Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Lãi suất và đặc điểm của lãi suất pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.03 KB, 23 trang )

1







Lãi suất và đặc điểm của lãi suất
































2
1. Lãi suất và đặc điểm của lãi suất
Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một
phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này
so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate). Lãi suất phải
được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngày
mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử
dụng tiền cho người khác có nghĩa là anh ta đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ
ngày hôm nay của mình với hi vọng có được lượng tiền lớn hơn ngày mai. Sẽ
không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm đó hoặc là nó
không đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.
Có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Theo Quy định phương pháp tính và
hoạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín
dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì Lãi được hiểu là khoản tiền bên vay,
huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc
bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi
được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất
([1])
.
Cũng có định nghĩa cho rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay

trong một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu
vốn
([2])
.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ của
tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất
định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở
hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Từ những cơ sở trên, tác giả xin được đưa ra định nghĩa về lãi suất như sau: lãi
suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số
tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần,
3
tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào
lãi suất số tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Số
tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay tiền
sẽ không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượt
quá “150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối với
loại cho vay tương ứng”
(
[4]
)
. Như vậy, nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấp
hai, ba hoặc nhiều lần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khi tranh
chấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án chấp nhận không vượt quá “150%
mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
Đặc điểm của lãi suất
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần
của cả bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
· Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Qua

nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho
thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất
chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên
vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ
xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp
đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính lãi còn dựa trên nhiều yếu
tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong hợp đồng vay thì cơ sở
để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy
định.
· Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do
thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi
suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền
4
vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như
không tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.
· Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay):
Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó,
tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có
thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất
Có thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi quan hệ
pháp luật cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài vòng kiểm
soát của pháp luật. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi các văn bản pháp luật của
nước ta còn thiếu cụ thể, tính khả thi không cao, hơn nữa luật nước ta là luật
khung, muốn thi hành được trên thực tế phải có Nghị định hướng dẫn thi hành.
Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay cũng rơi vào tình trạng này. Trong BLDS
2005 chỉ quy định duy nhất một điềuvề lãi suất một cách trực tiếp:
“Điều 476. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định
rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”.
Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quá
khái quát sẽ tạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đi
và lợi dụng nó để kinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lành
mạnh.
Lãi suất cơ bản được quy định trong điều 476 bỗng dưng đã gây tranh cãi xem có
nên sửa đổi hay không. Lãi suất này tự dưng trở thành mốc để suy ra lãi suất
trần. Ví dụ có thời điểm lãi suất cơ bản lãi 12%/năm suy ra lãi suất cho vay tối
5
đa sẽ ở mức 18%/năm. Tức là một điều luật nhằm ngăn chặn hiện tượng cho vay
nặng lãi ngoài xã hội bỗng trở thành yếu tố điều tiết lãi suất của hệ thống ngân
hàng chính thống.
Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên thoả thuận; tuy nhiên, nhằm
ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo cơ sở pháp lý để giải quyết
các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp không có cơ sở xác định rõ mức
lãi đã thỏa thuận, mà pháp luật dân sự quy định phương thức để xác định một
mức lãi suất nào đó được xem là hợp lý và tiêu chuẩn được BLDS năm 1995 lựa
chọn là căn cứ vào cơ chế điều hành trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, tức
mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định từng thời điểm đối với
loại cho vay tương ứng.
BLDS 1995 cũng như BLDS 2005 quy định một điều duy nhất về lãi suất nhưng
so với Bộ luật này, BLDS 2005 có những thay đổi căn bản. Đối với BLDS 1995
thì chỉ quy định “lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá
50% của mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại
cho vay tương ứng”.Thực tế cho thấy khi áp dụng quy định này trong nhiều năm
có nhiều bất cập và không còn phù hợp nữa, thay vào đó là quy định “Lãi suất
vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Quy định

mới này đã dễ hiểu hơn, thực tế hơn và hiệu quả hơn và sau gần bốn năm thực
hiện quy định về lãi suất này, từ ngày 01/01/2006 – ngày BLDS 2005 có hiệu lực
thi hành, chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Tại sao lại có sự thay
đổi đó? Đó là vì cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã có nh÷ng
thay đổi, cơ chế điều hành trần lãi suất được thay thế bằng cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 quy định: “Lãi suất cơ bản là
lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các Tæ chøc tÝn dông
(TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh”
([3])
; “Ngân hàng Nhà nước xác định và công
6
bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”
([4])
. Mặc dù vậy, phải đến 02/8/2000,
Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN (có
hiệu lực từ ngày 5/8/2000) chính thức bắt đầu thực hiện cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản đối với cho vay bằng Đồng Việt Nam thay cho cơ chế điều hành trần lãi
suất cho vay. Hệ quả là: từ thời gian này cho đến trước khi BLDS năm 2005 có
hiệu lực, rõ ràng đã tồn tại một khoảng trống pháp lý khi có sự bất tương đồng
giữa Điều 473 BLDS năm 1995 với Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 và Quyết
định số 241/2000/QĐ-NHNN1 về tiêu chí so sánh (lãi suất trần và lãi suất cơ
bản), Toà án không có cơ sở để dẫn chiếu khi giải quyết các tranh chấp về lãi
suất phát sinh trong thời gian ấy. Thay thế cho BLDS năm 1995 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2006, về nội dung này, BLDS năm 2005 quy định: “Lãi suất vay do
các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”
([5])
. Đây là sự pháp điển
hoá Luật Ngân hàng Nhà nước, Quyết định sè 241/2000/QĐ-NHNN1 vào trong
BLDS mới một cách hợp lý và tất yếu.

