Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC Ở CÁ ĐIÊU HỒNG (Oreochromis sp.) NHIỄM VI KHUẨN Streptococcus agalactiae TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC NGHIỆM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.39 KB, 14 trang )















ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC Ở CÁ ĐIÊU
HỒNG (Oreochromis sp.) NHIỄM VI
KHUẨN Streptococcus agalactiae TRONG
ĐIỀU KIỆN THỰC NGHIỆM



Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

289
ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC Ở CÁ ĐIÊU HỒNG
(Oreochromis sp.) NHIỄM VI KHUẨN Streptococcus
agalactiae TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC NGHIỆM
Đặng Thụy Mai Thy
1
và Đặng Thị Hoàng Oanh
1



ABSTRACT
Streptococcus agalactiae S09-01strain which was isolated from diseased red
tilapia was used for challenge experiment in healthy fish at the injection doses
from 4,23x101- 4,23 x106 CFU/ml. Samples were collected at day 1, 3, 5, 10
and 14 post injection for histopathological analysis. Microscopic observation
of fresh smear of liver, kidney and spleen from diseases speciment revealed
small oval shaped, gram positive bacterial cells. There was no visible
histological changes in skin and muscle tissues of infected fish. Kidney and
spleen tissues of diseased fish injected bacteria at 4.23x104 - 4.23x106 CFU/m
displayed typical histological changes at day 3, more severe at day 5 and being
destroyed at day 10. Liver tissue displayed slow changes started at day 5 in
diseased fish injected bacteria at 4.23x105- 4.23x106 CFU/ml. Gill tissue had
less changes which also displayed at day 5 in diseased fish injected bacteria at
4.23x105-4.23x106 CFU/ml.
Keywords: Red tilapia, Streptococcus agalactiae, histopathology.
Title: Study on the histopathological change of red tilapia (Oreochromis sp.)
experimentally infected with Streptococcus agalactiae bacteria.
TÓM TẮT
Chủng vi khuẩn Streptococcus agalactiae S09-01 được phân lập từ cá điêu
hồng được sử dụng gây cảm nhiễm cho cá khỏe với mật độ từ 4,23x10
1
-
4,23x10
6
CFU/ml. Mẫu được thu vào ngày thứ 1, 3, 5, 10, 14 sau gây cảm
nhiễm. Kết quả quan sát phết kính mẫu tươi mô gan, thận và tỳ tạng tất cả các
mẫu đều phát hiện vi khuẩn hình cầu hoặc ovan, kích thước khá nhỏ, gram
dương. Không có sự biến đổi ở mô da-cơ của các mẫu cá được thu. Mô thận và
tỳ tạng ở cá cảm nhiễm mật độ từ 4,23x10

4
- 4,23x10
6
CFU/ml bị thay đổi vào
ngày thứ 3, biến đổi nặng hơn vào ngày thứ 5 và bị phá hủy ở ngày thứ 10. Mô
gan biến đổi chậm, bắt đầu bị biến đổi vào ngày thứ 5 ở mật độ 4,23x10
5
-
4,23x10
6
CFU/ml. Cấu trúc mang ít biến đổi, cũng bắt đầu bị biến đổi vào
ngày thứ 5 ở cá tiêm vi khuẩn mật độ 4,23x10
5
-4,23x10
6
CFU/ml.
Từ khóa: Cá điêu hồng, Streptococcus agalactiae, mô bệnh học.

1
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

290
1 GIỚI THIỆU
Với hệ thống sông ngòi chằng chịt, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi
thủy sản lớn nhất của cả nước. Trong đó, cá điêu hồng (Oreochromis sp.) là
một trong những đối tượng được nuôi phổ biến không chỉ bởi đặc điểm dễ
nuôi, có chất lượng thịt ngon mà còn có giá trị dinh dưỡng cao phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng và là đối tượng có tiềm năng xuất khẩu trong thời gian
tới.

