Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Kiến Trúc Điêu Khắc Đình Làng Bắc Bộ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.19 KB, 26 trang )



Kiến Trúc Điêu Khắc
Đình Làng Bắc Bộ

Ở mỗi một làng quê đồng bằng Bắc Bộ, kiến trúc gây ấn
tượng nhất đối với du khách là đình làng. Trải qua thời gian,
rêu phong đã làm cho ngôi đình trở nên cổ kính. Mái đình
xoè rộng, bốn đầu đao cong vút, bộ cột đình đồ sộ, ao làng
soi bóng ngôi đình trầm mặc, dường như đình làng chỉ còn
sống với thời đã qua.

Nghệ thuật điêu khắc đình làng ở Bắc Bộ

Nhưng khi bước vào bên trong đình, không khí mát dịu làm
ta như trút bỏ vướng mắc của đời sống, chìm vào không gian
tâm linh bao bọc xung quanh để tĩnh trí mà chiêm bái trước
đức Thành Hoàng làng, nhìn ngắm những hình chạm khắc
trên kiến trúc. Và ta hiểu rằng ngôi đình đang ôm vào bên
trong, thầm lặng giữ gìn một di sản nghệ thuật vô giá, mà đến
ngày hôm nay nhìn ngắm nó vẫn thấy hiển hiện, xôn xao đời
sống xã hội mấy trăm năm về trước và để lại những giá trị to
lớn về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật.

Nhìn một cách khái quát, nghệ thuật điêu khắc đình làng ở
đồng bằng Bắc Bộ phát triển từ những bước đầu tiên ở thế kỷ
XVI, đạt dấu ấn rực rỡ đỉnh cao ở thế kỷ XVII, chững lại,
chín muồi ở thế kỷ XVIII và thoái trào ở thế kỷ XIX. Có thể
nói, giá trị nhiều mặt mà điêu khắc đình làng để lại tập trung
ở di sản điêu khắc đình làng thế kỷ XVI - XVII. Điêu khắc
đình làng của 2 thế kỷ này đại diện điển hình nhất cho toàn


bộ nghệ thuật điêu khắc ở đồng bằng Bắc Bộ.

Các thủ pháp tạo hình của điêu khắc đình làng:

1.cái nhìn trẻ thơ:
Điêu khắc trang trí đình làng là tác phẩm của những nghệ
nhân nông dân Bắc Bộ. Nghệ thuật của họ xuất phát từ đời
sống và cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nông
dân. “Nó được sản sinh trong khoảng khắc lịch sử mà tinh
thần dân tộc vùng dậy tưng bừng nhất, mà nền văn nghệ dân
gian thắng thế nhất”. Chắc chắn khi sáng tạo để phản ánh, tái
tạo hiện thực và giải toả những ẩn ức, họ không bị câu thúc
từ bất cứ những quy chuẩn tạo hình nào. Trong họ đồng thời
có 2 con người: người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc
điêu luyện và người nghệ sĩ với sự tự do trong tưởng tượng,
phản ánh, bộc lộ cái cảm tự thân về hiện thực, bằng bất kỳ
thủ pháp nào mà họ cho là phù hợp. Nhiều thủ pháp tạo hình
được sử dụng để sáng tạo ra các bức chạm khắc, thể hiện cái
nhìn hồn nhiên, mộc mạc, hóm hỉnh, đầy sức sống như cái
nhìn của trẻ thơ .

2.Đồng hiện:

Đồng hiện là thủ pháp tạo hình cho phép người nghệ sỹ trên
một mặt phẳng cùng một lúc có thể tái hiện nhiều hoạt cảnh
của đời sống với không gian, thời gian khác nhau. Từ xa xưa
thủ pháp tạo hình này đã có mặt ở nhiều nền mỹ thuật thế
giới. Cách đây hơn hai nghìn năm, từ thời văn hóa Đông Sơn,
trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, người nghệ nhân xưa đã dùng
thủ pháp đồng hiện để diễn tả lễ hội vòng đời. Người (múa,

