Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
TÀI HOÀNG NHẬT QUANG
CẤU TRÚC MÔ CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN
TRÊN TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN
2008
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
TÀI HOÀNG NHẬT QUANG
CẤU TRÚC MÔ CỦA CÁC HỆ CƠ QUAN
TRÊN TÔM CÀNG XANH (Macrobrachium rosenbergii)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. PHẠM THANH LIÊM
KS. HOÀNGTUẤN
2008
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
i
LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần trong suốt thời gian
học tập và hoàn thành đề tài tốt nghiệp của Ban chủ nhiệm Khoa, Bộ Môn Sinh Học và
Bệnh Học Thủy Sản, Khoa Thủy Sản trường Đại học Cần Thơ.
Xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Thanh Liêm và anh Hoàng Tuấn đã hướng
dẫn và đóng góp ý kiến tận tình trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn tất cả thầy cô trong và ngoài Khoa đã giảng dạy trong suốt thời
gian theo học tại trường Đại Học Cần Thơ.
Xin cảm ơn gia đình và tất cả các bạn lớp Bệnh Học Thủy Sản K30 đã hỗ trợ và
động viên trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Người thực hiện.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
ii
TÓM TẮT
Các báo cáo trong những năm gần đây cho thấy trên tôm càng xanh xuất hiện nhiều
bệnh như: bệnh đục thân, bệnh HPV… gây ra những thiệt hại không ít cho người nuôi.
Do đó, đề tài “Cấu trúc mô của các hệ cơ quan trên tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii)” được thực hiện nhằm xác lập bộ sưu tập về cấu trúc mô bình thường của
các cơ quan trên tôm càng xanh từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu về mô bệnh học.
Kết quả phân tích trên tổng số 40 mẫu tôm khỏe thu ở Cần Thơ sử dụng phương pháp
mô học bước đầu xác định được cấu trúc mô của các cơ quan trên tôm như: mang, gan
tụy, cơ, ruột, cơ quan lympho.
Trong đó, cấu tạo của từng cơ quan đã quan sát được bao gồm:
Cơ quan mang: trục chính, sợi mang sơ cấp, sợi mang thứ cấp, tế bào biểu mô, lớp
cutium.
Cơ quan dạ dày: lớp biểu mô, tế bào biểu mô, cối xay vị, lớp mô liên kết, xoang mặt
lưng, xoang mặt bụng.
Cơ quan gan tụy: các ống tiểu quản gan tụy, xoang, sợi biểu mô cơ, diềm bàn chải, tế
bào máu, tế bào R, tế bào F, tế bào B.
Cơ quan ruột: phiến nền, lớp cơ dọc, lớp biểu mô, tế bào biểu mô.
Cơ quan lymphoid: Ống bạch huyết, tế bào đệm cơ bản, xoang.
Cơ: Sợi cơ, bó cơ, nhân.
Xác lập được bộ sưu tập hình ảnh về cấu trúc mô học các cơ quan trên tôm càng xanh
với 24 hình.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm tạ i
Tóm tắt ii
Mục lục iii
Danh sách hình v
Chương 1: Giới thiệu 1
Chương 2: Tổng quan tài liệu 3
2.1 Tổng quan nghề nuôi tôm càng xanh 3
2.1.1 Nghề nuôi tôm càng xanh trên thế giới 3
2.1.2 Nghề nuôi tôm càng xanh tại Đồng Bằng Sông Cửu Long 3
2.1.3 Đặc điểm sinh học của tôm càng xanh 4
2.2 Một số bệnh thường gặp trên tôm càng xanh 5
2.2.1 Bệnh do vi khuẩn 5
2.2.2 Bệnh do ký sinh trùng 6
2.2.3 Bệnh do vi-rút 6
2.3 Phương pháp mô học 7
2.3.1 Quá trình phát triển của kỹ thuật nghiên cứu mô học 7
2.3.2 Phương pháp nghiên cứu mô học 8
2.3.3 Một số nghiên cứu về mô học trên tôm 10
2.4 Một số nghiên cứu mô học trên tôm càng xanh 14
Chương 3: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 16
3.1 Phương pháp thu mẫu nghiên cứu 16
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu 16
3.2 Phương pháp phân tích mẫu 16
3.2.1 Kỹ thuật mô học 16
3.2.2 Phương pháp làm tiêu bản mẫu mô 18
3.2.3 Thu thập và xử lý số liệu 21
Chương 4: Kết quả và thảo luận 22
4.1.1 Cấu tạo vi thể của mang 22
4.1.2 Cấu tạo vi thể của dạ dày 25
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
iv
4.1.3 Cấu tạo vi thể của gan tụy 28
4.1.4 Cấu tạo vi thể của ruột 32
4.1.5 Cấu tạo vi thể của cơ quan lymphoid 35
4.1.6 Cấu tạo vi thể của cơ 37
Chương 5: Kết luận và đề xuất 40
5.1 Kết luận 40
5.2 Đề xuất 40
Tài liệu tham khảo 41
Phụ lục 45
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
v
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1 Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) 4
Hình 2.2 Cấu tạo của lớp kitin 10
Hình 2.3 Cấu tạo của mang 11
Hình 2.4 Cấu tạo của tuyến râu 11
Hình 2.5 Cấu tạo chi tiết ống mạch của cơ quan lymphoid 12
Hình 2.6 Cấu tạo vách xoang trước dạ dày 12
Hình 2.7 Cấu tạo của ruột giữa 13
Hình 2.8 Cấu tạo 3 đoạn của ống tiểu quản gan tụy 13
Hình 2.9 Cấu tạo chung của gan tụy 13
Hình 3 Cấu tạo cơ thể của tôm 17
Hình 4.1 Cấu trúc đại thể của mang 23
Hình 4.2 Cấu tạo vi thể của sợi mang sơ cấp 23
Hình 4.3 Cấu trúc đại thể của mang 24
Hình 4.4 Cấu trúc vi thể của mang 24
Hình 4.5 Cấu tạo đại thể của dạ dày (10X) 26
Hình 4.6 Cấu tạo đại thể của dạ dày ở mặt cắt dọc 26