Hiện nay, bệnh phổ biến và gây thiệt hại nghiêm trọng trong mô hình nuôi cá
điêu hồng thâm canh là bệnh do nhóm vi khuẩn thuộc giống Streptococcus.
Bệnh được ghi nhận đã xuất hiện và làm chết cá rải rác ở một số cơ sở nuôi bè
tại An Giang đầu tiên vào 2004. Thời gian gần đây bệnh cũng xuất hiện nhiều
ở các vùng nuôi cá điêu hồng trên bè thuộc các tỉnh Vĩnh Long và Ti
ền Giang.
Bệnh xuất hiện hầu hết các tháng trong mùa mưa (từ tháng 7 đến tháng 10) và
các tháng giao mùa tỉ lệ chết cao gây thiệt hại nghiêm trọng. Khi dịch bệnh xảy
ra thì việc điều trị bệnh là rất khó khăn. Nếu chỉ dựa vào những hình thái tổn
thương bên ngoài mà không có các dữ liệu khác về bệnh lý của cá thì thường
khó có thể kết luận chính xác về tác nhân gây bệnh. Mặc dù đã có nhiều công
trình nghiên cứu về đặc điểm sinh lý, sinh hóa, khả năng gây bệnh của vi khuẩn
Streptococcus sp. ở cá điêu hồng nhưng những nghiên cứu về mô bệnh học ở
cá điêu hồng vẫn còn hạn chế. Biến đổi mô học ở cá điêu hồng bệnh do vi
khuẩn S. agalactiae trong điều kiện gây cảm nhiễm nhằm cung cấp những
thông tin về ảnh hưởng của bệnh đến cấu trúc mô ở một số cơ quan của cá điêu
hồng góp phần giúp cho việc chẩn đoán chính xác để việc điều trị bệnh đạt hiệu
quả cao.
2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
Cá điêu hồng giống mua từ trại giống ở Tiền Giang có trọng lượng từ 15-30
g/con, cá tương đối đồng cỡ, khỏe mạnh. Cá giống sau khi mua về được dưỡng
trong bể composite có sục khí khoảng một tuần và cho cá ăn thức ăn công
nghiệp theo nhu cầu. Kiểm tra kí sinh trùng, vi sinh và tình trạng sức khỏe của
cá trước khi tiến hành bố trí thí nghiệm.
Vi khuẩn S. agalactiae chủng S09-01 từ bộ sưu tập vi khuẩn của Khoa Thủy
sản, trường Đại học Cần Thơ được phân lập từ cá điêu hồng bị bệnh phù mắt
và xuất huyết. Vi khuẩn thuần được nuôi tăng sinh trong 100 ml môi trường
lỏng Brain heart infusion và ủ trong tủ ấm ở 28ºC từ 24 – 48 giờ. Sau đó vi
khuẩn được li tâm với tốc độ 5.000 vòng/phút trong vòng 5 phút và được rửa 3

lần trong nước muối sinh lí. Mật độ vi khuẩn được xác định bằng máy so màu
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

291
quang phổ ở bước sóng 540 nm. Với OD = 1,2 ± 0,01 tương đương với mật độ
vi khuẩn là 2x10
8
CFU/ml.
2.2 Bố trí thí nghiệm
Bể nhựa 60 L dùng để bố trí thí nghiệm với nguồn nước máy có sục khí 1-2
ngày trước khi thí nghiệm. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại
bằng phương pháp tiêm 7 mật độ vi khuẩn 101–106 CFU/ml, nghiệm thức tiêm
nước muối sinh lý và đối chứng không tiêm. Mật độ bố trí thí nghiệm 10
con/bể, cá được tiêm 0,1 ml/cá ở gốc vi ngực. Thí nghiệm được theo dõi trong
vòng 14 ngày, trong quá trình bố trí thí nghiệm cho cá ăn bằng thức ăn công
nghiệp theo nhu cầu.
2.3 Phương pháp mô học
Mẫu được thu vào ngày thứ 1, 3, 5, 10, 14 sau gây cảm nhiễm gồm mẫu mô da-
cơ, mang, gan, thận, tỳ tạng của cá bệnh (các nghiệm thức gây cảm nhiễm) và
cá khoẻ (nghiệm thức đối chứng), mẫu được thu và cố định trong dung dịch
formol trung tính 10%. Mẫu được xử lý qua các giai đoạn: loại nước, làm trong
mẫu và tẩm paraffin. Sau đó mẫu được đúc khối, cắt với độ dày từ 4-6 μm và
nhuộm Haematoxylin & Eosin. Tiêu bản được quan sát dưới kính hiển vi lần
lượt ở độ phóng đại 10x, 40x và 100x và chụp hình tiêu bản đặc trưng. Mẫu
phết kính tiêu bản tươi mô gan, thận và tỳ tạng được nhuộm Giemsa.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Biến đổi cấu trúc mô quan sát bằng phết kính tiêu bản tươi
Quan sát các tiêu bản tươi mô gan, thận, tỳ tạ
ng các mẫu cá bệnh ở nghiệm
thức tiêm mật độ vi khuẩn 4,23x10