Như vậy, nếu như cơ sở tồn tại của tiêu chí so sánh đã được BLDS năm 2005
giải quyết hợp lý, thì trong lời văn của điều luật lại phát sinh một vấn đề khác, đó
là sự khác nhau về mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép (bị khống chế) giữa
2 quy định tương ứng trong hai Bộ luật dân sự. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là cần
thống nhất cách hiểu và cách tính toán mức lãi suất cho vay tối đa này của BLDS
năm 2005 như thế nào để không phạm luật? Hay nói cách khác, với quy định
trên ta cần quan niệm giá trị 150% là của phần vượt quá so với lãi suất cơ bản
hay là tỷ lệ so sánh thuần tuý giữa chúng với nhau – lãi suất thoả thuận với lãi
suất cơ bản?
Theo LuËt s Trương Thanh Đức
([6])
, «ng đã mặc nhiên xác định theo cách: so
sánh tỷ lệ thuần tuý giữa mức lãi suất thoả thuận với lãi suất cơ bản trong giới
hạn luật định là 150% (mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép = lãi suất cơ
7
bn x 150%), vớ d: nu lói sut c bn l 1% thỡ lói sut cho vay ti a khụng
vt quỏ 150% l mc 1,5% (= 1% x 150%).
Vi cỏch th hin li vn iu lut ca BLDS thỡ luụn cú th a n cho ngi
c quan nim ging nh Lut s Trng Thanh c. Nhng t nhng bn
khon có sơ sở, Luật s Đỗ Hồng Thái li có cỏch hiu khỏc v tinh thn cng nh
ni dung ớch thc ca iu lut ny
([7])
:
ã Theo quy nh ca BLDS nm 1995 (Khon 1, iu 473) thỡ mc lói sut tho
thun ti a khụng vt quỏ 50% (ca lói sut trn do NHNN quy nh i vi
loi cho vay tng ng). Trong thc tin ỏp dng phỏp lut sut thi gian qua thỡ
cỏi ngng 50% ny luụn c hiu v vn dng nht quỏn: lói sut tho thun
khụng c vt gii hn nhiu hn gp ri, ngha l phn vt quỏ phi ớt hn
hoc bng 50% (v c xỏc nh theo cụng thc: mc lói sut tho thun ti a
c phộp = lói sut trn + lói sut trn x 50%). Hin nhiờn s l phi lý nu

xem ngng 50% y ch l phõn na (ca lói sut trn do NHNN quy nh) bi
khụng l phỏp lut li buc cỏc tho thun dõn s trong xó hi (bao gm c hot
ng cho vay ca ngõn hng) ch c tho thun mc lói sut vay ti a bng
na mc lói sut trn do NHNN quy nh (= lói sut trn x 50%), thc tin giao
lu dõn s v vic gii quyt cỏc tranh chp dõn s ca To ỏn cng khụng bao
gi din dch theo ý t ny. Cú l ni dung ny, chỳng ta cn mc nhiờn tha
nhn bi s lý gii rừ rng ca chớnh thc tin ỏp dng v thc thi BLDS nm
1995. Tuy nhiờn, dng nh vn cú iu gỡ ú bt n, phi chng thc tin ỏp
dng lut cú th l ỳng vi ý nh lm lut nhng cỏch din t ca iu lut
s 473 li hm cha thiu sút l cha phn ỏnh ỳng tinh thn y?
ã n BLDS nm 2005, ti khon 1, iu 476, ngng ti a c phộp ca lói
sut vay tho thun nờu trờn ó cú s chnh lý thay giỏ tr 50% bng giỏ tr
150% v:
8
- Vi cựng lp lun nh cỏch hiu v tinh thn v thc tin thi hnh BLDS nm
1995 thỡ nờn chng ta cn nht quỏn cỏch xỏc nh ngng ny l tip tc cn c
vo giỏ tr ca phn vt quỏ, nu mc lói sut c bn l 1% thỡ mc lói sut ti
a c phộp tho thun s l 2,5% (= 1% + 1% x 150%), trong ú phn vt
quỏ l 1,5%, tc bng 150% ca mc lói sut c bn 1% (ngha l tip tc xỏc
lp theo cụng thc: mc lói sut tho thun ti a c phộp = lói sut c bn +
lói sut c bn x 150%). Hay núi cỏch khỏc, BLDS nm 2005 ó nõng giỏ tr t
l xỏc nh mc ti a ca lói sut tho thun c phộp, so vi BLDS nm 1995
(ng thi thay i i tng so sỏnh lói sut trn bng lói sut c bn). Nh vậy
Luật s Đỗ Hồng Thái đã không đồng tình với cách tính của Luật s Trơng Thanh
Đức.
- Nhng cũn cú mt kh nng khỏc: phi chng li vn khon 1, iu 473,
BLDS nm 1995 ó khụng chuyn ti ỳng ý nh lm lut (thay vỡ phi xỏc
nh giỏ tr ca t l cn so sỏnh trc tip gia 2 mc lói sut l i tng cn
quan tõm vi nhau ch khụng th búc tỏch phn vt quỏ so sỏnh ngha l
phi ly giỏ tr 150% ch khụng phi l 50%), v gii quyt bt cp y m