Hình 4.7 Cấu tạo vi thể lớp biểu mô dạ dày (40X) 27
Hình 4.8 Cấu tạo vi thể lớp sàng lọc dạ dày 27
Hình 4.9 Cấu tạo 3 đoạn của ống tiểu quản gan tụy ở mặt cắt dọc 29
Hình 4.10 Cấu tạo đại thể của ống tiếu quản gan tụy ở mặt cắt ngang 30
Hình 4.11 Cấu tạo đoạn đầu của ống tiểu quản gan tụy 30
Hình 4.12 Cấu trúc vi thể bình thường của ống gan 31
Hình 4.13 Cấu tạo đoạn giữa ống tiểu quản gan tụy 31
Hình 4.14 Cấu tạo đoạn cuối ống tiểu quản gan tụy 32
Hình 4.15 Cấu tạo đại thể của ruột (10X) 33
Hình 4.16 Cấu tạo vi thể của ruột (40X) 34
Hình 4.17 Cấu tạo vi thể của ruột giữa (40X) 34
Hình 4.18 Cấu tạo vi thể của của phiến nền 35
Hình 4.19 Cấu tạo vi thể của cơ quan lymphoid 36
Hình 4.20 Cấu tạo vi thể của ống mạch cơ quan lymphoid 37
Hình 4.21 Cấu tạo vi thể của ống mạch cơ quan lymphoid 37
Hình 4.22 Cấu tạo vi thể của cơ tôm càng xanh ở mặt cắt dọc 38
Hình 4.23 Cấu tạo vi thể của cơ tôm càng xanh ở mặt cắt dọc 39
Hình 4.24 Cấu tạo vi thể của cơ tôm càng xanh ở mặt cắt ngang 39
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế trọng điểm của Việt
Nam, trong những năm gần đây, ngành thủy sản đã và đang phát triển mạnh
mẽ, góp phần làm kinh tế của nước nhà tăng trưởng và cho giá trị kim ngạch
xuất khẩu cao. Ước tính giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 12/2007
đạt 320 triệu USD, nâng tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả năm
2007 đạt 3.752 triệu USD, bằng 104% kế hoạch và tăng 12% so với năm 2006
(Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, 2007). Trong thập niên 90, ngành
thủy sản của nước ta chủ yếu là khai thác thủy sản, và là khai thác thủy sản xa
bờ. Nhưng những năm gần đây, nguồn lợi thuỷ sản đánh bắt ven bờ cạn kiệt,
nguồn lợi hải sản ở các ngư trường có dấu hiệu sụt giảm, nên để đảm bảo hiệu
quả sản xuất, nhiều ngư dân đã chuyển sang nuôi trồng thủy sản nước mặn và
ngọt. Nuôi thủy sản nước ngọt phát triển khá nhanh cả về sản lượng và diện
tích, đặc biệt là nuôi cá tra, basa thâm canh, cá nuôi bè do nhu cầu chế biến cá
tra xuất khẩu của các doanh nghiệp rất lớn và nhu cầu tiêu thụ trong nước khá
cao. Ngoài cá tra, nhiều loại thủy sản có giá bán ổn định ở mức cao đang được
nuôi rộng rãi như: cá bống tượng, cá chình, tôm sú, tôm thẻ, tôm càng xanh
Trong đó, tôm càng xanh là một loài thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao,
có giá trị xuất khẩu và được nuôi rộng rãi ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu
Long như Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long. Năm 2000, các tỉnh
Đồng Bằng Sông Cửu Long có hơn 6000 ha nuôi tôm càng xanh, đạt sản
lượng 1400 tấn (Bùi Quang Tề, 2003). Trong vài năm qua, sản lượng càng
xanh giống nhân tạo được sản xuất tăng lên đáng kể nên đã thúc đẩy nghề nuôi
tôm thương phẩm phát triển. Các mô hình nuôi tôm càng xanh chính hiện nay
là nuôi trên ruộng lúa, nuôi mương vườn, nuôi thâm canh, bán thâm canh
trong ao và nuôi đăng quầng. Năng suất tôm nuôi trên ruộng đạt 500-1200
kg/ha/vụ và nuôi đăng quầng đạt 1,25 tấn/ha/vụ (Nguyễn Thanh Phương,
1999). Với ưu thế dễ nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế cao, loài tôm này đã giúp
nhiều nhà nông tận dụng được diện tích mặt nước và mang lại thu nhập cho
nông hộ. Chính vì thế, nuôi tôm càng xanh đang thu hút mạnh mẽ sự quan tâm
đầu tư của nhiều người.
Song việc phát triển một cách nhanh chóng, chưa có qui hoạch và kỹ thuật
nuôi còn hạn chế đã dẫn đến tình trạng bệnh tôm xảy ra thường xuyên. Từ
năm 1993-1994 đến nay, bệnh tôm thường xuất hiện ở các vùng nuôi tôm, từ
nuôi quảng canh đến nuôi thâm canh, bệnh đã gây thiệt hại đáng kể cho nghề
nuôi tôm (Bùi Quang Tề, 2003). Các tác nhân gây bệnh trên tôm càng xanh
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
2
như: vi-rút, vi khuẩn, ký sinh trùng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe
cũng như sản lượng của tôm nuôi. Ở nước ta, các nghiên cứu về bệnh tôm
càng xanh nuôi trong mương vườn, ao và ruộng lúa đã khởi động từ đầu
những năm 1990. Trường Đại học Cần Thơ, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng
Thuỷ Sản II đã có nhiều nghiên cứu về bệnh trên loài tôm này như: bệnh phù
mắt, bệnh HPV, bệnh đốm nâu….Bên cạnh đó, các kỹ thuật chẩn đoán bệnh
thủy sản cũng được phát triển với nhiều kỹ thuật và phương pháp như: kỹ
thuật hóa mô miễn dịch, kỹ thuật nuôi vi sinh vật, các kỹ thuật huyết thanh, kỹ
thuật PCR. Đặc biệt, phương pháp mô dựa trên thủ thuật nhuộm tế bào và
quan sát dưới kính hiển vi nhằm giúp người xét nghiệm có thể quan sát và kết
luận những tổn thương ở các mô tế bào, đồng thời kết hợp với các phương
pháp xét nghiệm khác để nâng cao tính chính xác trong việc chẩn đoán bệnh.