4
-4,23x10
6
CFU/ml qua các ngày thu mẫu
đều thấy một loại trực khuẩn hình cầu hoặc ovan, kích thước khá nhỏ, bắt màu
gram dương nằm rải rác trên vùng mô phết kính hoặc tập trung thành từng đám
(Hình 1A). Ở các nghiệm thức có mật độ vi khuẩn thấp hơn (4,23x10
1
-
4,23x10
3
CFU/ml) có rất ít sự hiện diện của nhóm vi khuẩn này và hoàn toàn
không tìm thấy ở các mẫu cá của nghiệm thức đối chứng. Khi quan sát trên
mẫu mô phết kính ở thận cá bệnh cho thấy các tế bào biến dạng, cấu trúc rời
rạc và bắt màu tím của thuốc nhuộm Giemsa (Hình 1B).
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

292

Hình 1: Mô thận cá bệnh (Giemsa, 40X).
A: Vùng mô thận bị hoại tử với cụm vi khuẩn lớn (mũi tên). B: Cụm vi khuẩn tấn
công bao quanh bạch cầu ở thận cá (mũi tên)
3.2 Biến đổi cấu trúc mô học ở các cơ quan
3.2.1 Da và cơ
Khảo sát mô da-cơ cá ở ngày thu mẫu thứ 1, 3, 5, 10 và 14 của các nghiệm
thức tiêm mật độ vi khuẩn 4,23x10
1
-4,23x10
6
CFU/ml và nghiệm thức đối

chứng thấy cấu trúc mô ít biến đổi so với mô cá khỏe (Hình 2). Sau 14 ngày
theo dõi, ở nghiệm thức có mật độ vi khuẩn 4,23x10
6
CFU/ml cá chết với tỷ lệ
100%, đồng thời khi phân lập vi khuẩn từ gan, thận và tỳ tạng thấy xuất hiện
những khuẩn lạc ròng. Như vậy cá chết do bị nhiễm vi khuẩn nhưng kết quả
quan sát mô da-cơ cá của nghiệm thức này qua các ngày thu mẫu không phát
hiện có sự biến đổi nhiều so với cá khỏe. Điều này có thể là do cấu trúc cơ
quan này khá rắn chắc, không giữ vai trò quan trọng trong quá trình tạo máu
nên ít bị ảnh hưởng bởi vi khuẩn được gây cảm nhiễm (Hybiya, 1982).

Hình 2: Cấu trúc da-cơ cá (H&E, 100X).
A. Da cá khỏe, a. Lớp biểu bì; b. Lớp bì; c. Lớp hạ bì. B. Da cơ cá bệnh, a. Lớp biểu
bì; b. Lớp bì; c. Lớp hạ bì; d. cơ vân.
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

293
3.2.2 Mang
Khảo sát mô mang cá bệnh tiêm vi khuẩn ở mật độ 4,23x10
1
-4,23x10
6
CFU/ml
vào các thời điểm thu mẫu thấy mô mang có những biến đổi như: sợi mang sơ
cấp và thứ cấp phình to, dính lại và mất hẳn. Kết quả phân tích mô mang cá
bệnh được trình bày qua Bảng 1.
Bảng 1: Kết quả phân tích mô mang cá bệnh
Ngày
Thu mẫu
Nghiệm thức tiêm vi khuẩn (CFU/ml)

ĐC 10
1
10
2
10
3
10
4
10
5
10
6

Thứ 1 bt
Thứ 3 bt bt bt bt bt bt bt
Thứ 5 bt bt bt bt Sợi mang sơ
cấp phình to
Sợi mang thứ cấp
dính lại và phình
to
Thứ 10 bt bt bt bt Sợi mang
thứ cấp
phình to
Sợi mang thứ
cấp phình to
Sợi mang thứ cấp
dính lại
Thứ 14 bt bt bt bt Sợi mang
thứ cấp mất
hẳn