BLDS nm 2005 v cõu ch tng nh ó nõng s giỏ tr % ca mc ngng
ti a, song ni dung thc t l khụng tng m ch n gin l tr li t l % cn
so sỏnh v ỳng vi s hp lý ca ý t li vn iu lut, theo ú: Lói sut vay
do cỏc bờn tho thun nhng khụng vt quỏ 150% ca lói sut c bn
([8])
s
c hiu v tớnh toỏn bi cụng thc: mc lói sut tho thun ti a = lói sut
c bn x 150%. Nh vy, 476 BLDS nm 2005 cũn n cha iu gỡ cha rừ
ràng và cn cú s gii thớch kp thi ca Quc hi, trc ht l s hng dn ỏp
dng phỏp lut ca liờn ngnh cỏc c quan t phỏp trung ng v vn nờu
trờn.
i vi Lut s Luu Trng Hn
([9])
, ụng a ra cỏch hiu tng t Lut s
Hng Thỏi: theo BLDS nm 1995. Gi A: lói sut c bn do Ngõn hng nh
9
nước quy định, thì mức lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không
được vượt quá 50% của A (nghĩa là ngoµi mức lãi suất cơ bản là A thì Ngân
hàng có thể được phép cho vay vượt mức lãi suất cơ bản nhưng không được vượt
quá 50% của lãi suất cơ bản, tức là lãi suất cho vay tối đa mà các Ngân hàng có
thể áp dụng = A + A x 50%). Ta có: A + A x 50% = A (1+50%) =
A(100%+50%) = A x 150% = A x 1,5 lần (để chuyển các số ra cùng một đơn vị,
ta đổi: 1 = 100%).
Tại thông tư số 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 của Liên tịch Tòa án nhân dân Tối
cao – Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Tư Pháp – Bộ tài Chính: Hướng dẫn
việc xét xử và thi hành án về tài sản cũng hướng dẫn theo cách tính trên, như
sau: Nếu mức lãi suất do các bên thoả thuận vượt quá 50% của lãi suất cao nhất
do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng tại thời điểm vay,
thì toà án áp dụng khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả lãi
bằng 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại

vay tương ứng
([10])
. Ví dụ: C vay của D 10.000.000 đồng vào ngày 30/12/1995
với thời hạn vay là 6 tháng và với lãi suất là 4%/tháng. Hàng tháng C đã phải trả
lãi cho D. Tháng 7/1996 C ngừng trả lãi cho D. Do đòi nhiều lần không được,
nên tháng 11/1996 D khởi kiện yêu cầu toà án buộc bên C phải trả cả nợ gốc và
lãi cho D. Khi giải quyết vụ kiện này, toà án buộc C trả cho D tiền nợ gốc là
10.000.000 đồng và tiền lãi theo cách tính như sau:
- Thời điểm C vay D là tháng 12 – 1995. Theo Quyết định số 381-QĐ/NH1 ngày
28 – 12 – 1995 thì lãi suất cao nhất của loại vay trung hạn và dài hạn là
1,7%/tháng. Như vậy toà án chỉ chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng vay nợ là
2,55%/tháng (1,7% + 1,7% x 50% = 2,55%/tháng). Nay BLDS 2005 đã sửa đổi
Khỏan 1 Điều 473 BLDS 1995 như sau: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước
10

công bố đối với các loại cho vay tương ứng”
([11])
. Để dễ nhận thấy sự khác biệt
giữa hai Điều luật, ta lập bảng so sánh, đối chiếu:
Kho
ản 1 Điều 473 BLDS 1995

Kho
ản 1 Điều 476 BLDS 2005

Qui đ
ịnh: “L
ãi su
ất vay do các b

ên
thỏa thuận nhưng không được vư
ợt
quá 50% của lãi suất cao nhất
(nay là
lãi suất cơ bản) do Ngân h
àng nhà

ớc quy định(công bố) đối với các
loại cho vay tương ứng”.
Qui định: “Lãi suất vay do các b
ên
thỏa thuận nhưng không được vư
ợt
quá 150% của lãi suất cơ bản
do
Ngân hàng nhà nư
ớc công bố đối với
các loại cho vay tương ứng”.
Ví d
ụ: Thời điểm C vay D l
à tháng 12
-
1995. Theo Quyết định số 381
-
QĐ/NH1 ngày 28-12-1995 thì lãi su
ất
cao nhất của loại vay trung hạn v
à dài
hạn là 1,7%/tháng. Như vậy toà án ch


chấp nhận mức lãi su
ất của hợp đồng
vay nợ là 2,55%/tháng.
(1,7% + 1,7%
x 50% = 2,55%/tháng). Từ Ví dụ tr
ên,
áp d
ụng to¸n học ta có công thức tính
lãi suất cho vay, như sau: Gọi A: l
à lãi
suất cơ bản; B: là Lãi su
ất cho vay tối
đa. Ta có:
B = A + A x 50% = A
(1+50%) [Qui đổi 1=100%]
= A
(100%+50%) = A x 150% hay
B= A x
1,5lần
Ví d
ụ: Thời điểm C vay D l
à tháng 03
-
2008. Theo Quyết định số 479-
QĐ/NHNN ng
ày 29/02/2008 thì lãi
suất cao cơ bản l
à 8,75%/năm. Như
vậy Toà án chỉ chấp nhận mức lãi su