giã gạo, đánh trống ), chim, thú, thuyền cùng một lúc
trong vòng quay vũ trụ. Thủ pháp tạo hình này phản ánh hiện
thực theo quy luật riêng của nó.
Nhiều hoạt cảnh trong phù điêu trang trí đình làng đã dùng
thủ pháp này. Hoạt cảnh sinh hoạt xã hội ở đình Thổ Tang
(Vĩnh Phúc) diễn tả cùng một lúc nhiều hoạt động rất khác
nhau như cảnh cưỡi ngựa, cùng hàng có quan ngồi uống
rượu, có người hầu, cùng lúc bên cạnh có người đang cày
ruộng Trang trí trên cốn đình Hương Canh (Vĩnh Phúc) có
cảnh đi săn, quan cưỡi ngựa, cảnh đấu vật, người hái củi,
người ngồi thiền Chạm khắc đình Hạ Hiệp (Hà Tây) diễn tả
cảnh một người đang đút quan tài vào miệng rồng (theo tích
mả táng hàm rồng), cạnh đó có hai người đang đánh vật, bên
trên có người đang ngồi bó gối, trung tâm bức chạm là một
đầu rồng lớn và hai con rồng nhỏ.
Nhưng ở đình Phù Lão (Bắc Giang), có lẽ, người nghệ sỹ
nông dân đã sử dụng thủ pháp này một cách thoả mái nhất.
Chúng ta hãy xem kỹ một hoạt cảnh với năm nhân vật được
chạm trên ván giong liền với bẩy. Một cô gái khoả thân ngồi
trên râu rồng, làn tóc dài vắt ra phía trước. Tuy hai tay đã bị
gãy, nhưng có thể đoán được rằng cô đang tết tóc. Phía dưới
cô gái, một cặp nam nữ đang nhẩy múa, trên nền cảnh phía
sau là một dải mây vờn. Cô gái mặc áo dài, tóc búi ngược,
tay cầm quạt đang mở xoè, chân đang nhún nhẩy, tay chống
ngang sườn. Chàng trai cởi trần, mặc quần cộc, tay đang
dang ra bên cạnh bạn gái. Dịch về phía bên trong là một cặp
nam nữ đang tỏ tình, với tư thế sống động. Chàng trai như
đang hăm hở xông đến, còn cô gái vén váy kéo sát người tình
về phía mình. Phía xa, một chú khỉ vắt vẻo ngồi cười ở mỏm
bẩy. Một con rồng nhô ra, trông thật ngộ nghĩnh, làm tăng

tính hài hước của hoạt cảnh. Toàn bộ các tình huống được
diễn ra trên nền là một con rồng lớn, làm tăng tính huyền
thoại cho hoạt cảnh. Bức chạm đã diễn tả đồng thời nhiều
hoạt động, dường như không cùng một thời gian, không gian.
Thủ pháp đồng hiện thể hiện tính dân chủ của cộng đồng làng
xã, một đặc điểm khá nổi bật của văn hóa làng.

3.Cường điệu:

Cường điệu là một thủ pháp nghệ thuật được nhiều ngành
nghệ thuật khác nhau sử dụng như văn học, sân khấu Trong
nghệ thuật tạo hình, thủ pháp cường điệu là tăng kích thước
đường nét, hình khối, màu sắc để nhấn mạnh ý đồ, gây sự
chú ý về mặt thị giác. Do đó mà hình tượng được nổi bật và
gây được ấn tượng hơn. Chúng ta cũng đã bắt gặp thủ pháp
này trong những tượng mồ ở Tây Nguyên.

Những người nghệ sỹ nông dân đã sử dụng nhiều thủ pháp
này trong các bức chạm khắc của mình. Nhân vật được rút
ngắn chiều cao, thường thấp lùn quá mức. Chẳng hạn theo tỷ
lệ giải phẫu một thân có chiều cao 6 đến 7 đầu, thì nhân vật
trong những bức chạm khắc đình làng thường là 3 đến 4 đầu.
Bức chạm người múa (đình Thổ Hà, Bắc Giang) có tỷ lệ chỉ
hơn 2 đầu, có cánh tay dài quá cỡ. Điểm nhấn của bức chạm
là khuôn mặt của người thiếu nữ. Tượng người ôm gà chọi
thì con gà được phóng to gấp nhiều lần so với thực tế; tượng
người cưỡi voi thì ngược lại con voi lại quá nhỏ so với người
(đình Chu Quyến, Hà Tây) Nhiều khi thân người phía dưới
bị lược bỏ ra khỏi mặt phẳng (hoạt cảnh trai gái vui đùa ở
đình Hạ Hiệp, Hà Tây). Thái Bá Vân cho rằng: “Chúng (thủ