Sợi mang sơ
cấp gãy và mất
hẳn
Sợi mang thứ cấp
dính lại
Ghi chú: (ĐC): đối chứng, (bt): bình thường
Kết quả ở Bảng 1 và Hình 4 cho thấy cấu trúc mang bị biến đổi có các hiện
tượng phình to sợi mang thứ cấp và sơ cấp, các sợi mang thứ cấp dính lại. Tuy
nhiên hiện tượng phình to các sợi mang sơ cấp và thứ cấp chỉ bắt đầu được ghi
nhận từ ngày thu mẫu thứ 5 đối với nghiệm thức có mật độ vi khuẩn 4,23x10
5
-
4,23x10
6
CFU/ml. Đến ngày thứ 10 mô mang ở các nghiệm thức này tiếp tục bị
biến đổi và ở nghiệm thức 4,23x10
4
CFU/ml cấu trúc mang cũng bắt đầu bị
biến đổi. Đến ngày thu mẫu cuối cùng cá bị nhiễm bệnh nặng với tỷ lệ cao, mô
mang bị mất cấu trúc hoàn toàn và không có khả năng hồi phục. Các nghiệm
thức còn lại và nghiệm thức đối chứng với tỷ lệ chết khi qua 14 ngày thu mẫu
tương đối thấp (>20%) nên khi quan sát mô mang hầu như không nhận thấy
những biến đổi so với mang cá khỏ
e (Hình 3A). Nhìn chung mức độ biến đổi ở
mang không nghiêm trọng. Sự biến đổi xuất hiện ở lượng mẫu không lớn chủ
yếu ở nghiệm thức tiêm vi khuẩn với mật độ 10
4
-10
6
CFU/ml và biến đổi chậm

qua thời gian gây cảm nhiễm, có thể do mang không giữ vai trò quan trọng
trong quá trình tạo máu nên ít bị biến đổi do vi khuẩn gây bệnh.

Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

294
Hình 3: A. Mang cá khỏe (H&E,
40X). a: Sợi mang sơ cấp, b: Sợi mang
thứ cấp; B. Gan cá khỏe (H&E, 100X).
a: Đảo tụy, b: Tỉnh mạch trung tâm, c:
Tế bào gan, d: Trung tâm đại thực bào
sắc tố; C. Thận cá khỏe (H&E, 100X).
a: tiểu cầu thận, b: ống thận, c: trung
tâm đại thực bào sắc tố, d: mô kẽ.

Hình 4: Mang cá bệnh ở ngày thu mẫu thứ 10 (H&E, 40X).
A. Sợi mang thứ cấp dính lại (a), sợi mang thứ cấp mất hẳn (b). B. Vùng nhiều sợi
mang sơ cấp gãy
.
3.2.3 Gan
Khảo sát mô gan cá bệnh ở các mật độ cảm nhiễm vi khuẩn khác nhau qua các
ngày thu mẫu ghi nhận được các hiện tượng sung huyết, xuất huyết, hoại tử
được trình bày ở Bảng 2.
A
B
C
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

295
Bảng 2: Kết quả phân tích mô gan cá bệnh

Ngày
Thu mẫu
Nghiệm thức tiêm vi khuẩn (CFU/ml)
ĐC 10
1
10
2
10
3
10
4
10
5
10
6

thứ 1 bt
thứ 3 bt bt bt bt bt Dãy tế bào gan
mất liên kết
Sung huyết tĩnh
mạch
thứ 5 bt bt bt bt Dãy tế bào
gan mất liên
kết, sung
huyết
Hoại tử
hạt,sung huyết
Hoại tử hạt
nhiều vùng gan
mất cấu trúc

thứ 10 bt bt bt sung
huyết
Sung huyết,
hoại tử hạt vài
vùng
Hoại tử gần hóa
lỏng nhiều
vùng, sung
huyết
Hoại tử gần hóa
lỏng nhiều
vùng, sung
huyết
thứ 14 bt bt bt Bt Sung huyết Sung huyết, có
dịch viêm
Sung huyết, có
dịch viêm
Ghi chú: (ĐC): đối chứng, (bt): bình thường
Kết quả ở Bảng 3, Hình 5 và 6 cho thấy ở ngày đầu tiên cảm nhiễm với mật độ
vi khuẩn 10
5
CFU/ml so gan cá khỏe (Hình 3B) mẫu vẫn giữ nguyên cấu trúc
và chưa có những biến đổi. Đến ngày thu mẫu thứ 3, dãy tế bào gan mất liên
kết, bắt đầu có hoại tử dạng hạt ở những mẫu tiêm mật độ vi khuẩn 4,23x10
5