ất
của hợp đồng vay nợ l
à
21,875%/năm
(8,75% + 8,75% x
150% = 21,875/năm). Từ Ví dụ tr
ên,
áp d
ụng to¸n học ta có công thức tính
lãi suất cho vay như sau: Gọi A: là
Lãi
suất cơ bản; B: là Lãi su
ất cho vay tối
đa. Ta có
: B= A + A x 150% = A
(1+150%) [Qui đổi 1=100%]
= A
(100%+150%) = A x 250% hay B = A
x 2,5
lần
Tóm lại
: Theo BLDS 1995, n
ếu mức
lãi suất do các bên thoả thuận vư
ợt quá
Theo BLDS 2005, n
ếu mức l
ã
i su
ất do

các bên thoả thuận vư
ợt quá 150% của
11

50% c
ủa l
ãi su
ất cao nhất do Ngân
hàng Nhà nư
ớc quy định đối với loại
vay tương ứng tại thời điểm vay, th
ì
toà án áp d
ụng khoản 1 Điều 473
BLDS1995 buộc bên vay phải trả l
ãi
bằng 150% mức lãi su
ất cao nhất do
Ngân hàng Nhà nư
ớc quy định đối với
loại vay tương ứng.
lãi su
ất c
ơ b
ản do Ngân h
àng Nhà
nước công bố đối với loại vay t
ương
ứng tại thời điểm vay, th
ì toà án áp

d
ụng khoản 1 Điều BLDS 2005 buộc
bên vay phải trả lãi b
ằng 250% mức
lãi suất cơ bản do Ngân h
àng Nhà
nước công bố đối với loại vay t
ương
ứng.
Như vậy với cách hiểu và tính toán trên ta có: Gọi A: Lãi suất cơ bản do Ngân
hàng nhà nước công bố, thì lãi suất cho vay của các Ngân hàng sẽ không được
vượt quá: A + A x 150% = A (1+150%) = A (100%+150%) = A x 250% = A x
2,5 lần. Như vậy mức lãi suất cơ bản được NHNN công bố là 8,75%/năm thì
mức lãi suất cho vay của các ngân hàng không được vượt quá: 8,75% x 250% =
21,875%/năm. Nếu các ngân hàng cho vay trên mức 21,875%/năm (hay
1,82%/tháng) là phạm luật.
Đây là những quan điểm của các luật sư và các nhà chuyên môn mà những quan
điểm này được đánh giá rất cao và là cơ sở để thế hệ chúng tôi học tập. Một điều
luật có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau nhưng với cách hiểu của mình tôi
thiết nghĩ nếu hiểu nội dung của điều 476 BLDS 2005 là quy định lãi suất không
được vượt quá 250% lãi suất cơ bản thì không ổn. Vì khi quy định như thế chẳng
khác nào là khuyến khích cho vay nặng lãi. Một đòi hỏi bức thiết là cần phải giải
thích luật một cách rõ ràng, cụ thể để trách tình trạng có những quan điểm khác
nhau
([12])
.
Các hợp đồng dân sự luôn mang trong nó tính chất “thoả thuận giữa các bên” tuy
nhiên pháp luật cũng hạn chế quyền của người cho vay trong hợp đồng vay tiền
có lãi suất bằng cách “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại

12

cho vay tương ứng”. Nhưng “quy định vẫn chỉ là quy định”, không có chế tài áp
dụng thì việc đưa ra các quy định này cũng không mang lại kết quả như ý muốn.
Nếu có chế tài áp dụng đối với việc quy định lãi suất cũng chỉ là chế tài hành
chính, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại một khoản tiền mà bên vay chứng
minh được việc vay với lãi suất vượt qua mức quy định của pháp luật của bên
cho vay gây thiệt hại cho mình. Hơn nữa, nhu cầu đi vay của người vay thường
trong những trường hợp cấp bách và cần thiết, việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu
của Toà án đôi khi làm ảnh hưởng đến công việc của người đi vay. Cần phải có
những quy định và chế tài cụ thể để hạn chế tình hình trên.
Việc quy định lãi suất quá cao sẽ không chỉ gây ảnh hưởng cho nền kinh tế mà
còn ảnh hưởng đến chính bên cho vay. Khi lãi suất của bên cho vay cao sẽ khiến
các doanh nghiệp, các cá nhân… (bên vay) không vay dẫn đến tình trạng tiền bị
đọng lại và không phát huy được giá trị sinh lời của nó. Doanh nghiệp vay tiền là
để đầu tư nhưng với mức lãi suất cao sẽ dự tính việc đầu tư không có lãi nên các
doanh nghiệp không vay là đương nhiên. Còn cá nhân, họ cần tiền cũng có thể để
đầu tư, cũng có thể vay để chi trả cho một công việc nào đó hay để đảm bảo cho
cuộc sống hàng ngày… lãi suất cao khiến những người này không có khả năng
trả cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy nguồn tiền trong các
Ngân hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những không đem lại hiệu
quả mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá nhân… muốn vay.
Việc quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế cũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối tượng
ưu tiên mà pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi nhân tố
ảnh hưởng đến lãi suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay chậm phát
triển…). Lãi suất thấp sẽ làm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm sự phát
triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của bên cho vay. Nhìn một cách khách quan,
13


lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay. Nhưng cái lợi trước mắt không
phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới.
Như vậy, việc quy định lãi suất quá cao hay quá thấp đều không mang lại hiệu
quả. Nhà nước tính toán làm sao để pháp luật có những quy định hợp lý không
làm giảm hiệu quả của giá trị đồng tiền mang lại cũng không ảnh hưởng đến
quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền vững và
lâu dài cho nền kinh tế.
Hơn nữa có thể thấy sự bất cập và thiếu chặt chẽ còn thể hiện ở chỗ: lãi suất
được quy định trong BLDS 2005 phải ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong
trường hợp A cho B vay với lãi suất là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố trong thời gian 1 năm nhưng hết 1 năm B vẫn chưa trả cho A, lúc
này phát sinh lãi suất quá hạn và lãi suất này được tính như thế nào? Nếu A và B
có thoả thuận về mức lãi suất quá hạn nhưng mức lãi suất này lại vượt quá 150%
mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (vì lãi suất đúng hạn mà A
và B thoả thuận đã bằng 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước) thì lúc
này hậu quả sẽ ra sao? Việc áp dụng Điều 476 BLDS 2005 có thực sự hiệu quả?
Nếu trường hợp A và B không thoả thuận về lãi suất quá hạn thì việc tính lãi suất
này sẽ theo quy định của pháp luật, tức là vẫn ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, như vậy việc phân loại lãi suất
đúng hạn và lãi suất quá hạn không còn ý nghĩa bởi vì cách tính lãi suất đúng
hạn và lãi suất quá hạn là như nhau.
Hiện nay, lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng tại một số ngân hàng đã bắt đầu
cán đích 10%, trong khi lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên 7% và trần cho vay tối đa
không quá 10,5%/năm. Bằng phép tính đơn giản cũng có thể nhận ra rằng không
có lý do gì để ngân hàng đẩy lãi suất lên để gánh lấy thua lỗ, trừ khi lâm vào tình
huống gặp khó khăn trong thanh khoản. Thật ra, nguyên nhân chính ở đây là do
14

một số ngân hàng đang chuyển hướng mạnh sang cho vay tiêu dùng theo cơ chế

lãi suất thỏa thuận, với mức lãi suất bình quân từ 12-15%/năm, chênh lệch giữa
đầu ra – đầu vào lên đến 4-5 điểm phần trăm/năm, một tỷ lệ thực sự hấp dẫn nếu
chúng ta biết rằng trong tín dụng nếu duy trì chênh lệch khoảng 3,5 điểm phần
trăm/năm là có thể tạm yên tâm về tài chính. Việc điều hành thông qua cơ chế
“hai giá”, vừa duy trì lãi suất trần vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận, tưởng chừng
là lối thoát tài chính hợp lý cho các ngân hàng thương mại, nhưng vô hình trung
đã nắn dòng chảy tín dụng ngày càng trở nên bất cập. Do sức hấp dẫn của chênh
lệch lãi suất, vốn tín dụng tất yếu chảy dồn vào các kênh tiêu dùng, đáng kể nhất
hiện nay là bất động sản và chứng khoán. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước vẫn đang
khẳng định dư nợ cho vay chứng khoán và bất động sản hạch toán trên sổ sách
nhìn chung chưa có biến động lớn vượt tầm kiểm soát, đây là ý kiến đáng lưu ý
vì nhiều nhà quan sát cho rằng sở dĩ thị trường chứng khoán thời gian qua nóng
lên bất thường phần lớn là do sự tiếp sức nhanh và mạnh từ các luồng tiền ngân
hàng.
Hiện tại, các NHNN đang tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật NHNN
Việt Nam (sửa đổi) và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Một trong
những điểm mới mà luật đưa ra là TCTD và khách hàng có thể tự thỏa thuận
mức lãi suất. Việc thỏa thuận lãi suất sẽ khiến việc huy động vốn dễ hơn. Dự
thảo Luật Ngân hàng Nhà Nước và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sẽ chính
thức trình Quốc hội thông qua vào năm 2010.
Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi gồm 10 chương, 164 điều. Nhận được nhiều ý
kiến đồng tình khi trao quyền cho TCTD và khách hàng thỏa thuận mức lãi suất
trong các hoạt động ngân hàng, không phụ thuộc vào quy định của Bộ luật Dân
sự vì bản chất hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất với
hoạt động cho vay trong quan hệ dân sự thông thường. Đặc biệt, việc áp dụng
trần lãi suất có thể làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không phản
15

ánh đúng và đầy đủ tình trạng thanh toán của các ngân hàng, qua đó đã vô hiệu
hóa một tín hiệu quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ…

Như vậy chiếu theo Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 “Lãi suất cho vay do các bên
thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN
công bố đối với loại cho vay tương ứng” thì rất nhiều Ngân hàng đang vi phạm
luật bởi lãi suất cơ bản do NHNN công bố hiện chỉ 7%/năm tức lãi suất cho vay
không được vượt quá 10,5%/năm. Dường như, thời gian qua nắm được điểm yếu
này, các Ngân hàng tha hồ nâng lãi suất, ký những hợp đồng phạm luật mà
không e ngại. Luật sư Nguyễn Sa Linh
(
[13]
)
khẳng định: “Nếu tranh chấp về lãi
suất được đưa ra Tòa, những hợp đồng có lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản
sẽ bị tuyên vô hiệu vì phạm luật và khách vay có quyền trả với lãi suất 150% lãi
cơ bản”. Còn Luật sưNguyễn Thanh Lương
(
[14]
)
phân tích “dù trong hợp đồng có
điều khoản không được tiết lộ những điều khoản cho bên thứ 3, nhưng luật cũng
quy định một số cơ quan có thẩm quyền được phép biết và Tòa án nằm trong số
đó. Còn việc ngân hàng cho rằng lãi trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận thì vẫn vi
phạm Điều 476 Bộ luật Dân sự”.
Một vấn đề cũng rất cần quan tâm đó là hiện tượng các Ngân hàng hiện nay cho
vay với các điều kiện vô lý. Ví dụ: muốn vay 10.000.000 đồng (mười triệu đồng)
để đầu tư phải thoả mãn điều kiện có 10 héc ta (ha) đất không thì phải trả lãi suất
cao mới được vay. Nhưng rất ít hộ dân có tới 10 ha đất. Tác giả cho rằng không
nên quy định hạn mức mà điều kiện cho vay cần phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì nếu
hộ dân có 1, 2 sào thì chỉ được vay 1, 2 triệu đồng như vậy không đủ để đầu tư.
Hơn nữa, nếu trên mảnh đất “1, 2 sào” đó lại có tiềm năng phát triển thì như vậy
quy định của các ngân hàng lại gián tiếp làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nếu

chấp nhận vay thì người dân phải chấp nhận một lãi suất cao “ngút trời”. Các
ngân hàng đã vin vào các điều kiện vô lý này để tiến hành cho vay nặng lãi.
16