pháp-NVC) tìm một giá trị tự tại, chứ không tìm một giá trị
mô phỏng, cho nên, trên đường biểu hiện, chúng sẵn sàng từ
bỏ bề ngoài, mà nhận lấy những vô lý trước tự nhiên. Biết
bao cánh tay vươn dài gấp đôi, hay teo lại chỉ bằng một phần
ba cách tay bình thường. Những tỷ lệ bị ấn tẹt xuống, những
khớp xương bị bẻ quẹo, những liên lạc về khối và đường nét
không thể có trong không gian thực, thế mà, ở đây, lại hết
sức hợp lý và thuận cảm”.

Khi dùng thủ pháp cường điệu để làm nổi bật ý đồ, người
nghệ sỹ nông dân nhiều khi đã giảm thiểu, lược bỏ chi tiết
đến mức tối đa, hoặc ngược lại dùng thủ pháp tăng cường tối
đa chi tiết trên nền cảnh, để đối tượng thường được để khối
thô mộc được tôn lên. Bức chạm đánh vật (đình Phù Lão,
Bắc Giang), người múa (đình Thổ Hà, Bắc Giang), tắm đầm
sen (đình Đông Viên, Hà Tây), bốn người uống rượu trên đầu
bẩy (đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc) nền cảnh để phẳng, hoặc
chỉ sử dụng đường nét rất hạn chế. Bức chạm bốn nụ cười nổi
tiếng (đình Hưng Lộc, Nam Định) thì nền cảnh với bụi cây
lớn phía sau được chạm trổ rất kỹ, với nhiều chi tiết.

4.Nhiều điểm nhìn:

Nhiều điểm nhìn là thủ pháp cùng một lúc đưa nhiều góc
nhìn ở các vị trí khác nhau về một đối tượng lên một mặt
phẳng. Thủ pháp nghệ thuật này đã có mặt trong nền mỹ
thuật thổ dân châu Phi, đã được Picátxô sử dụng trong các
bức tranh theo trường phái lập thể của mình. Thủ pháp nhiều
điểm nhìn mở rộng khả năng biểu đạt, thể hiện được sự đa
diện, phức tạp của sự vật. Trong các bức chạm khắc đánh cờ

ở đình Hạ Hiệp (Hà Tây), đình Ngọc Bích (Vĩnh Phúc) người
nghệ nhân đã đưa hai điểm nhìn từ trên xuống và nhìn ngang,
tạo ra bố cục đặc sắc. Bàn cờ ở vị trí trung tâm, có hình
vuông như nhìn từ trên xuống, còn các nhân vật lại như nhìn
ngang theo phối cảnh, mặc dầu bố cục của chạm khắc không
theo định luật xa gần.

5.Kết hợp huyền thoại và hiện thực, trang trí và tả thực:

Trong chạm khắc trang trí người nghệ nhân xưa đã kết hợp
hai yếu tố của cõi huyền và cõi thực thông qua thủ pháp kết
hợp trang trí và tả thực vào trong một bố cục, tạo nên đặc
trưng độc đáo của điêu khắc đình làng. Ngay từ những chạm
khắc của những ngôi đình từ thế kỷ XVI đã thể hiện rõ tư duy
này. Hai cô tiên có cánh, tay cầm hoa sen đứng (hay là bay)
hai bên, ở giữa có hai người cầm quạt ngồi; những vân xoắn
lớn đầy chất trang trí như những đám mây thiêng, trùm phía
trên, phía dưới có người mẹ gánh hai đứa con dường như
đang vội vã đi chợ; voi lồng, voi cày trong nền cảnh đầy chất
trang trí huyền thoại với những họa tiết vân xoắn lớn (đình
Tây Đằng). Hai người đánh vật được tạc rất mộc mạc, sinh
động ở giữa, hai bên có hai rồng chầu hai bên (đình Phù
Lưu) Đặc biệt ở ngôi đình cổ nhất Việt Nam vừa mới phát
hiện gần đây, đình Thụy Phiêu (Hà Tây) được dựng năm
1531, trên cột của gian gác thờ, được làm bổ sung vào thế kỷ
XVII, có chạm trổ hình rồng với đường nét chạm khắc mang
tính nghiêm nhặt, nhưng ở đuôi rồng phía trên người nghệ
nhân tạc một con lợn béo, khối thô mộc. Cột bên cạnh phía
dưới, một con thạch sùng dường như đang vờn với con rồng.
Con rồng tâm linh và con lợn, con thạch sùng hiện thực. Đó

là hai thế giới đối lập nhau và ở đó còn chứa đựng một nụ
cười về thế sự, nhân sinh.