CFU/ml, 4,23x10
6
CFU/ml. Hiện tượng hoại tử xuất hiện nhiều trên tế bào gan
vào ngày thu mẫu thứ 5 và hoại tử ngày càng nghiêm trọng ở ngày thu mẫu thứ

10. Gan hoại tử gần như hóa lỏng, đảo tụy xuất huyết, vùng hoại tử tạo thành
nhiều khoảng không bào. Đến ngày thứ 14 những vùng sung huyết tế bào máu
phân hủy tạo thành dịch viêm, tế bào hồng cầu hủy hoại, nhân tan, tế bào chất
trở nên đồng nhất bắt màu Eosin.
So với các nghiệm thức có mật độ vi khuẩn 10
4
-10
6
thì các nghiệm thức có mật
độ vi khuẩn từ 10
1
-10
3
và nghiệm thức đối chứng gan hầu như không có biến
đổi, hoặc chỉ biến đổi ở mức độ nhẹ không đáng kể. Điều này có thể do mật độ
vi khuẩn thấp không đủ khả năng gây bệnh cho cá nên không làm tổn thương
gan. Trong khi đó ở nghiệm thức có mật độ vi khuẩn 4,23x10
6
CFU/ml làm tổn
thương gan sớm, nhiều vùng hoại tử ở mức độ nghiêm trọng hơn so với nghiệm
thức có mật độ vi khuẩn 4,23x10
4
CFU/ml; 4,23x10
5
CFU/ml.
Khi cá mới bắt đầu nhiễm bệnh quan sát mô gan thấy có hiện tượng mất liên
kết giữa các tế bào. Biểu hiện này là do sự xung huyết trong hệ thống mao
mạch nằm giữa các tế bào gan, quá trình này kéo dài dẫn đến vỡ mạch máu và
giải thoát nhiều enzym tiêu hóa (tiêu hóa protein, lipid…) từ các tế bào bạch
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ


296
cầu làm cho tế bào ở vùng viêm bị hủy hoại dẫn đến hoại tử. Những tổn thương
này làm cho gan không còn chức năng khử độc, lọc máu, chuyển hóa protein,
lipid, glucid, tiết mật, làm cho chất độc không được loại bỏ sẽ tích lũy trong cơ
thể kết hợp với các yếu tố khác làm cho cá chết (Robert, 1978).


Hình 5: Gan cá bệnh ở ngày thu mẫu thứ 10 (H&E, 100X).
A. Gan cá hoại tử, a: Đảo tụy sung huyết, b: dãy tế bào gan mất liên kết. B. Gan bị hoại
tử gần như hóa lỏng. C. Gan hoại tử, a: đảo tụy xuất huyết, b: nhiều vùng hoại tử tạo
khoảng không bào. D. Đảo tụy hoại tử dạng hạt

Hình 6: Gan cá bệnh ở ngày thu mẫu thứ 14 (H&E, 100X).
A. Vùng tế bào gan có dịch viêm (mũi tên). B. Vùng tế bào gan bị sung huyết (mũi tên)

Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

297
3.2.4 Thận
Quá trình biến đổi cấu trúc mô thận ở cá điêu hồng nhiễm vi khuẩn S.
agalactiae chủng S09-01 xảy ra các hiện tượng như sung huyết, xuất huyết,
hoại tử được ghi nhận qua Bảng 3.
Bảng 3: Kết quả phân tích mô thận cá bệnh
Ngày
Thu mẫu
Nghiệm thức tiêm vi khuẩn (CFU/ml)
ĐC 10
1
10