Dư luận đang chờ các cơ quan có thẩm quyền giải bài toán “cho vay nặng lãi”
của các ngân hàng.
3. Một số khuyến nghị
Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay tiền,
dựa vào thực trạng và những nhận xét nêu trên tác giả xin mạnh dạn đưa ra một
số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, trong Bộ luật dân sự cần có quy định rõ về khái niệm lãi suất và các
loại lãi suất.
Việc quy định của pháp luật còn bất cập ở chỗ vô tình đồng nhất lãi suất đúng
hạn và lãi suất quá hạn, cần có một sự điều chỉnh. Như đã biết lãi suất không
được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, nhưng khi
tính lãi suất quá hạn thì được tính như thế nào? Nếu vẫn áp dụng lãi suất quá hạn
nhỏ hơn hoặc bằng 150% lãi suất cơ bản thì chẳng khác nào khẳng định hai loại
lãi suất này không có gì khác nhau. Vậy có thể tính lãi suất quá hạn như sau:
Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất đúng hạn
Lưu ý lãi suất đúng hạn không được vượt quá bằng 150% lãi suất cơ bản (để phù
hợp với điều 476 – BLDS 2005).
Ví dụ: A cho B vay 1.000.000 đồng trong thời hạn 1 năm với lãi suất là
10%/năm (lãi suất cơ bản tại thời điểm hiện nay do Ngân hàng Nhà nước công
bố là 7%/năm). Sau 1 năm kể từ ngày hợp đồng được giao kết, B phải trả cho A
1.000.000 đồng (gốc) cộng với một khoản lãi là: 100.000 đồng. Nhưng 2 năm
sau B mới trả tiền cho A, lúc này phát sinh lãi suất quá hạn, ngoài số tiền gốc và
lãi suất đúng hạn, A còn được nhận lãi quá hạn vì 1 năm chậm trả của B. Hai bên
thoả thuận mức lãi suất quá hạn là 150% lãi suất đúng hạn tức khoản tiền là
150.000 đồng x 2 năm = 300.000 đồng.
Nếu lãi suất đúng hạn là 10.5%/năm (150% lãi suất cơ bản (7%) do Ngân hàng

Nhà nước công bố), khi tính lãi suất quá hạn vẫn áp dụng cách tính là nhỏ hơn
17

hoặc bằng 150% lãi suất cơ bản thì không ổn, lúc này lãi suất đúng hạn bằng lãi
suất quá hạn. Có nghĩa là: A cho B vay 1.000.000 đồng, lãi suất là 10,5%/năm
trong thời hạn là một năm. Sau 1 năm B phải trả cho A 105.000 đồng tiền lãi cho
A. Nhưng sau một năm B vẫn chưa trả, lúc này sẽ phát sinh lãi suất quá hạn. áp
dụng công thức: Lãi suất quá hạn = 150% lãi suất đúng hạn thì lúc này lãi suất
quá hạn sẽ lớn hơn lãi suất cơ bản:
Lãi suất quá hạn = 150%/năm x 10.5%/năm = 15.75%/năm.
Do vậy, BLDS cần bổ sung thêm khái niệm lãi suất và các loại lãi suất như sau:
Lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào
số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian.
Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính
trên số tiền đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên
cho vay tương ứng với thời gian chậm trả.
Để không gây mâu thuẫn trong các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật
nhất thiết phải chỉ rõ:
- Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng;
- Lãi suất đúng hạn mà các Ngân hàng thương mại, các TCTD hoặc các hình
thức chơi họ, hụi, biêu, phường chọn không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản;
- Lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất đúng hạn.
Thứ hai, về việc xử lí hậu quả của hợp đồng vay tiền vi phạm quy định về lãi
suất: đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi suất
vượt quá quy định cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên tuyên
bố hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các bên
Toà án sẽ áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy giờ
trong hợp đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực. Cũng
cần phải cân nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và dự liệu “những trường