Sang thế kỷ XVII, khuynh hướng này ngày càng được sử
dụng rộng rãi trong nhiều ngôi đình. ở đình Chu Quyến hoạt
cảnh uống rượu, đánh cờ, đánh vật trên nền cảnh những con
rồng vây quanh. Chạm khắc đình Giang Xá có hoạt cảnh một
người ngồi bó gối, sau vai có hai con rồng quấn phía sau. Rồi
giữa hoạt cảnh của nhiều hoạt động như đi săn (có hai người
gánh một con thú săn được), phía sau có một con chó săn,
cảnh hái củi, dắt ngựa có con rồng huyền thoại bình thản
hoà mình vào khung cảnh của đời sống hiện thực (đình
Hương Canh, Vĩnh Phúc).

Thế kỷ XVIII thủ pháp này được sử dụng hạn chế dần, ở đình
Dư Hàng (Hải Phòng) có một bức chạm đầu rồng, dưới ngay
miệng rồng có một con chó quay đầu lại nhìn vào mặt rồng.
Dường như người nghệ sỹ nông dân trong khi sáng tạo đồng
thời sống trong cõi thực và cõi mơ.

Danh họa Trần Văn Cẩn nhận định: “Xem trong nghệ thuật
cổ truyền dân tộc, thì rõ ràng chính cái vốn về chạm trổ lại
giàu có, độc đáo còn hơn cả vốn hội họa về những đức tính
tạo hình rất sáng tạo của người xưa, đã kết hợp nhuần nhuyễn
tài tình hai tính chất tưởng như không đi được với nhau: tính
hiện thực với tính trang trí”.

Từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến XIX, chạm khắc trong đình
làng đã giảm sút về số lượng và chất lượng. Các đề tài có tính
quy phạm, nghiêm nhặt như Tứ linh, Tứ quý và hoa lá, mà ít

có những hoạt cảnh đời sống.

6.Biểu tượng hóa:

Khi giao lưu với văn hóa Trung Hoa, người Việt tiếp thu
nhiều môtíp trang trí có tính biểu tượng. Thủ pháp sử dụng
những môtíp trang trí có tính biểu tượng được người nghệ
nhân dân gian thể hiện tập trung trong những ngôi đình
muộn, nhất là những đình làng thời Nguyễn (khi xây mới
hoặc khi trùng tu đình làng vào thời Nguyễn). Với thủ pháp
này, nhiều đề án trang trí có tính biểu tượng đã được sử dụng.
Đứng đầu Tứ linh là con rồng với nhiều lớp nghĩa. Lớp nghĩa
đầu tiên con rồng là biểu tượng cho mây, mưa, sấm chớp với
tâm thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp, sau khi tiếp thu
văn hóa Trung Hoa thì con rồng mang biểu tượng cho uy
quyền của bậc quân vương. ở những ngôi đình thế kỷ XVI,
môtíp rồng đã được chạm khắc rất nhiều trên kiến trúc; sau
đó môtíp rồng - tiên có biểu tượng cho ý nghĩa cội nguồn
“con rồng cháu tiên”. Trong đình làng, con rồng làm tăng “uy
quyền” của Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần của làng. Con
lân, linh vật huyền thoại, biểu trưng cho ước vọng thái bình;
quy (rùa) biểu tượng cho sự trường tồn, trường thọ và
phượng biểu tượng cho hạnh phúc, sang quý. Có một điều
chúng ta nhận thấy: hiếm khi 4 linh vật được sử dụng trong
một đề án trang trí mà thường sử dụng cặp đôi như rồng -
phượng hoặc lân - quy.