Tuy nhiên, bộ sưu tập về cấu trúc mô khỏe của một số loài thủy sản còn hạn
chế nên gây ra những khó khăn trong việc so sánh, chẩn đoán bệnh. Do đó, đề
tài “Cấu trúc mô của các hệ cơ quan trên tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii)” được thực hiện nhằm để góp phần nghiên cứu về cấu trúc đại thể
và vi thể của các hệ cơ quan trên loài tôm này.
Mục tiêu đề tài
Xác lập bộ sưu tập về cấu trúc mô của các cơ quan trên tôm càng xanh làm cơ
sở cho việc nghiên cứu về mô bệnh học.
Nội dung của đề tài
1. Thu mẫu tôm càng xanh được đánh bắt từ tự nhiên tại thành phố Cần Thơ.
2. Sử dụng phương pháp mô học nghiên cứu cấu trúc đại thể và vi thể của các
hệ cơ quan như: mang, dạ dày, gan tụy, cơ, ruột, cơ quan lympho.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
3
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tổng quan nghề nuôi tôm càng xanh
2.1.1 Trên thế giới
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) phân bố từ Nam và Đông Nam
Châu Á đến Bắc Úc và các đảo ở Tây Thái Bình Dương. Tổng sản lượng tôm
càng xanh của thế giới hằng năm khoảng 27.000 tấn, trong đó Thái Lan (44%),
Việt Nam (32%), Đài Loan (17%) là những quốc gia có sản lượng cao. Việt
Nam có sản lượng tôm càng xanh biến động từ 5.000 đến 8.000 tấn, phần lớn
sản lượng tôm thu được từ khai thác tự nhiên (Lavens & Sorgeloos, 1995).
Hiện nay, trên thế giới tôm càng xanh được nuôi bằng nhiều hình thức như
nuôi thâm canh và bán thâm canh trong bể xi măng hay trong ao, nuôi trong
lồng, nuôi ghép với cá rô phi hay cá chép. Năng suất nuôi rất khác nhau theo
mức độ thâm canh và hình thức nuôi. Ở Thái Lan, nuôi thâm canh trong ao có
thể đạt năng suất từ 6-8 tấn/ha hay nuôi thâm canh trong bể xi măng ở Mỹ đạt
năng suất 4,5-5 tấn/ha. Tuy nhiên, nếu nhìn về năng suất bình quân của từng
quốc gia thì cũng có sự khác nhau. Đài Loan có năng suất bình quân 2,5-3
tấn/ha, Thái Lan 1-1,5 tấn/ha. Tất cả các nước trên thế giới đều sử dụng nguồn
giống nhân tạo để nuôi hoặc là thả trực tiếp tôm Postlarvae 15-20 ngày tuổi
hay tôm đã qua giai đoạn ương lên giống (Lavens & Sorgeloos, 1995).
2.1.2 Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long
Hiện nay, các tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long: Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền
Giang, An Giang đang thu hoạch rộ trên 2.000 ha tôm càng xanh nuôi trên
chân ruộng trong vụ nuôi 2007 với kết quả rất khả quan. Với năng suất bình
quân 1,5 tấn đến 0,2 tấn/ ha và giá bán bình quân 90.000 đồng/kg, mỗi ha cho
nông dân thu nhập 50 đến 70 triệu đồng/ha, cao gấp 0,3 – 0,4 lần so với trồng
lúa và là vụ tôm thắng lợi lớn nhất từ trước đến nay (Bộ Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn, 2007).
Các địa phương có diện tích nuôi tôm càng xanh trên chân ruộng lớn bao gồm
Đồng Tháp trên 700 ha, tăng gần gấp đôi so với năm 2006 tập trung tại các
huyện Tam Nông và Thanh Bình; An Giang khoảng 500 ha tập trung tại huyện
Thoại Sơn. Thành phố Cần Thơ khoảng 500 ha tập trung tại các huyện ngoại
thành: Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh. Tiền Giang tập trung tại hai huyện Cai Lậy và Cái
Bè. Mô hình luân vụ tôm càng xanh trên chân ruộng theo kiểu 2 vụ lúa 1 vụ
nuôi thủy sản hoặc 2 vụ tôm 1 vụ lúa đang được các tỉnh đầu nguồn xem là nội
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
4
dung quan trọng trong chủ trương chung sống với lũ lụt sông Cửu Long hàng
năm, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập và cải thiện
đời sống cho nông hộ tại các địa bàn khó khăn. Ngoài ra còn tạo thêm nguồn
nông sản hàng hóa có giá trị xuất khẩu, chỉ tính Đồng Tháp với 700 ha tôm
càng xanh đã đạt sản lượng trên 1.100 tấn cung ứng cho nhu cầu chế biến xuất
khẩu. Tại xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn vùng nuôi tôm càng xanh lớn nhất
tỉnh An Giang sang năm 2008 có kế hoạch mở rộng diện tích từ 450 ha hiện
nay lên 650 ha và năm 2010 lên 1.000 ha. Huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang
cũng đã đầu tư 0,4 tỷ đồng kiện toàn cơ sở vật chất hạ tầng, khuyến khích 100
hộ dân xã Tân Hội chuyển từ độc canh cây lúa sang mô hình 2 vụ tôm 1 vụ
lúa/mỗi năm. Thắng lợi của vụ tôm càng xanh luân canh trên chân ruộng năm
2007 định hướng cho các tỉnh chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình tôm càng
xanh lúa trong những năm tiếp theo trên diện rộng bằng những giải pháp tích
cực như quy hoạch vùng, chuyển giao kỹ thuật, mở rộng mạng lưới cung ứng
con giống tốt cho nông dân (Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn,
2007).
