Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nghiên cứu ứng dụng hoàn chỉnh quy trình sinh sản nhân tạo và sản xuất giống cá tra nghệ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.79 KB, 4 trang )

Nghiên cứu ứng dụng hoàn chỉnh quy
trình sinh sản nhân tạo và sản xuất giống
cá tra nghệ

Đó là đề tài của Trường đại học An Giang chủ trì và do thạc sĩ Vương Học Vinh
làm chủ nhiệm, triển khai từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 4 năm 2013. Kết quả đạt
các thông số kỹ thuật: Hệ số thành thục cá cái 6 – 8%, tỉ lệ sống đối với cá 30 ngày
tuổi đạt 30%, tỉ lệ cá cái tham gia sinh sản 90%, tỉ lệ sống cá giống đạt 20%, tỉ lệ
thụ tinh đạt 70%, kích cỡ cá giống 6 – 8cm, tỉ
lệ nở 70%.



Cá tra nghệ sinh sản nhân tạo.

Hoàn chỉnh quy trình sinh sản nhân tạo và sản xuất giống cá tra nghệ, nghiên cứu
thành công thụ tinh và phát triển phôi của cá tra nghệ trong nước có độ mặn 3 và
5‰, là kết quả có tính đột phá trong nghiên cứu, góp phần bổ sung một số dẫn liệu
ban đầu có ý nghĩa trong sinh học sinh sản không chỉ cho cá tra nghệ, mà còn đối
với nhiều loài cá khác. Song song đó, còn đào tạo được 8 sinh viên đại học (bả
o vệ
luận văn tốt nghiệp năm 2011 và 2012); nghiên cứu ứng dụng kết quả của thí
nghiệm ấp trứng cá trong nước có độ mặn 3 và 5‰ trên các loài cá nước ngọt khác
và sử dụng muối hột là nguyên liệu pha thành nước có độ mặn thay cho nước ót để
ương cá tra nghệ.


Kiểm tra cá giống ương.

Có 3 đặc điểm bên ngoài có thể phân biệt với cá da trơn khác là trên hai nắp mang
của cá có hình rẻ quạt, vi lưng cá có tia vi cứng luôn dựng thẳng đứng khi cá bơi


và gai cứng trên vi ngực với các tia gai nhỏ rất bén hướng t
ừ ngoài vào trong gốc
vi ngực. Thích nghi tốt ở tầng giữa và tầng đáy, con nhỏ có tính ăn tạp thiên về
động vật và khi trưởng thành cá thay đổi tập tính dinh dưỡng từ ăn tạp thiên về
động vật sang ăn tạp thiên về thực vật. Quy trình sinh sản nhân tạo và sản xuất
giống cá tra nghệ: Hệ số thành thục cá tra nghệ cái (10,59% ± 2,18) tương đương
với hệ số thành thục của cá tra sinh sản ở An Giang.

Kỹ thuật cho sinh sản của cá tra nghệ giống như quy trình sinh sản nhân tạo cá tra
nhưng vì kích thước đường kính (size) trứng sinh sản của cá tra nghệ lớn hơn cá tra
nên có những khác biệt, như: Thời gian chích dẫn dài hơn từ 1 – 2 ngày và đặc biệt
lưu ý trước khi chích liều sơ bộ phải có bước kiểm tra lại tình trạng của trứng cá và
chỉ khi trứng cá đã chín hoàn toàn mới chích liều sơ bộ. Thời gian hiệ
u ứng của
thuốc sau khi chích liều quyết định dao động (7,2 giờ ± 1,04), thời gian cá nở từ 24
-29 giờ tương đương với cá tra. Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở trong nghiên cứu là (76,99
% ± 13,60) và (75,45 % ± 10,68). Có thể sử dụng một loại kích tố là HCG trong
quy trình sinh sản cá. Sử dụng Ovaprim trong thí nghiệm cho sinh sản cá tra nghệ
chưa cho kết quả khả quan.

Ương cá bột từ 1 – 15 ngày tuổi: Sử dụng moina làm thức ăn cho cá bột là t
ốt nhất,
cho tỉ lệ sống cao (95,5 % ±2,00). Mật độ ương 400 con/bể 0,5m3 cho kết quả tốt
nhất. Ương cá hương từ 16 – 30 ngày tuổi: Tỉ lệ sống đạt từ 93% – 100%, tốc độ
tăng trưởng về khối lượng từ 0,0821 – 0,1113 g/ngày, tăng trưởng về chiều dài từ
0,1562 – 0,2003 cm/ngày tương đương với tốc độ tăng trưởng của cá tra. Khác với
quy trình của cá tra ương trực tiếp trong ao
đất, ương cá tra nghệ cần có hai giai
đoạn: Giai đoạn 1 (ương từ cá bột lên cá hương trong bể composite, bể lót bạt hoặc
ương trong giai lưới đặt trong ao) và giai đoạn 2 (từ cá hương lên cá giống ương

trong ao).

Trứng cá tra nghệ có khả năng thụ tinh và phát triển phôi trong nước có độ mặn 3
và 5‰. Kết quả có tính đột phá trong nghiên cứu, bổ sung một số dẫn liệu ban đầu
có ý nghĩa trong sinh học sinh sản không chỉ cho cá tra ngh
ệ mà còn cho nhiều loài
cá khác. Đây còn là một gợi ý ứng dụng trong thực tiễn sản xuất giống để làm giảm
sự phát triển nấm thủy mi trong khâu ấp trứng. Ở giai đoạn cá bột và hương cá tra
nghệ có thể sống, phát triển ở các nồng độ muối: 0 ‰, 3 ‰, 6 ‰, 9 ‰ và 12 ‰
Trong đó, ở môi trường nước ương có nồng độ muối 6‰ cho tỉ lệ sống và tăng
trưởng cao. Giai đoạn cá t
ừ 30 đến 60 ngày tuổi cá tra nghệ có thể thích nghi đến
độ mặn 27 ‰. Ở giai đoạn 90 – 135 ngày tuổi cá tra nghệ có khả năng sống, thích
nghi với sự thay đổi tăng và giảm độ mặn trong các môi trường 0 ‰, đến 27 ‰.
Với khả năng thích nghi biến động tăng và giảm về độ mặn từ 0 ‰ đến 27 ‰ cho
thấy, cá tra nghệ là loài cá di cư. Có thể sử dụng muối hột pha thành nước có độ
mặn thay cho nướ
c ót để ương cá tra nghệ.

Đề tài đã tổ chức thành công lớp tập huấn chuyển giao quy trình sản xuất giống và
ương cá tra nghệ cho 35 học viên (25 ngư dân, cơ sở sản xuất giống thủy sản và 10
kỹ thuật viên trong tỉnh). Cá tra nghệ giống chuyển giao cho ngư dân nuôi đang
phát triển tốt. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc phát triển con giống nuôi mới
thích hợp ở các vùng nuôi ngọt, lợ và góp phần bảo tồn nguồn lợi, đa dạng sinh
học thủy sản.

×