Trong Tứ linh có bổ sung 4 con vật nữa để thành Bát vật. Đó
là ngư-phúc-hạc-hổ. Ngư (cá) gắn với truyền thuyết “cá hóa
rồng” biểu tượng cho sự thành đạt, hanh thông; phúc (dơi)

biểu tượng cho phúc đức; hạc biểu tượng cho sự cao khiết và
trường thọ; hổ là chúa sơn lâm, biểu tượng cho sức mạnh, có
thể trấn áp tà ma.

Trong Tứ quý có 4 loài cây: mai - biểu tượng cho sự hồn
nhiên; lan - biểu tượng cho sự tinh khiết; cúc - biểu tượng
cho sự thanh nhàn mà sang trọng; trúc - thể hiện tính cách
cứng rắn của người quân tử. Đồng thời Tứ quý còn mang ý
nghĩa của 4 mùa trong năm.

Ngoài ra các môtíp trang trí cặp đôi như: rồng-phượng, lưỡng
long chầu nguyệt, phượng hàm thư, tiên-rồng đều giàu tính
biểu tượng, thể hiện ước vọng về sự cao sang, hạnh phúc,
trường thọ, phúc lộc dồi dào.

Đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc đình làng


Với sự phong phú về đề tài phản ánh, đa dạng về thủ pháp
tạo hình và trình độ cao về kỹ thuật chạm khắc gỗ, điêu khắc
đình làng có một số đặc trưng cơ bản:

7.Hồn nhiên, mộc mạc, sinh động trong phản ánh hiện thực:

Điêu khắc trang trí đình làng thực sự là cuốn biên niên sử về
làng xã đồng bằng Bắc Bộ mấy trăm năm qua. Các hoạt cảnh
của những phù điêu đình làng Bắc Bộ đã làm hiển hiện trước
mắt chúng ta cuộc sống của những người nông dân Bắc Bộ.
Đề tài phản ánh hiện thực khá phong phú đa dạng. Hoạt động
của đời sống thường nhật của những người nông dân dường

như vẫn xôn xao, cuồn cuộn sống động trong những ngôi
đình làng còn tồn tại đến ngày nay.

Các sinh hoạt của muôn mặt đời thường như: cho con bú, tắm
đầm sen, uống rượu, đánh cờ, đá cầu, cho lợn ăn, đi săn, đánh
hổ, đi cày, đánh vật, chải tóc, gãi chân cho nhau đến cảnh
quan quân cướp bóc dân lành, phạt vạ, táng mả hàm rồng,
vinh quy bái tổ, hội làng đều được người nghệ sỹ nông dân
đưa vào các bức chạm khắc một cách hồn nhiên, làm cho
người ta có cảm tưởng cuộc sống chạy thẳng vào tác phẩm
chạm khắc, mà không tuân theo một quy định nào về nghệ
thuật, quan điểm, thẩm mỹ.

Nhiều chi tiết có tính chất dân tộc học của xã hội truyền
thống ở mảng chạm khắc, cung cấp cho chúng ta thông tin về
những nhân vật cụ thể thuộc những tầng lớp khác nhau như:
lính, quan võ, quan văn, nông dân, người biểu diễn xiếc Rồi
những chi tiết về y phục, trang sức của nhiều người khác
nhau như: cái khố, khẩu súng kíp, mũ, nón quai thao, cái
yếm, để tóc trần, tóc dài Chính tính hiện thực phong phú đã
làm nên giá trị lịch sử đặc sắc cho điêu khắc đình làng. Bằng
những nhát đục bạt khoẻ khoắn, thô phác, với cảm hứng sáng
tạo dạt dào, hiện thực cuộc sống ở làng dường như lung linh,
sinh động cho đến ngày nay.

8.Khái quát cao trong thủ pháp tạo hình:

Sự độc đáo của nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng thể
hiện ở tính khái quát cao trong thủ pháp xây dựng tác phẩm
như nhấn mạnh trọng tâm, biết chọn những vấn đề quan trọng

nhất để diễn tả, phản ánh, hướng người xem vào nội dung,
giản lược về hình thức, để không ảnh hưởng đến quá trình tri
giác. Các chạm khắc đình làng đã bỏ qua định luật xa gần,
những nguyên tắc về giải phẫu, bố cục, tính hợp lý của hiện
thực, để tạo ra một sự hợp lý của nghệ thuật do người nghệ
sỹ dân gian sáng tạo ra.