2.1.3 Đặc điểm sinh học của tôm càng xanh
Hình 2.1 Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii)
Tôm càng xanh là loài tôm nước ngọt có kích thước lớn nhất trong một trăm
loài thuộc giống Macrobrachium. Vị trí phân loại theo hệ thống phân loại của
Holthuis (1980).
Ngành tiết túc: Arthropoda
Lớp giáp xác: Crustaceae
Bộ mười chân: Decapoda
Họ tôm sông Palaemonidae
Giống Macrobrachium
Loài Macrobrachium rosenbergii
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
5
Tôm càng xanh có nguồn gốc ở Đông Nam Á. Tôm được di nhập vào vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới và trở thành đối tượng quan trọng của
nghề nuôi thủy sản (New và Singholka, 1982).
Tôm càng xanh là loài giáp xác có vòng đời khá đặc biệt. Ở giai đoạn ấu trùng
(18-35 ngày sau khi nở) tôm phải sống trong nước lợ, sang giai đoạn tôm bột
đến tôm trưởng thành tôm sống chủ yếu trong nước ngọt. Nhưng tôm có thể
sống và sinh trưởng bình thường ở nước lợ nhẹ (dưới 10%
0
). Chính vì vậy mà
vào mùa sinh sản tôm càng xanh thường di cư ra vùng nước lợ (vùng cửa
sông) để ấu trùng nở ra, sống và phát triển. Ấu trùng trải qua 11 lần lột vỏ mới
thành tôm bột. Tôm bột dần dần di chuyển vào trong vùng nước ngọt để lớn
lên và chu kỳ sống sẽ lặp lại vào mùa sinh sản tiếp theo. Nếu ấu trùng nở ra
không gặp nước lợ sẽ chết sau đó từ 2-3 ngày. Tôm càng xanh thích nghi với
phạm vi nhiệt độ rộng từ 18-34
0
C, nhưng nhiệt độ tốt nhất đối với tôm là 26-
31
0
C, pH thích hợp cho tôm càng xanh từ 6,5 cho đến 8,5. Ngoài khoảng này
tôm có thể sống được nhưng sinh trưởng kém. Bên cạnh đó, lượng Oxy hòa
tan trong môi trường nuôi tôm cũng phải lớn hơn 4 mg/l để đảm bảo cho sự
sinh trưởng và phát triển của tôm. Tôm thích ánh sáng vừa (khoảng 400 lux),
ánh sáng cao sẽ ức chế hoạt động của tôm. Tôm càng xanh có tính hướng
quang vào ban đêm và tôm lớn sẽ có tính hướng quang kém hơn tôm nhỏ
(Dương Nhựt Long, 2004).
Sự sinh trưởng của tôm đực và cái gần như tương đương nhau cho đến khi đạt
kích cỡ 30-50g, sau đó chúng sẽ khác nhau rõ theo giới tính. Tôm đực sinh
trưởng nhanh hơn tôm cái và có thể đạt trọng lượng gấp đôi tôm cái trong
cùng một thời gian nuôi. Tôm cái khi bắt đầu thành thục (trọng lượng khoảng
30-40g) thì sinh trưởng giảm vì nguồn dinh dưỡng tập trung lại cho sự phát
triển của buồng trứng. Một hiện tượng thường thấy trong nuôi tôm càng xanh
là sự phân đàn khá rõ kể cả trong cùng một nhóm giới tính. Tôm càng xanh đẻ
quanh năm nhưng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có hai mùa tôm đẻ chính là
tháng 4-6 dương lịch và tháng 8-10 dương lịch. Tôm cái lần đầu thành thục
vào khoảng 90-115 ngày kể từ tôm bột. Tuy nhiên, tuổi và kích cỡ thành thục
của tôm còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như môi trường và thức ăn (Dương
Nhựt Long, 2004).
2.2 Một số bệnh thường gặp trên tôm càng xanh
2.2.1 Bệnh do vi khuẩn
Bệnh đục cơ của tôm càng xanh
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
6
Tác nhân gây bệnh là cầu khuẩn Lactococcus garvieae (Enterococcus
seriolicida) gram dương, hình quả trứng.
Tôm kém ăn, hoạt động chậm chạp, đầu tiên cơ phần đuôi chuyển sang màu
trắng đục sau lan dần lên phía đầu ngực. Vỏ tôm mềm (khi luộc chín chuyển
sang màu đỏ ít) tỷ lệ tôm chết cao.
Khi tôm càng xanh bị bệnh đục cơ, quan sát mẫu cắt mô dưới kính hiển vi có
hiện tượng phù nước ở giữa vỏ và cơ dưới. Trong cơ có các ổ hoại tử với
khuẩn lạc vi khuẩn. Có thể tìm thấy ổ hoại tử trong mặt cắt mô gan tụy. Cầu
khuẩn Lactococcus garvieae làm cơ tôm bị hoại tử, mất cấu trúc ban đầu và có
hiện tượng xuất huyết (Bùi Quang Tề, 2003).
2.2.2 Bệnh do ký sinh trùng
Bệnh do Epistylis, Zoothamnium, Tokophrya, Acineta, Vorticella là các ký
sinh trùng đơn bào dạng hình loa kèn.
Tôm yếu, hoạt động khó khăn. Các sinh vật bám làm cản trở hoạt động và làm
mất chức năng hô hấp của tôm, đặc biệt gây tác hại lớn đối với ấu trùng tôm.