2
10
3
10
4
10
5
10
6

thứ 1 bt
thứ 3 bt bt bt Bt Sung huyết Sung huyết Sung huyết
thứ 5 bt bt bt Bt Sung huyết,
xuất huyết
Hoại tử hạt,
sung huyết
Hoại tử hạt nhiều
vùng
thứ 10 bt bt bt sung
huyết
Hoại tử Hoại tử Hoại tử gần hóa
lỏng nhiều vùng,
thứ 14 bt bt bt Bt Sung huyết,
có dịch viêm
Sung huyết, có
dịch viêm
Sung huyết, có
dịch viêm
Ghi chú: (ĐC): đối chứng, (bt): bình thường
Qua Bảng 3, Hình 7 và 8 cho thấy bắt đầu ngày thu mẫu thứ 3 có 3 nghiệm

thức với mật độ vi khuẩn 4,23x10
4
CFU/ml; 4,23x10
5
CFU/ml; 4,23x10
6

CFU/ml mô thận bị sung huyết. Theo Đỗ Thị Hòa và ctv. (2004) hiện tượng
sung huyết xảy ra là do kích thích đặc biệt làm cho mao mạch nở ra một lượng
máu lớn hơn bình thường được đưa đến gần ổ viêm. Hiện tượng sung huyết
được xem là phản ứng đầu tiên của cơ thể đối với tác nhân gây bệnh. Đến ngày
thu mẫu thứ 5 bên cạnh hiện tượng sung huyết, thận có thêm biểu hiện xuất
huyết, hoại tử hạt. Theo Robert (1989) giải thích biểu hiện của sự xuất huyết là
khi cơ quan bị viêm, lúc này cơ thể sẽ huy động một lượng lớn các tế bào hồng
cầu vùng bị viêm, khi quá trình này diễn ra quá mức dẫn đến các mao mạch bị
vỡ làm cho các tế bào máu thoát ra ngoài xen lẫn với các tế bào của cơ quan,
quá trình này kéo dài dẫn đến hoại tử mất cấu trúc. Hiện tượng hoại tử hạt và
sau đó là hoại tử gần như hóa lỏng được ghi nhận vào ngày thu mẫu thứ 10 ở
các nghiệm thức có mật độ vi khuẩn lần lượt là 4,23x10
4
CFU/ml; 4,23x10
5

CFU/ml; 4,23x10
6
CFU/ml. Đây là giai đoạn ghi nhận cá bị bệnh nặng nhất với
việc gần như biến mất của ống thận và tiểu cầu thận, còn quản cầu thận sung
huyết phình to và vỡ ra gây ra hiện tượng xuất huyết khắp thận và quản cầu
thận hoại tử. Robert (1978) cho rằng hiện tượng hóa lỏng xảy ra do vi khuẩn
tiết độc tố dẫn đến sự phân hủy của các enzym trong tế bào. Ở ngày thu mẫu

cuối cùng mô thận chỉ có hiện tượng bị sung huyết và dịch viêm, có thể ở giai
đoạn này cá đang phục hồi cấu trúc, lượng máu lớn tập trung ở thận để thực
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

298
hiện trao đổi oxy cung cấp cho việc tái tạo cấu trúc cũng như đào thải chất độc
và tác nhân gây bệnh (các tế bào bạch cầu và tế bào limpho).
Kết quả khảo sát mô thận ở Bảng 3 cũng cho thấy ở nghiệm thức đối chứng và
các nghiệm thức tiêm mật độ vi khuẩn từ 4,23x10
1
-4,23x10
3
CFU/ml qua các
ngày thu mẫu thì mô thận hầu như không bị biến đổi. Những nghiệm thức tiêm
mật độ vi khuẩn từ 4,23x10
4
-4,23x10
6
CFU/ml thì vi khuẩn làm cho mô thận bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Nghiệm thức có mật độ vi khuẩn 4,23x10
6
CFU/ml
qua các ngày thu mẫu hoại tử dạng hạt đến gần như hóa lỏng. Thận bị hoại tử
làm mất đi những chức năng quan trọng của thận như điều hòa áp suất thẩm
thấu, bài tiết, sản xuất hồng cầu cũng như tiết hormone điều hòa các quá trình
sinh lý của cơ thể.


