Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: "ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI TẢO THỨC ĂN KHÁC NHAU LÊN SỰ SINH TRƯỞNG, TUỔI THỌ, CÁC CHỈ TIÊU SINH SẢN CỦA ARTEMIA FRANCISCANA VĨNH CHÂU" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686 KB, 53 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN









THẠCH THỊ LỆ





ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI TẢO THỨC ĂN KHÁC
NHAU LÊN SỰ SINH TRƯỞNG, TUỔI THỌ, CÁC CHỈ
TIÊU SINH SẢN CỦA ARTEMIA FRANCISCANA VĨNH
CHÂU









LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN











2009
2



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







THẠCH THỊ LỆ





ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI TẢO THỨC ĂN KHÁC
NHAU LÊN SỰ SINH TRƯỞNG, TUỔI THỌ, CÁC CHỈ
TIÊU SINH SẢN CỦA ARTEMIA FRANCISCANA VĨNH
CHÂU






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN






GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Th.S NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
TS. NGUYỄN VĂN HÒA






2009

3

LỜI CẢM TẠ
Xin gởi lời cám ơn chân thành và sâu sắc đến:
Ban chủ nhiệm Khoa Thủy Sản-Trường Đại Học Cần Thơ.
Quí thầy cô Khoa Thủy Sản.
Cô Nguyễn Thị Hồng Vân
Thầy Nguyễn Văn Hòa
Các anh chị trong Trung Tâm Ứng Dụng và Chuyển Giao Công
Nghệ.
Tập thể lớp Nuôi Trồng Thủy Sản , K31
Đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt Luận Văn
Tốt Nghiệp, cũng như giúp em hoàn thành khóa học này.
Do thời gian có giới hạn và kiến thức còn hạn chế nên Luận Văn còn
nhiều điểm thiếu sót. Kính mong quý Thầy Cô và các bạn góp ý để bài viết
của em được hoàn chỉnh hơn.









MỤC LỤC
4
Bìa 1 1
Bìa 2 2
Lời cảm tạ 3

Mục Lục 4
Danh sách bảng 7
Danh sách hình 8
Phụ lục 9
Tóm tắt 10
PHẦN I:ĐẶT VẤN ĐỀ 11
1.1.Giới thiệu 11
1.2.Mục tiêu nghiên cứu 12
1.3. Nội dung nghiên cứu 12
PHẦN II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 13
2. Sơ lược về đặc điểm sinh học của Artemia 13
2.1. Đặc điểm phân loại…………………………………… 13
2.2. Đặc điểm phân bố 13
2.3. Hình thái vòng đời của Artemia 14
2.3.1. Đặc điểm về hình thái 14
2.3.2. Vòng đời của Artemia 14
2.4. Đặc điểm môi trường sống và dinh dưỡng của Artemia. .16
2.5. Đặc điểm sinh sản Artemia 16
2.6. Quá trình di nhập 17
2.7 Tình hình sản xuất và sử dụng Artemia trên thế giới và
5
việt nam 17
2.7.1 Thế giới 17
2.7.2. Việt Nam 18
2.8. Vi tảo – giá tri dinh dưỡng của tảo 18
2.8.1. Vi tảo 18
2.8.2 Giá trị dinh dưỡng của tảo 19
PHẦN III: 20
3.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 20
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu 20

3.1.1.1. Dung cụ, vật tư và hóa chất 20
3.1.1.2. Nguồn trứng giống Artemia 20
3.1.1.3 Nguồn nước 20
3.1.1.4. Thức ăn 20
3.1.1.5. Nhiệt độ 20
3.1.1.6. Thời gian và địa điểm 21
3.2. Phương pháp nghiên cứu 21
3.2.1. Phương pháp ấp trứng Artemia 21
3.2.2. Phương pháp nuôi tảo 21
3.2.3. Bố trí thí nghiệm 22
3.2.4. Thu thập và xử lý số liệu 23
PHẦN IV: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 25
4.1. Điều kiện môi trường 25
4.1.1. Độ mặn 25
6
4.1.2. Nhiệt độ 25
4.2. Ảnh hưởng của các giống loài tảo thức ăn lên tỉ lệ sống của
Artemia 26
4.3. Ảnh hưởng của các giống loài tảo thức ăn lên Chiều dài của
Artemia 27
4.4. Ảnh hưởng của các giống loài tảo thức ăn lên tuổi thọ của
Artemia 29
4.5. Ảnh hưởng của các giống loài tảo thức ăn lên các chỉ tiêu
sinh sản của Artemia 31
4.5.1. Trung bình số phôi/lần sinh sản 32
4.5.2 Tổng số phôi được sinh sản/con mẹ 33
4.5.3. Tổng số lần tham gia sinh sản/con mẹ 33
4.5.4. Khoảng cách giữa hai lần tham gia sinh sản/con mẹ 34
4.5.5. Tỉ lệ % Cyst,%Nauplii, Cyst/Nauplii 35
4.5.6. Thời gia sinh sản của Artemia 36