Nếu các sinh vật bám này cảm nhiễm trên tôm ở mức độ thấp thì chỉ cần lột
xác thì tôm sẽ khỏi bệnh, nhưng nếu tôm bị cảm nhiễm ở mức độ cao thì
chúng sẽ ngăn cản quá trình lột xác ức chế sinh trưởng và có thể gây chết
(AAHRI, 1997).
Kiểm tra mô bệnh học trên mang tôm thì phát hiện Epistylis và
Zoomthamnium ký sinh trên mang của tôm, chúng bắt màu tím của thuốc
nhuộm H&E và làm hoại tử mang tôm (Bùi Quang Tề, 2003).
2.2.3 Bệnh do vi-rút
Bệnh Hepatopancreatic parvovirus (HPV)
Do nhóm Parvovirus có cấu trúc acid nhân là ADN, đường kính 22-24 nm.
Vi-rút ký sinh trong nhân tế bào gan tụy, biểu bì ruột trước, chúng làm hoại tử
và sưng to nhân ký chủ. Tôm nhiễm vi-rút HPV thường bỏ ăn hoặc ăn ít, hoạt
động yếu. Gan tôm bị teo lại hoặc hoại tử, hệ cơ bụng đục mờ, hiện tượng chết
thường xảy ra ở tôm ấu trùng, tỷ lệ chết từ 50-100%.
Kiểm tra mô bệnh học, tế bào gan tụy của tôm nhiễm bệnh HPV thì quan sát
thấy có thể vùi nằm trong tế bào biểu bì mô gan tụy dạng hình ống. Thời kỳ
đầu thường nhỏ nằm ở trung tâm của nhân, sau lớn dần nằm gần kín nhân (bắt
màu Eosin màu đỏ đến đỏ sẫm). Trong thể vùi có chứa nhiều vi-rút (Bùi
Quang Tề, 2003).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
7
2.3 Phương pháp mô học
2.3.1 Quá trình phát triển của kỹ thuật nghiên cứu mô học
Việc nghiên cứu tế bào và mô học bắt đầu từ thế kỷ XVII nhưng mãi cho đến
gần cuối thế kỷ XIX, Tế bào học và Mô học mới thực sự được coi là ngành
khoa học. Cuối thế kỷ XIX, sau khi học thuyết tế bào ra đời thì ngành Mô học
mô tả bắt đầu phát triển mạnh. M. Malpighi (1624-1694) là một trong số
những nhà khoa học Châu Âu đã có hàng loạt các phát hiện có giá trị trong
việc nghiên cứu tế bào và mô. Vào khoảng những năm 1675-1680, ông đã mô
tả cấu tạo của da, thận, lách và một số cơ quan khác trên cơ thể, do đó một số
cấu trúc đã mang tên ông. Năm 1677, người thợ kính Hà Lan Anatolie
Leeuwenhoek đã chế tạo được chiếc kính hiển vi có độ phóng đại đối tượng
quan sát tới 300 lần. Từ đó, ông đã có khả năng mô tả hồng cầu và sự vận
chuyển chúng trong các mao mạch máu, phát hiện tinh bào, nhìn thấy những
vạch sáng, tối của sợi cơ vân, cấu tạo sợi thần kinh, sợi gân. Tuy vậy, việc
nghiên cứu cấu tạo vi thể của cơ thể động vật được tiến hành muộn hơn so với
việc nghiên cứu thực vật. Vào năm 1825-1827, Purkinje mô tả nhân của noãn
trong trứng gà và sau đó chính ông đã mô tả bào tương của tế bào. Ít năm sau,
Brown (1831) cũng mô tả nhân của tế bào thực vật. Những kết quả nghiên cứu
của những nhà khoa học kể trên cũng như những công trình nghiên cứu của
Dutrochet, Valentin, Schleiden đã giúp cho T. Schwann xây dựng và công bố
học thuyết tế bào vào năm 1839 (trích dẫn bởi Phạm Phan Địch, 2004).
Những thành công lớn lao trong kỹ thuật mô học ở nửa thế kỷ XIX như việc
chế tạo ra máy cắt lát mỏng (microtone) cho phép nghiên cứu tỉ mỉ cấu trúc vi
thể của tế bào và mô. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực nghiên cứu cấu
tạo vi thể tế bào đã cho phép tách việc nghiên cứu tế bào thành một phần riêng
biệt trong Mô học gọi là Tế bào học. Học thuyết tế bào không chỉ là cơ sở của
việc nghiên cứu cấu tạo mô bình thường mà còn là cơ sở của việc nghiên cứu
những thay đổi bệnh lý của mô, cơ quan và đồng thời nó cũng là cơ sở của
việc nghiên cứu những hoạt động sinh lý. Mô học, một môn học của sinh học
và là khoa học nghiên cứu sự phát triển, cấu tạo và hoạt động của các mô, các
cơ quan, các bộ máy của cơ thể. Mô học có quan hệ qua lại với nhiều môn học
khác trong ngành Sinh học như Hình thái học, Sinh lý học, Phôi học… (Trần
Đắc Định, 2004).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
8
2.3.2 Phương pháp nghiên cứu mô học
Mô bệnh học là phương pháp xác định các tổn thương ở các mô tế bào dựa
trên các thủ thuật nhuộm tế bào và quan sát dưới kính hiển vi. Phương pháp
này cho phép người phân tích kết luận tính chất của các vùng bị tổn thương.
So sánh và đối chiếu với các kết quả quan sát bên ngoài là công việc rất cần
thiết để có được một chẩn đoán đúng. Nếu chỉ dựa vào hình thái tổn thương
bên ngoài mà không có các dữ kiện khác có liên quan đến cá tôm bệnh thì
thường có những kết luận sai lầm vì những hình thái tổn thương của vài bệnh
có thể giống nhau và gây nhầm lẫn trong chẩn đoán.