Hình 7: Thận cá biến đổi cấu trúc ở ngày thu mẫu thứ 10 (H&E, 100X).
A. Thận hoại tử, a: quản cầu thận phình to, b: quản cầu thận hoại tử. B. Thận bị hoại

tử, a: hoại tử gần như hóa lỏng, b: hắc tố

Hình 8: Thận bị hoại tử ở ngày thu mẫu thứ 14 (H&E, 100X).
A. Thận bị hoại tử, a: vùng xuất huyết, b: vùng nhiều dịch viêm. B. Thận cá bị hoại tử,
a: vùng sung huyết, b: vùng dịch viêm
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

299
3.2.5 Tỳ tạng
Tương tự như gan và thận, tỳ tạng cũng là một trong những cơ quan nhạy cảm
với tác nhân gây bệnh đặc biệt là vi khuẩn nên tỳ tạng rất dễ vỡ và bị tổn
thương. Kết quả phân tích mô tỳ tạng cá bệnh ở các nghiệm thức tiêm mật độ
vi khuẩn khác nhau qua các ngày thu mẫu ghi nhận được các hiện tượng sung
huyết, xuất huyết, hoạ
i tử được với các mức độ biến đổi phụ thuộc vào mật độ
vi khuẩn và thời gian gây cảm nhiễm (Bảng 4).
Bảng 4: Kết quả phân tích mô tỳ tạng cá bệnh
Ngày
Thu mẫu
Nghiệm thức tiêm vi khuẩn (CFU/ml)
ĐC 10
1
10
2
10
3
10
4
10
5

10
6

thứ 1 bt
thứ 3 bt bt bt bt Sung huyết Sung huyết Sung huyết, xuất
huyết
thứ 5 bt bt bt bt Sung huyết,
xuất huyết
Hoại tử hạt,
sung huyết
Hoại tử hạt nhiều
vùng
thứ 10 bt bt bt bt Hoại tử Hoại tử gần như
hóa lỏng
Hoại tử gần hóa
lỏng nhiều vùng,
thứ 14 bt bt bt bt Sung huyết,
có dịch viêm
Sung huyết, có
dịch viêm
Sung huyết, có
dịch viêm

Tỳ tạng bắt đầu có hiện tượng sung huyết ở ngày thu mẫu thứ 3, đến ngày thứ 5
mô tỳ tạng xuất huyết, hoại tử hạt, lúc này trung tâm đại thực bào sắc tố giảm
chuyển từ màu vàng nâu sang màu nâu tối và gần như hoại tử hóa lỏng ở ngày
thu mẫu thứ 10 (Hình 9 và 10). Ở ngày thu mẫu cuối cùng nhận thấy tỳ tạng bị
hoại tử nghiêm trọng, sung huyêt có dịch viêm. Sự biến đổi cấu trúc tỳ tạng
qua các ngày thu mẫu chỉ xảy ra ở các nghiệm thức tiêm từ 4,23x10
4

-4,23x10
6

CFU/ml. Còn đối với các nghiệm thức tiêm từ 4,23x10
1
-4,23x10
3
CFU/ml và
nghiệm thức đối chứng, mô tỳ tạng hầu như không biến đổi.
Khi bị sung huyết, xuất huyết tế bào sưng viêm kéo dài dẫn đến những vùng
hoại tử xuất hiện trên diện rộng cùng với sự phá hủy của trung tâm đại thực
bào sắc tố sẽ làm cho tỳ tạng mất chức năng tạo tế bào bạch cầu và tế bào
limpho chống lại tác nhân vi khuẩn gây bệ
nh, mất khả năng tiêu hủy hồng cầu
già cũng như không thể tái tạo hồng cầu mới cung cấp cho cơ thể. Các hiện
tượng này kéo dài có thể làm cho cơ thể cá bị thiếu máu hoặc tạo nên sự tắc
nghẽn mạch máu do dịch viêm của tế bào, mặt khác sẽ tạo nên sự sưng viêm
của các tế bào trong mô làm thay đổi cấu trúc tế bào và nặng hơn là tạo những
vùng hoại tử mất hết cấu trúc và chức năng (Hybiya, 1982).
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ

300



Hình 9: A. Cấu tạo của tỳ tạng cá khỏe (H&E, 40X).
a: Tủy đỏ; b: Tủy trắng. B. Vùng tỳ tạng cá bệnh bị hoại tử hạt ở ngày thứ 3 (mũi tên).