4.5.7. Ảnh hưởng của các giống loài tảo thức ăn lên các lần sinh
sản của Artemia 37
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận 39
5.2. Đề xuất 39
PHẦN VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO 40


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 4.2. Tỉ lệ sống (%) của Artemia 24
7
Bảng 4.3.1 Trung bình chiều dài (mm) của Artemia 27
Bảng 4.3.2. Kích Thước và thành phần sinh ohas của tảo 29
Bảng 4.4. Tuổi thọ của con đực và cái 29
Bảng 4.5. Các chỉ tiêu so sánh về phương thức sinh sản và sức
sinh sản của Artemia 31

















DANH SÁCH HÌNH
Hình: 2.3.1. Hình dạng của Artemia Fanciscana 14
Hình: 2.3.2.1. Vòng đời Artemia 14
8
Hình: 2.5.1. Sự bắt cặp của Artemia 16
Hình: 4.2 Tỉ lệ sống(%) của Artemia 27
Hình: 4.3.1. Chiều dài(mm) của Artemia 28
Hình: 4.4. Tuổi thọ của con đực và cái của Artemia 30
Hình:4.5.1. Trung bình số phôi/lần sinh sản của Artemia . 32
Hình: 4.5.2. Số phôi được sinh sản/ con mẹ của Artemia . 33
Hình: 4.5.3. Tổng số lần tham gia sinh sản /con me 34
Hình: 4.5.4. Khoảng cách giữa hai lần tham gia sinh sản . 35
Hình: 4.5.5. Tỉ lệ % Cyst,%Nauplii, Cyst/Nauplii 36
Hình: 4.5.6. Thời gian sinh sản 37
Hình: 4.5.7. Sức sinh sản qua các lần đẻ 37








PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tỉ lệ sống 41
1.1 . Tỉ lệ sống của Artemia (ngày) 41
1.2. Tỉ lệ sống của Artemia (%) 42
9

Phụ lục 2: Trung bình chiều dài của Artemia (mm) 43
2.1. Ngày Thứ 7 43
2.2. Ngày Thứ 14 44
Phụ lục 3: Tổng số phôi được sinh sản/con mẹ 45
Phụ lục 4: Trung bình Số phôi/ lần sinh sản 46
Phụ lục 5: Tổng số nauplii được sinh/con mẹ 47
Phụ lục 6: Tổng số cyst được sinh/con mẹ 48
Phụ luc 7: Tuổi thọ của con đực 49
Phụ lục 8: Tuổi thọ của con cái 50
Phụ lục 9: Thời gian trước khi con cái sinh sản 51
Phụ luc 10: Thời gian lúc con cái tham gia sinh sản 52
Phụ lục 11: Thời gian sau khi con cái sinh sản 53








TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu nghiên cứu ảnh hưởng của
bốn loài tảo làm thức ăn cho Artemia gồm Chaetoceros, Dunaliella,
Nannochloropsis và Tetraselmis lên tỷ lệ sống, tăng trưởng, tuổi thọ và các
chỉ tiêu sinh sản, nhằm tìm ra loại thức ăn phù hợp để Artemia có sinh
trưởng tốt, sức sinh sản cao và chất lượng sinh khối đảm bảo cho nuôi trồng
10
thủy sản. Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Thủy Sản – Trường Đại Học
Cần Thơ. Thí nghiệm được bố trí trong phòng với nhiệt độ phòng và độ
mặn 80%o. Sau 14 ngày nuôi kết quả cho thấy Artemia có tỷ lệ sống và tăng

trưởng tốt nhất với thức ăn là tảo Chaetoceros (97.5%, 7.15mm và 38 ngày)
so với các loài tảo khác: Dunaliella (89.7%, 6.78mm), Nannochloropsis
(84.2%, 6.78mm) và thấp nhất là Tetraselmis (71.8%, 6.16mm) . Tuổi thọ
của con cái là cao nhất cũng đạt được với thức ăn là tảo Chaetoceros (38
ngày), kế đến là Dunaliella (34 ngày) và Nannochloropsis, Tetraselmis
cùng là 29 ngày trong khi tuổi thọ của con đực là gần như nhau (24-25
ngày) ngoại trừ ở nghiệm thức tảo Dunaliella (28 ngày)
Về các chỉ tiêu sinh sản cũng cho thấy, Artemia ăn tảo Chaetoceros
có khả năng sinh sản tốt nhất (đạt 525 ± 313 phôi trên vòng đời với sức sinh
sản bình quân cho mỗi lứa đẻ là 95± 35 phôi và tổng số lần tham gia sinh
sản là 5.4 ± 2 lứa) so với các loài tảo khác ( 127-222 phôi; 45-52 phôi và 3-
6 theo thứ tự tương ứng). Tuy nhiên Artemia trong nghiệm thức cho ăn tảo
Dunaliella lại có thời gian tham gia sinh sản dài nhất (18.3± 7.9 ngày), kế
đến là Chaetoceros (16.1± 7.7 ngày), Nannochloropsis (10.5± 5.9 ngày) và
ngắn nhất là ở nghiệm thức Tetraselmis (9.2± 5.9 ngày).








PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 GIỚI THIỆU
Thức ăn tự nhiên nói chung, Artemia nói riêng đóng vai trò rất quan
trọng trong nghề nuôi thủy sản. Trong thực tế thức ăn tươi sống có nguồn
11
gốc động vật là loại thức ăn cung cấp nhiều năng lượng vì nó chứa nhiều

dinh dưỡng thiết yếu cho sinh sản, sinh trưởng và phát triển của các đối
tượng thủy sản mà thức ăn chế biến không có. Artemia có hàm lượng dinh
dưỡng rất cao (40-70% protein, 10-30% lipid, nhiều acid amin cần thiết;
theo Leger et al., 1985). Ngoài ra Artemia còn có ưu thế là ít gây ô nhiễm
môi trường nước nuôi so với việc sử dụng các loại thức ăn nhân tạo. Hơn
nữa, quá trình phát triển của Artemia từ giai đoạn Nauplii đến giai đoạn
trưởng thành, Artemia có nhiều kích cỡ khác nhau có thể làm thức ăn thích
hợp cho từng giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm cá như Sorgeloos và ctv
(1982) đã nhận định: “Artemia là loại thức ăn thích hợp cho nhiều loại cá
nước lợ vì giá trị dinh dưỡng cao và dễ sử dụng”. Ngoài dạng sinh khối sử
dụng làm thức ăn tươi sống, trứng bào xác của Artemia (Cyst) dự trữ được
nhiều năm ở dạng sấy khô và trứng này được mua bán khắp nơi trên thế
giới.
Artemia là loại sinh vật có khả năng chịu đựng những điều kiện khắc
nghiệt của môi trường (như nhiệt độ, độ mặn, oxy…), chúng có tập tính
sống trôi nổi. và ăn lọc không chọn lựa (Reeve, 1963),và có thể sử dụng
thức ăn có kích cỡ 25-30

m và tăng lên 40-50

m khi đạt đến kích cỡ
trưởng thành (Dobbeleir et al., 1980) tuy nhiên loại thức ăn thích hợp nhất
cho chúng vẫn là các loài tảo có kích thước nhỏ (Nguyễn Văn Hòa và ctv,
2007)
Ở ruộng nuôi thức ăn cho Artemia chủ yếu dựa vào việc bón phân
gây màu tảo trực tiếp (trong ao nuôi) hoặc gián tiếp (ao gây màu) (Rothuis.,
1986; Vanderzanden., 1987, 1988, 1989). Tuy nhiên do giá trị dinh dưỡng
của các loại tảo khác nhau (Sick, 1976; Lora-Vilchis, Cordero-Esquivel và
Voltolin, 2004) nên ảnh hưởng của chúng lên tỷ lệ sống, tăng trưởng và
sinh sản của Artemia cũng khác nhau. Chất lượng của các loại vi tảo sử

dụng làm thức ăn cho Artemia đã dược tác giả nghiên cứu (Sick, 1979;
Johnson, 1980) với kết quả nghiên cứu khác nhau của từng loài tảo về mặt
dinh dưỡng, kích thước, điều kiện nuôi cũng như còn tuy thuộc loài Artemia
thí nghiệm. Theo Evieno và Olsen (1999) đã nghiên cứu về liệu lượng tảo
trong ao nuôi Artemia đã được trình bày trong thí nghiệm nuôi Artemia
bằng tảo tươi (Chaetoceros, Tetraselmis, Dunaliella, Nannochloropsis). Kết
quả cho thấy sự sinh sản và sinh trưởng của Artemia khác nhau khi sử dụng
các loại tảo khác nhau.
Để tìm hiểu chất lượng của các loại tảo thức ăn ảnh hưởng ra sao lên
sự sinh trưởng và sinh sản của Artemia dòng SFB Vĩnh Châu, đề tài “Ảnh
hưởng của các loại tảo thức ăn lên sự sinh trưởng, tuổi thọ và các chi tiêu
12
sinh sản của Artemia Franciscana” được tiến hành nhằm hướng tới việc
lựa chọn một loại thức ăn phù hợp hoặc kết hợp, để có chất lượng Artemia
tốt nhất cả về sinh khối và trứng bào xác cũng như hiệu quả sinh sản.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại tảo thức ăn khác nhau lên sự sinh
trưởng, tuổi thọ và các chỉ tiêu sinh sản của Artemia Franciscana dòng
Vĩnh Châu nhằm xác định loại tảo thức ăn phù hợp để Artemia có sinh
trưởng tốt, sức sinh sản cao và chất lượng sinh khối đảm bảo cho nuôi trồng
thủy sản.
1.3 Nội dụng nghiên cứu
Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng, tuổi thọ và sinh sản của Artemia
khi sử dụng 4 loại tảo thức ăn khác nhau (Chaetoceros, Dunaliella,
Nannochloropsis và Tetraselmis )