Phương pháp mô học nghiên cứu cấu trúc mô ở mức độ hiển vi và mô bệnh
học là một chuyên môn hẹp của phương thức mô học đề cập tới quá trình phát
triển bệnh. Mô bệnh học là một kỹ thuật rất quan trọng trong nghiên cứu bệnh
tôm và nhiều trường hợp bệnh chỉ có thể chẩn đoán được bằng phương pháp
này. Tuy nhiên, nó có những hạn chế nhất định, chẳng hạn, thao tác tương đối
chậm và trong nhiều trường hợp bệnh tôm phải được xử lý ngay trước khi có
được kết quả mô học. Phương pháp mô học chỉ nên sử dụng khi kết hợp với
tất cả các dữ liệu về môi trường và sức khỏe tôm để xác định tác nhân gây
bệnh (Đặng Thị Hoàng Oanh, 2007).
Trước khi quan sát dưới kính hiển vi, mẫu phải được cố định để tránh bị hư
thối, loại bỏ thức ăn và đúc khối sáp. Cắt mẫu thành từng lát mỏng khoảng 5
micromet, rồi đặt lên lam, nhuộm màu và đậy bằng lam kính. Thịt tôm phân
hủy cực kỳ nhanh sau khi tôm chết, vì thế cần phải cố định chúng. Tôm chết
được giữ trong nước đá hay đông lạnh cũng đều vô ích đối với phương pháp
mô học do những biến đổi xảy ra trong cơ. Dung dịch cố định tốt nhất là dung
dịch Davidson’s và formaline đệm trung tính (Trần Đắc Định, 2004).
Tế bào và mô phải được quan sát bằng các loại kính hiển vi, do đó khi nghiên
cứu mô và tế bào cần phải cắt mẫu với các độ dầy thích hợp đảm bảo cho ánh
sáng xuyên qua trong quá trình quan sát dưới kính hiển vi. Qui trình xử lý mẫu
và tạo tiêu bản bắt đầu từ cố định mẫu, cắt tỉa định hướng mẫu, khử nước,
ngấm mẫu trong paraffin, đúc khối và cắt lát mỏng, dán lát cắt lên lam và
nhuộm màu. Phủ lamelle lên tiêu bản, lúc này lát cắt có thể quan sát được dưới
kính hiển vi. Tương tự, qui trình xử lý mẫu bằng kỹ thuật lạnh cũng có thể
được áp dụng. Qui trình này tương đối đơn giản hơn, mẫu được đông lạnh
nhanh, cắt, nhuộm, phủ lamelle lên tiêu bản. Phương pháp này được ứng dụng
trong các nghiên cứu về các enzyme nội tiết vì các enzyme dễ bị mất đi trong
phương pháp xử lý mẫu thông thường, nhưng kết quả xử lý mẫu thường không
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
9
ổn định và khó nhận biết được các cấu trúc chi tiết, qui trình xử lý mẫu vì thế
tùy thuộc vào từng trường hợp nghiên cứu cụ thể (Trần Đắc Định, 2004).
Sơ đồ các bước xử lý mẫu trong nghiên cứu mô học (Hinton, 1990)
QUI TRÌNH XỬ LÝ MẪU QUI TRÌNH XỬ LÝ
MẪU THÔNG THƯỜNG LẠNH
Cố định mẫu
Đông lạnh
Cắt tỉa và định hứơng mẫu
Khử nước
Làm trong mẫu
Đúc khối
Cắt mẫu
Dán tiêu bản
Hydrate hóa
Nhuộm
Hoàn tất tiêu bản
Đông khô mẫu Định hướng mẫu
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
10
2.3.3 Một số nghiên cứu về mô học trên tôm
Theo Phạm Trần Nguyên Thảo (2007), về cơ bản cấu trúc mô của tôm bao
gồm:
Lớp kitin (lớp vỏ bảo vệ)
Bao gồm nhiều lớp như: lớp mô tâm sừng, lớp kitin ngoài, lớp kitin trong, lớp
trong cùng.
Dưới lớp vỏ là lớp mô liên kết, lớp biểu mô và lớp cơ. Lớp kitin được tạo ra từ
lớp biểu mô dưới lớp vỏ và được làm trơn từ dịch nhày của tuyến dưới vỏ.
Hình 2.2 Cấu tạo của lớp kitin
Mang
Là cơ quan hô hấp chính của tôm, nằm ở gốc các đôi phần phụ. Chức năng
chính của mang là bài tiết Ammonia, hấp thu chất khoáng và điều hòa áp suất
thẩm thấu.
Mang được cấu tạo bởi nhiều phiến mang hình lông chim, trên phiến mang có
nhiều sợi mang.
Cấu tạo chi tiết của sợi mang gồm: trục chính, sợi mang thứ cấp, sợi mang sơ
cấp. Mặt trong của sợi mang được lợp bởi các tế bào biểu mô lát đơn. Trên sợi
mang sơ cấp và thứ cấp có hai ống mạch: hướng tâm và ly tâm.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
11
Hình 2.3 Cấu tạo của mang.
Tuyến râu
Tuyến râu là cơ quan bài tiết của tôm nằm ở phần đầu gần gốc râu. Chức năng
của tuyến râu là bài thải những sản phẩm trung gian như: Urê, acid uric, NH
3
,
hợp chất sunfua.
Tuyến râu được cấu tạo gồm: túi lọc hay xoang cùng, ống lượn gần, ống lượn
xa và bàng quang. Ống bài tiết của tuyến râu nằm khắp nơi trong phần đầu.
Bàng quang là nơi phình to của tuyến râu và chứa sản phẩm thải, bàng quang
được cấu tạo bởi những tế bào biểu mô hình cột đơn.
Hình 2.4 Cấu tạo của tuyến râu
Cơ quan lymphoid
Cơ quan lymphoid là một hệ thống hai thùy đóng vai trò như một túi lọc. Chức
năng chính của cơ quan lymphoid là bảo vệ môi trường bên trong cơ thể,
chống lại sự xâm nhập và gây hại của vi sinh vật và các vật lạ bên trong cơ
thể.