Hình 10: Tỳ tạng cá bệnh ở ngày thu mẫu thứ 5 và 10 (H&E, 40X).
A. Vùng tỳ tạng bị hoại tử. B. Vùng tỳ tạng bị hoại tử có xuất hiện dịch viêm (mũi tên)

Nhìn chung khi khảo sát ở 5 cơ quan cá thì 3 cơ quan bị biến đổi qua từng ngày
thu mẫu ở các nghiệm thức tiêm mật độ vi khuẩn cao là gan, thận, tỳ tạng.
Trong đó mô thận, tỳ tạng bị biến đổi sớm nhất ở mật độ vi khuẩn 4,23x10
6

CFU/ml khi thu mẫu ở ngày thứ 3. Điều này cho thấy thận và tỳ tạng là cơ
quan bị vi khuẩn tấn công đầu tiên. Tuy nhiên đến này thu mẫu thứ 5 ở các
nghiệm thức tiêm vi khuẩn 4,23x10
4
, 4,23x10
5
và 4,23x10
6
CFU/ml mô cá biến
đổi ở cả 3 cơ quan gan, thận, tỳ tạng với các hiện tượng sung huyết, xuất huyết,
hoại tử hạt. Có thể nói rằng ở thời điểm này độc lực vi khuẩn đủ mạnh gây chết
cá số lượng nhiều và làm cho các cơ quan này bị hoại tử. Tỷ lệ cá chết cao
được ghi nhận ở ngày thu mẫu thứ 10 trên các nghiệm thức có mật độ vi khuẩn
4,23x10
6
, 4,23x10
5
và 4,23x10
4
CFU/ml với tỷ lệ chết lần lượt là 82%, 38%,
42%. Khi quan sát mô ta thấy cấu trúc gan, thận, tỳ tạng sung huyết nặng, hoại
tử hóa lỏng gần như hoàn toàn. Khi gan, thận, tỳ tạng hoại tử gần như hoàn
toàn làm cho cá không còn thực hiện được quá trình trao đổi chất của cơ thể
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 289-301 Trường Đại học Cần Thơ


301
cùng với ảnh hưởng của độc tố vi khuẩn làm cho cá chết. Đến ngày thu mẫu
cuối cùng ở nghiệm thức có mật độ vi khuẩn 4,23x10
6
CFU/ml cá chết hoàn
toàn. Quan sát mô gan, thân, tỳ tạng bị hoại tử nặng, không có khả năng phục
hồi. Điều này cho thấy sức đề kháng của cá không đủ mạnh để đào thải các tác
nhân gây bệnh làm cho cá chết.

4 KẾT LUẬN
Cấu trúc mô thận và tỳ tạng biến đổi đầu tiên dưới ảnh hưởng của vi khuẩn gây
bệnh (sung huyết ở nghiệm thức 4,23x10
4
- 4,23x10
6
CFU/ml). Gan biến đổi
chậm hơn (sung huyết ở nghiệm thức 4,23x10
5
- 4,23x10
6
CFU/ml). Cấu trúc
mang ít bị biến đổi (hiện tượng dính lại, phình to của các sợi mang thứ cấp và
sơ cấp ở ngày thu mẫu thứ 5 của nghiệm thức 4,23x10
5
-4,23x10
6
CFU/ml). Mô
da-cơ không ghi nhận được sự biến đổi qua các ngày thu mẫu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Herrera, A.A., 1996. Histology of Tilapia Oreochromis niloticus. University of the

Philippines Diliman, 81pp.
Hybiya, T. 1982. An atlas of histology (Normal and Pathological features).
College of Agriculture and Veterinary Medicine, Nihon Univ. Tokyo, Japan.
146p.
Inglis, V., R.J. Roberts, N.R. Bromage, 1993. Bacterial disease of fish. 196-210.
Robert, R.J. 1978. Fish pathology. Institute of Aquacuture, University of Stirling.
Bailliere Tindall, London. 318 pp.
Robinson, J.A. and F.P. Meyer, 1966. Streptococcal fish pathogen. Journal of
Bacterriology, 92-512.

×