Để đạt được mục đích này người nghệ nhân dân gian đã sử
dụng nhiều thủ pháp tạo hình như: thủ pháp đồng hiện, để mở
rộng không gian, thời gian; thủ pháp cường điệu, gây ấn
tượng bằng cách nhân cách hóa nhân vật; thủ pháp nhiều
điểm nhìn để tạo ra cái nhìn lập thể đặc sắc; thủ pháp biểu
tượng hóa để thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan. Người
nghệ nhân xưa quan niệm cái đẹp, cái hợp lý tựu trung là
phải “thuận mắt”. Gợi, tạo liên tưởng, quan trọng hơn tả.

9.Giàu tính nhân bản:

Phù điêu trang trí đình làng đồng bằng Bắc Bộ là bài ca về
cuộc sống và con người. Tính trữ tình và biểu cảm tràn ngập
trong các bức chạm khắc. Người nông dân Bắc Bộ sống hoà
hợp với thiên nhiên, muông thú. Các môtíp cây-hoa-lá rất
nhiều và luôn quấn quýt xung quanh nhân vật. Những cảnh
sinh hoạt được phản ánh rất bình dị như: mẹ cho con bú,
gánh con, chăn lợn, cày ruộng, dắt ngựa, uống rượu, chọi gà,
đánh vật, làm xiếc, hội làng Nguyễn Đỗ Cung đã nhận
định: “Cảnh vật tự nhiên mộc mạc, cuộc sống và những cuộc
đấu tranh hàng ngày liền được biểu hiện với những hình thức
giản dị, trực tiếp, vật và người trong đời sống bình thường
được thể hiện trong nghệ thuật, lấn át những con vật thần

thoại và những nhân vật có tính ước lệ cao”.

Việt Nam là đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn
khốc, nhưng bản chất trọng tình cảm đã khiến trong các tác
phẩm điêu khắc của những người nghệ sỹ-nông dân hầu như
không có đề tài chiến tranh, chủ yếu là những đề tài ca ngợi
tình cảm đằm thắm của con người với con người, con người
với thiên nhiên, muông thú, như: cảnh trai gái vui đùa, tắm
đầm sen, đấu vật Không chỉ tình cảm của con người mà
tình cảm của con vật cũng được biểu hiện sinh động mạnh
mẽ như bức chạm “rồng ổ” (rồng mẹ với đàn rồng con) ở rất
nhiều đình làng, cảnh đàn khỉ đang ôm ấp đùa nghịch nhau
(đình Hưng Lộc, Nam Định) Trong các tác phẩm điêu khắc
đình làng cũng không có những nhân vật hung ác. Con rồng
là linh vật thiêng liêng, qua bàn tay tạo tác của người nghệ
nhân cũng trở nên quen thuộc. Cô tiên trong đồ án trang trí
thần thoại như: tiên-hạc, tiên-rồng, tiên múa, tiên đánh đàn
trông rất bình dị, hiền lành như những cô thôn nữ ở làng.

Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ được thể hiện khá phong
phú. Tư tưởng Nho giáo coi phụ nữ là “phụ nhân nan hóa”, “
thập nữ viết vô”; phong bế dục vọng, nam nữ “thụ thụ bất
thân” thì trong điêu khắc đình làng các người nghệ sĩ nông
dân công khai bộc lộ dục vọng, lạc thú của con người, miêu
tả một cách hiện thực cảnh trai gái tình tự, giao hoan, cảnh
phụ nữ khỏa thân, tắm đầm sen như ở đình Đông Viên (Ba
Vì, Hà Tây), đình Đại Phùng (Hoài Đức, Hà Tây), đình Phù
Lão (Lạng Giang, Bắc Giang) Có thể nói, đề tài của điêu
khắc trang trí đình làng đã hướng về con người, thể hiện
những nhu cầu sống, những khát vọng, ước mơ về một cuộc

sống no đủ, lạc thú, hạnh phúc và thanh bình của những
người nông dân chất phác mộc mạc, yêu đời.

10.Tính lưỡng nguyên trong nghệ thuật tạo hình:

Đặc tính này cũng thể hiện tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp của
người Việt. Trần Quốc Vượng (1996) đã nhận định: “ý niệm
lưỡng phân và lưỡng hợp này còn đeo đuổi tư duy Việt cổ
nhiều lắm, lâu lắm”.

