trình thí nghiệm
4.1.2 pH

Theo Chanratchakool et al., (1995) dịch bởi Nguyễn Anh Tuấn và ctv., (2003) thì
giá trị pH thích hợp cho tôm phát triển là 7,8 – 8,2. Theo Kungvankij et al.,
(1986); Nguyễn Trọng Nho và ctv., (2002) thì giá trị pH từ 7,5-8,5 là thích hợp cho
nuôi tôm sú. Qua (Hình 4.2) pH trong 4 nghiệm thức dao động từ (7,77 – 7,80) phù
hợp cho sự phát triển của tôm. Kết quả nghiên cứu này là phù hợp với nghiên cứu
của Boyd (1990) thì khoảng pH tối ưu cho tôm cá phát triển và sinh sản là từ 6,5 –
9,0.

×