Cơ quan lymphoid được cấu tạo bởi hai thùy nằm phía trước gan tụy. Cơ quan
này do nhiều động mạch nhỏ tạo thành, bên trong động mạch là xoang rỗng,
xung quanh là lớp tế bào đệm cơ bản, mô liên kết, mô kẻ. Bao xung quanh ống
mạch là xoang mạch máu.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
12
Hình 2.5 Cấu tạo chi tiết ống mạch của cơ quan lymphoid.
Hệ tiêu hóa
Hệ tiêu hóa của tôm bao gồm: Miệng, thực quản, dạ dày, ruột giữa, gan tụy.
Miệng nằm ở mặt bụng của đầu, xung quanh các phần phụ và thực quản.
Thực quản của tôm ngằn hình chữ J, nằm thẳng góc với trục của cơ thể, đổ vào
dạ dày.
Dạ dày là bao cơ dày, phía sau phình to ra thành hai túi nhỏ ở hai bên. Xoang
trên rất lớn, chiếm hầu hết xoang của dạ dày. Dạ dày bắt đầu phía trên thực
quản, kéo dài đến gần giữa gan.
Msl: Bó cơ
Csn: Lớp mô liên kết
Cep: Lớp tế bào biểu mô
Cut: Lớp kitin mỏng
Lum: Xoang trước dạ dầy
Hình 2.6 Cấu tạo vách xoang trước dạ dày
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
13
Msx: Cơ vòng
Msl: Cơ dọc
Cns: Mô liên kết
Emp: Lớp biểu mô
Hình 2.7 Cấu tạo của ruột giữa
Hta: Đoạn đầu
Htm: Đoạn giữa
Htp: Đoạn cuối
Hình 2.8 Cấu tạo 3 đoạn của ống tiểu quản gan tụy
Mid: Ruột giữa
Hsd: Ống dẫn mật sơ cấp
Hep: Gan
Shj: Điểm nối gan với dạ dầy
Htp: Ống tiểu quản gan tuỵ
Hpd: Ống dẫn mật sơ cấp
Mhj: Điểm nối ruột với gan tuỵ
Gss: Sàng lọc
Hình 2.9 Cấu tạo chung của gan tụy
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
14
2.4 Một số nghiên cứu mô học trên tôm càng xanh
Kiran et al. (2002) nghiên cứu sự nhạy cảm về bệnh đốm trắng (WSSV) ở các
vòng đời khác nhau trên tôm càng xanh. Kết quả Post-larvae, tôm giống, tôm
tiền trưởng thành và tôm trưởng thành có biểu hiện mô học tương tự như
những dấu hiệu tìm thấy trên tôm sú nhưng sự hoại tử và thể vùi ít hơn.
Pillai et al. (2005) nghiên cứu mô bệnh học về bệnh phồng nước trên nắp
mang tôm càng xanh. Kết quả mô học cho thấy rằng lớp tế bào biểu mô dưới
vỏ bị phân mảnh, tế bào biểu mô kết thành khối có cấu trúc như bào nang hình
cầu. Cấu trúc này được tìm thấy trên nhiều cơ quan như tế bào biểu mô, cơ và
trên gan tụy. Khi tôm bị bệnh này trên mang còn thấy có sự hiện diện của
nhóm kí sinh trùng.
Tung et al. (1999) nghiên cứu mô học và quan sát bằng kính hiển vi điện tử
trên tôm càng xanh bị bệnh vi-rút trên cơ Macrobrachium muscle virus
(MMV) ở Đài Loan. Dấu hiệu bệnh lý tôm có màu trắng đục ở phần bụng, ăn
yếu, bơi lờ đờ. Về mô học tương tự bệnh hoại tử cơ (IMP) và tác giả đã tìm
thấy thể vùi trên cơ bị hoại tử.
Theo C-Y Hsieh et al. (2006) bệnh đuôi trắng trên tôm càng xanh xuất hiện tại
Đài Loan về dấu hiệu tổn thương mô bệnh học cho thấy có sự hiện diện của
một lượng lớn tế bào ưa kiềm bất thường hoặc hình oval, các thể ẩn trong tế
bào chất ở những mô cơ và gan bị nhiễm bệnh. Kỹ thuật RT-PCR và lai tại
chỗ (in situ hybridization-ISH) cho thấy có sự hiện diện của M. rosenbergii
nodavirus (MrNV) nhưng không tìm thấy extra small virus. Các phân tích cây
di truyền cho thấy có một sự tương đồng rất cao (99.5–100%) của trình tự acid
nucleic giữa sáu chủng được nghiên cứu, tương đồng vừa phải (98.2–98.6%)
với chủng phân lập từ Caribbean và Ấn Độ, và ít tương đồng nhất (95.2%) với
chủng phân lập từ Trung Quốc. Đây là báo cáo đầu tiên xác nhận sự hiện diện
của MrNV trên tôm càng xanh bằng phương pháp RT-PCR và ISH tại Đài
Loan.
Theo Nguyễn Kim Cương nghiên cứu về kí sinh trùng, mô học và thử nghiệm
cảm nhiễm bệnh đốm trắng (WSSV) trên tôm càng xanh nuôi ruộng lúa
(Macrobrachium rosenbergii).
Như vậy, đã có nhiều nghiên cứu về mô học của tôm càng xanh, nhưng chủ
yếu là những nghiên cứu về những biến đổi mô học trên những cơ quan của
tôm bệnh. Chưa có một nghiên cứu nào về cấu trúc mô bình thường của tôm
và các nghiên cứu trước ít có sự so sánh về cấu trúc mô khỏe và cấu trúc mô
bệnh của các cơ quan trên tôm. Do đó, đề tài “Cấu trúc mô của các hệ cơ quan
trên tôm càng xanh khỏe (Macrobrachium rosenbergii)” được thực hiện nhằm
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
15
xác lập bộ sưu tập về cấu trúc mô bình thường của các cơ quan trên tôm càng
xanh và làm cơ sở cho việc nghiên cứu về mô bệnh học.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
16
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp thu mẫu nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu: Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii)
Phương pháp thu mẫu phân tích
Thời gian: thu và phân tích mẫu trong quá trình thực hiện đề tài từ
03/2008 đến tháng 06/2008.