18

hợp khác do pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong chính Bộ luật
dân sự.
Thứ ba, về vấn đề hụi, họ, biêu, phường: có thể thấy việc quy định lãi suất trong
hợp đồng vay là rất cần thiết, nó càng hiện thực hơn nữa trong nền kinh tế hiện
nay khi trị giá của đồng tiền luôn có những biến đổi không ngừng. Làm sao để
quy định mức lãi suất có thể đem lại lợi nhuận cho người cho vay nhưng cũng
đem lại khả năng đầu tư có hiệu quả trong việc vay lãi của người vay để họ có
khả năng trả nợ, trả lãi và có thể đem lại lợi nhuận. Trên thực tế, không phải lúc
nào các hợp đồng vay tiền cũng đảm bảo đầy đủ các giá trị pháp lí. Hơn nữa các
hình thức cho vay có thể biến thái thành các hình thức tiêu cực. Trong nhân dân,
các hình thức họ, hụi, biêu, phường diễn ra phổ biến mang tích chất là giúp đỡ
nhau trong sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt… là chính. Tuy nhiên không phải lúc
nào các hình thức cho vay này cũng lành mạnh nhất là trong xã hội ngày nay, các
tệ nạn xã hội diễn ra ngày càng phức tạp. Hơn nữa để định nghĩa một cách rõ
ràng thế nào là họ, là hụi, là biêu, là phường rất khó. Có nhiều người cho rằng
bốn hình thức cho vay này trong nhân dân có cùng bản chất. Với ý kiến Ông Hà
Đức Lệnh – Đại biểu quốc hội cho hụi và họ bản chất không giống nhau: "Họ
mang tính chất tương trợ, không tính lãi. Còn hụi là cho vay với lãi suất cao, dễ
phát sinh tiêu cực, ảnh hưởng lớn tới xã hội, nhất là khi đường dây hụi đổ bể".
Ông Lệnh cũng như nhiều đại biểu nhất trí Nhà nước cần quản lý hụi bằng cách
khống chế mức lãi suất cho vay, nếu vượt quá giới hạn quy định thì có chế tài xử
lý. Theo quan điểm của tác giả, cả bốn hình thức này đều có thể thoả thuận có lãi
suất. Bởi bản chất của hợp đồng vay tiền mà nhờ bản chất này có thể phân biệt
dễ dàng với các hợp đồng khác đó là lãi suất. Hợp đồng vay tiền có lãi suất chính
là thể hiện đặc điểm “đền bù” trong các hợp đồng dân sự.
Ví dụ về đường dây hụi ngày: Vay 30.000 đồng một ngày, trả lãi 500 đồng/ngày,
sau 1 tháng phải trả cả vốn và lãi là 45.000 đồng (tương đương lãi suất 100%).
19


Nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp chơi hụi với hình thức cho vay lãi cao:
200%, 300%… thậm chí còn cao hơn thế nữa. Vì thế nhà nước cần quản lý hụi,
không thể cứ không quản được thì cấm, biến hụi trở thành cái gì đó xấu xa.
Theo tác giả, đối với các hình thức cho vay trong nhân dân: họ, hụi, biêu,
phường cần phải được kiểm soát sát sao. Các chủ họ, hụi, biêu, phường (nhà cái)
cần phải được đăng kí và được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền mới
được phép hoạt động. Làm như vậy để kiểm soát được sự hoạt động của các hình
thức này. Thông thường việc quy định lãi suất của các hình thức cho vay này rất
khó kiểm soát và hầu hết là trái với quy định tại Điều 476 – BLDS 2005. Các
hình thức cho vay này thường quy định mức lãi suất rất cao, nếu như cho vay với
mục đích tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và áp dụng mức lãi suất phù hợp với pháp
luật thì Đảng và Nhà nước ta rất khuyến khích, bởi trong tình hình hiện nay với
sự khan hiếm của đồng tiền các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đôi khi không
xoay sở kịp cần phải có những hình thức cho vay khác để đảm bảo được nhu cầu
của người dân. Tuy nhiên trên thực tế các nhà cái lại lợi dụng tình hình này để
hoạt động cho vay nặng lãi. Hơn nữa có một số các chủ hụi cũng huy động góp
vốn với lãi suất cao rồi sau đó “ôm tiền bỏ chạy” để những người góp vốn không
biết tìm đâu để thấy tiền của mình. Việc chơi họ, hụi, biêu, phường có thể coi là
một hình thức kinh doanh vậy nên việc đăng kí hoạt động với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền là rất cần thiết, không chỉ giúp Nhà nước quản lý được các giao
dịch dân sự mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân dân.
Thứ tư, về chính sách lãi suất: Có thể nói khi lãi suất của ngân hàng Nhà nước
tăng cao hoặc việc cho vay tiền của các cá nhân có quy định mức lãi suất quá cao
sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư. Nhu cầu đầu tư là lượng tiền được nắm giữ nhằm
quản lý tài sản một cách linh hoạt và có hiệu quả trên cả hai góc độ: tối đa hoá
lợi nhuận và an toàn. Nói cách khác, công chúng nắm giữ tiền với tư cách như là
một công cụ đầu tưmà không phải là phương tiện để trao đổi. Mức sinh lời của
20


tiền tệ là bằng 0 hoặc rất thấp so với các hình thức đầu tư khác. Mặc dù loại hình
đầu tư này vẫn tốt hơn mức sinh lời âm mà các loại hình đầu tư đó có thể mang
lại. Tỷ lệ sinh lời của một công cụ đầu tư trong một giai đoạn là tổng của tỷ lệ lãi
suất và tỷ lệ tăng giá; trong khi mức sinh lời từ lãi suất luôn lớn hơn 0 thì tỉ lệ
biến động giá có thể là một số âm. Trong chừng mực sự thiệt hại từ mức giá biến
động vượt quá lợi nhuận mang lại từ lãi suất thì tỉ lệ sinh lời của một công cụ
đầu tư là một số âm. Việc đầu tư vừa phải mang lại lợi nhuận, vừa phải an toàn.
Với mức lãi suất cao, người đi vay khó có khả năng cáng đáng được được cả gốc
lẫn lãi. Hệ quả xảy ra là ít người, ít công ty… vay hoặc vay nhiều để đầu tư có
quy mô. Ngược lại, với lãi suất quá thấp, người dân sẽ không gửi tiền và dẫn đến
hoạt động của các Ngân hàng kém hiệu quả, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền
kinh tế. Chính vì vậy, ban hành một chính sách lãi suất phù hợp kích thích được
các hoạt động cho vay tài sản nói chung và vay tền nói riêng sẽ có tác động
không nhot tới sự phát triển ổn định của kinh tế – xã hội.
Thứ năm, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân
hàng nói riêng và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung: sự biến
đổi của đồng tiền và sự khan hiếm của chính nó tại một số thời điểm trong thời
gian qua đã tạo cơ hội cho các đối tượng cho vay nặng lãi vượt nhiều lần so với
sự quy định của Nhà nước. Trên thực tế, các Ngân hàng có những lúc không có
đủ tiền để cho vay hay chỉ là đưa ra những lí do để tạo khó khăn cho người đi
vay? Chính phủ đưa ra các gói giải pháp để hỗ trợ cho những người nghèo nhưng
việc tiếp cận của các gói giải pháp này tới người dân còn rất khó khăn. Người
dân không chạm tới được những sự hỗ trợ của Nhà nước, may chăng được tiếp
cận nó nhưng cơ chế cho vay tiền của các Ngân hàng đặc biệt là các tổ chức tín
dụng ở vùng sâu, vùng xa đã gây khó khăn cho người đi vay. Từ những nguyên
nhân trên, những người có nhu cầu đi vay, để tránh “phiền phức”, họ không vay
ở các Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng mà vay của những người “dư dật” của
21