Tính lưỡng nguyên trong thủ pháp tạo hình điêu khắc đình
làng đã kết hợp những yếu tố nhiều khi trái ngược nhau về
tính chất như: trang trí với tả thực; kết hợp phù điêu với
tượng tròn; đường nét với hình khối; kết hợp thủ pháp cách
điệu hóa có tính biểu tượng, với hoạt cảnh có tính khái quát;
đưa những chủ đề trái ngược nhau vào một bố cục như yếu tố
thiêng vào một khung cảnh của đời sống hiện tại.

Nghệ thuật điêu khắc đình làng chứa đựng những giá trị tạo
hình độc đáo, thể hiện xu hướng có tính lưỡng nguyên, đó là
xu hướng nhập thế và thoát ly. Hai xu hướng này đan xen vào
nhau, tuy đậm nhạt có lúc khác nhau. Thế kỷ XVI - XVII, xu
hướng nhập thế thể hiện tính trội, khi các hoạt cảnh của đời
sống tràn vào các ngôi đình với cảm hứng dạt dào. Chính nó
đã làm nên giá trị độc đáo nhất của điêu khắc đình làng. Từ
thế kỷ XVIII trở đi, xu hướng nhập thế giảm dần nhường chỗ
cho xu hướng thoát ly có nhiều nhiều yếu tố tâm linh, tín
ngưỡng. Xu hướng thoát ly được tăng cường cùng với việc sử
dụng nhiều mô típ trang trí có tính biểu tượng, nhằm sùng bái
và linh thiêng hóa vị Thành Hoàng làng, nhất từ khi nhà

Nguyễn đưa Nho giáo về vị trí độc tôn. Trong điêu khắc ở
các ngôi đình đã vắng bóng đề tài cuộc sống. Các bức chạm
khắc với đề tài mang tính công thức, thiên về trang trí.

Có thể xem xét tính lưỡng nguyên qua bảng so sánh sau:

1 - Tính chất Kết hợp - Cách tạo hình kết hợp Trang trí và
hoạt cảnh

2 - Tính chất Loại hình - Cách tạo hình kết hợp Phù điêu và
Tượng tròn, Đường nét và Hình khối

3 - Tính chất Thủ pháp - Cách tạo hình kết hợp Cách điệu và
Tả thực, Biểu tượng hóa và Khái quát hóa

4 - Tính chất Cách thức - Cách tạo hình kết hợp Nhiều chi
tiết và Ít chi tiết, không có khoảng trống và có khoảng trống

5 - Tính chất Xu hướng - Cách tạo hình kết hợp Thoát ly và
Nhập thế,

6 - Tính chất Chủ đề - Cách tạo hình kết hợp Cái thiêng và
Cái hiện thực

Đình làng - một thiết chế văn hóa tín ngưỡng xuất hiện vào
cuối thời Lê sơ, đã được đã được các học giả người Pháp
nghiên cứu từ khá sớm, nhưng với hệ quy chiếu của thẩm mỹ
Hy -La, họ đã bỏ qua điêu khắc đình làng, mà không nhìn ra
giá trị đích thực của chúng. Ngày hôm nay, với ánh sáng của
nghệ thuật hiện đại, điêu khắc đình làng (mà loại hình nổi bật

là phù điêu) thực sự được đánh giá và tôn vinh là một di sản
văn hóa, di sản mỹ thuật quý báu của dân tộc.



Chú thích:

1. Trẻ em, với cái nhìn từ bỏ lý tính, thường vẽ tranh với cái
nhìn đồng hiện, cường điệu, nhiều điểm nhìn Danh họa
Matisse (1869-1954), người mở đầu cho trường phái Dã thú
và Rousseau (1844-1910), người khai sinh trường phái Ngây
thơ (Naif) cũng được coi đã sử dụng con mắt trẻ thơ để nhìn
và phản ánh thế giới, đã làm một cuộc cách mạng về thẩm
mỹ trong nghệ thuật tạo hình đầu thế kỷ XX.

2, 3. Thái Bá Vân, Tiếp xúc nghệ thuật, Viện Mỹ thuật, Hà

×