Địa điểm phân tích mẫu: phòng thí nghiệm Mô học, bộ môn Bệnh học
Thủy Sản, Khoa Thủy sản trường Đại Học Cần Thơ.
● Vật liệu nghiên cứu: mẫu tôm càng xanh dùng cho nghiên cứu được thu
từ tự nhiên
● Chọn địa điểm thu mẫu: Cần Thơ.
Thu mẫu
Phương pháp thu mẫu: tiến hành thu mẫu tôm càng xanh trưởng thành được
đánh bắt tự nhiên. Khi thu chọn những con tôm càng xanh khỏe mạnh, màu
sắc tươi sáng, các phần phụ còn đầy đủ. Tôm thu mua được đưa vào thùng
mướp có máy sục khí và chuyển ngay vào phòng thí nghiệm để cố định mẫu.
- Tổng số lượng mẫu: 40 mẫu tôm thịt (mỗi con khoảng 20g).
- Ghi mã số mẫu theo ký hiệu: CT-P-N (CT: Cần Thơ; P: đợt thu mẫu; p
= ao; N: Số mẫu)
3.2 Phương pháp phân tích mẫu
3.2.1 Kỹ thuật mô học
Vị trí của các hệ cơ quan trên tôm càng xanh khỏe
Qua đề tài, các cơ quan cần được nghiên cứu bao gồm: mang, gan tụy, dạ dày,
cơ quan lympho, cơ. Các cơ quan này được lấy từ những vị trí trên cơ thể tôm
như hình 3 ().
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
17
Hình 3 Cấu tạo cơ thể của tôm
Phương pháp cố định (Lightner, 1996)
Chuẩn bị dung dịch cố định Davidson’s AFA
Thành phần Thể tích
-Ethyl alcohol 95% 330 ml
-Formalin 200 ml
-Acid acetic 115 ml
-Nước cất 335 ml
Cố định mẫu
1. Dùng kéo sắc rạch một đường trên vỏ kitin, từ đốt bụng thứ 6 đến
cuống mắt (lưu ý là không cắt sâu đến lớp mô vì nếu cắt sâu sẽ làm tổn
thương đến các nội quan bên trong đầu tôm). Đường rạch trên khu vực
đầu là một đường giữa của mặt lưng và chỉ một phần bên. Trong khi đó,
ở khu vực bụng đường rạch là đường giữa.
2. Do tôm lớn hơn 12g, cắt đôi tại vị trí nối của phần đầu và phần bụng,
và tiếp tục chia phần bụng làm hai.
3. Cho tôm vào dung dịch cố định. Để ở nhiệt độ phòng trong thời gian là
24-72 giờ.
4. Sau 24 giờ, chuyển tôm sang cồn 50-70% để bảo quản mẫu.
Mang
Giáp đầu ngực
Mắt
Gan tụy
Cơ thân
Cơ đuôi
Chân ngực và
Chân bơi
Gai telson
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
18
5. Sau 24 giờ, cắt tỉa định hướng và xử lý mẫu tôm.
3.2.2 Phương pháp làm tiêu bản mẫu mô
Cắt tỉa định hướng
Do tôm lớn hơn 3cm nên cắt tôm ra thành những phần nhỏ tại các vị trí khác
nhau như: mang, gan tụy, cơ. Sau đó lấy những phần nhỏ của tôm cho vào
khuôn nhựa xử lý mẫu.
Xử lý mẫu
Tiếp theo quá trình cắt tỉa định hướng là quá trình xử lý mẫu. Qui trình xử lý
mẫu mô tôm được cài đặt trong máy xử lý mẫu (Microm, STP 120-2) theo các
bước sau (Shreck & Moyle, 1999)
Kích cỡ khối mô/Thời gian T
T
Hóa chất sử dụng
>=5mm
<5mm <3mm <1mm
1 Cồn 80% 30’ 20’ 10’ 5’
2 Cồn 95% 60’ 20’ 10’ 5’
3 Cồn 95% 30’ 30’ 10’ 5’
4 Cồn 100% 60’ 40’ 20’ 5’
5 Cồn 100% 180’ 40’ 20’ 5’
6 Cồn 100% 180’ 40’ 20’ 5’
7 Cồn 100% 180’ 60’ 30’ 5’
8 Xylen 30’ 20’ 20’ 5’
9 Xylen 30’ 30’ 20’ 5’
10 Paraffin + Xylen (7:3) 60’ 60’ 20’ 5’
11 Paraffin + sáp ong (1:1) 60’ 60’ 30’ 5’
12 Paraffin + sáp ong (7:3) 60’ 60’ 30’ 5’
Sau khi hoàn thành bước cài đặt chương trình xử lý mô thì tiến hành cho sọt
chứa mẫu mô tôm vào lọ số 1 và cho chương trình cài đặt trên vận hành theo
chương trình 4 (program 4).
Đúc khối
Sau khi xử lý, chuyển khuôn nhựa chứa mẫu sang vị trí số 2 của máy đúc khối
(Microm, EC 350-1). Để khối mô trong paraffin khoảng 30’, sau đó tiến hành
đúc khối. Mẫu mô sẽ được đặt trong một khung cố định bằng inox và tiến
hành đúc khối bằng paraffin nóng chảy ở 65
0
C. Định hướng mẫu mô, cẩn thận
cho paraffin nóng chảy vào khuôn. Để đảm bảo mẫu được giữ đúng vị trí thì