cải và có nhu cầu cho vay để thoả mãn nhu cầu vật chất của chính mình, nhưng

sự biến đổi bất thường của giá trị đồng tiền và việc vay khó khăn tại các Ngân
hàng khiến cho những người cho vay đã cố tình nâng lãi suất. Một đòi hỏi bức
thiết là Nhà nước cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ Ngân hàng và tăng cường kiểm
soát các hợp đồng vay tiền.
Thứ sáu, có thể sửa đổi Điều 474 và 476 của Bộ Luật dân sự theo 2 phương
án
([15])
:
Phương án 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 474 và Điều 476 Bộ
Luật dân sự theo hướng “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố”, quy định
này không điều chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín
dụng hoạt động theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức
tín dụng.
Phương án 2: Chỉnh sửa Điều 474 và Điều 476 của Bộ Luật dân sự theo hướng
quy định này không áp dụng đối với các tổ chức tín dụng.
Theo tác giả các cơ quan làm luật nên sửa Bộ Luật dân sự theo phương án 1 để
đáp ứng kịp thời cho tình hình kinh tế hiện nay với một nền kinh tế đa dạng,
năng động và nhiều thách thức, nếu chậm ngày nào sẽ gây ách tắc và sự cứng
nhắc trong hoạt động ngân hàng, không đáp ứng được những yêu cầu đa dạng
của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn ®ang suy thoái do cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính toàn cầu mang lại. Nếu chọn phương án 2, chúng ta sẽ mất
nhiều thời gian để sửa đổi luật vậy nên Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải thích
luật theo tác giả là phương án tối ưu. Về lâu dài, để hợp lý hơn chúng ta có thể
quy định điều 476 không áp dụng đối với hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm
giảm bớt khó khăn cho các ngân hàng thương mại và đảm bảo phù hợp với chủ
trương tự do hoá lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đang phấn đấu.
22


Thứ bảy, về vấn đề tranh cãi có nên nâng trần lãi suất? Quy định của pháp luật
hiện hành tại điều 476 BLDS 2005 nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về vay,
cho vay vốn và các giao dịch dân sự, nhằm ngăn chặn cho vay nặng lãi, mang
tính bóc lột không phù hợp với bản chất của Nhà nước ta. Trong bối cảnh lạm
phát hiện nay, chúng ta cần tính đến các nhà sản xuất bởi khi không có vốn họ đi
vay nhưng vay với lãi cao không đủ sức trả nợ thì phá sản, lại ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế. Tác giả cho rằng, tạm thời Nhà nước nên giữ nguyên quy
định của điều 476 bởi việc thay đổi lãi suất cần phải cân đối giữa các lợi ích
nhằm chống cho vay nặng lãi, suy giảm kinh tế… và đặc biệt cần phải phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Đồng thời kết hợp hài hoà với việc giải thích luật
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về vấn đề điều 476 BLDS 2005 không điều
chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hoạt động
theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Khi
nền kinh tế đi vào ổn định, lạm phát phi mã chấm dứt, kinh tế phát triển… chúng
ta sẽ nghĩ đến việc nâng trần lãi suất.
Chú thích:
1. Điều 2, Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo
Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước
2. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb
Thống kê, tr.63
3. Học viện ngân hàng, Giáo trình Lí thuyết tiền tệ ngân hàng (2005), Nxb
Thống kê, tr.98
4. Khoản 12 Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997
5. Điều 18 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997
23

6. Khỏan 1 Điều 476 BLDS năm 2005
7. Luật sư Trương Thanh Đức chủ tịch công ty luật BASICO, nguồn

VnEconomy.com.vn
8. Nguồn
9. Khoản 1 Điều 476 BLDS nam 2005
10. Luật sư Lưu Trường Hận, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng
Bộ phận Pháp Chế Ngân hàng Phương Đông
11. Mục b khỏan 4 phần I thông tu s? 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 c?a Liên
t?ch Tòa án nhân dân Tối cao – Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Tu
Pháp – Bộ tài Chính
12. Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005
13. Kiến nghị của tác giả được trình bày ở Chương 5: Nhận xét và kiến nghị
14. Luật sư Nguyễn Sa Linh, Đoàn Luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh, nguồn
VnEconomy
15. Theo Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam
SOURCE: TRÍCH DẪN TỪ CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI –
NĂM 2009 “LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY”

×