13

PHẦN II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2. Sơ lược về đặc điểm sinh học của Artemia
2.1 Đặc điểm phân loại
Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv (2007), Artemia là tên latin của một
loại giáp xác nhỏ chuyên sống ở những vùng nước mặn có biên độ muối
rộng (từ vài %o đến 250%o như ruộng muối), có tên và vị trí trong hệ thống
phân loại như sau:
Ngành: Arthropoda.
Lớp: Crustacea.
Lớp phụ: Bran Chiopoda.
Bộ: Anostraca.
Họ: Artemiidae.
Giống: Artemia, Leach (1819).
Loài: Artemia Fanciscana.
2.2.Đặc điểm phân bố
Artemia được tìm thấy ở 500 hồ tự nhiên và nhân tạo trên thế giới,
rải rác khắp vùng nhiệt đới. Chúng có khả năng thích nghi với biên nhiệt độ
khác nhau từ 60
o
C-350
o
C và với nồng độ muối tới 250%o (Nguyễn Văn
Hòa và ctv., 2007). Tuy vậy, Artemia lại không có trong tự nhiên ở khu vực

Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng do ảnh hưởng của chế độ
gió mùa, thủy vực không có độ mặn cao và có nhiều sinh vật thù địch
(Nguyễn văn Hòa và ctv.,1994).






14

2.3 Hình thái vòng đời của Artemia
2.3.1. Đặc điểm về hình thái
Hình 2.3.1: Artemia Fanciscana (Nguồn: www.captain.at)
Artemia thân có dạng hình ống tròn, cơ thể có phân đốt, không vỏ
đầu ngực, phần đầu ngắn nhỏ, giữa phần trước có một đôi mắt đơn gọi là
mắt giữa, hai bên mắt giữa là một đôi mắt kép. Đốt cuối của bộ phận bụng
và đốt cuối của đốt đuối có một chục đuôi hình lá, chân bụng của Artemia
có khoảng 10 đôi mọc hai bên thân có dạng lá.
2.3.2. Vòng đời của Artemia


Hình 2.3.2: Vòng đời của Artemia (theo Sorgeloos và ctv., 1980)
15
Artemia có vòng đời ngắn (ở điều kiện tối ưu có thể phát triển thành
con trưởng thành sau 7-8 ngày nuôi), sức sinh sản cao (Sorgeleloos, 1980;
Jumalon et al., 1982) và quần thể Artemia luôn có hai phương thức sinh sản
(đẻ trứng và đẻ con)(Browne et al., 1984).
Ngoài tự nhiên, Artemia đẻ trứng bào xác nổi trên mặt nước và
được sóng gió thổi dạt vào bờ.

Các trứng nghỉ này ngưng hoạt động trao đổi chất và ngưng phát
triển khi được giữ khô. Nếu cho vào nước biển hoặc khi điều kiện tự nhiên
thuận lợi (nhiệt độ ấm áp, mưa nhiều độ mặn giảm…), trứng bào xác có
hình cầu lõm sẽ hút nước phồng to. Lúc này, bên trong trứng sự trao đổi
chất bắt đầu hoạt động (Vos và Rosa, 1980). Sau khoảng 20h, màng nở bên
ngoài nứt ra và phôi xuất hiện. Phôi được màng nở bao quanh trong khi
phôi đang treo bên dưới võ trứng, sự phát triển của ấu trùng tiếp tục và một
thời gian ngắn sau đó màng nở bị phá vở và ấu trùng Artemia được phống
thích ra ngoài.
Ấu trùng Artemia mới nở (instar I) có chiều dài 400-500

m, có màu
vang cam, có mắt, nauplii màu đỏ ở phần đầu và 3 đôi phụ bộ, ấu trùng giai
đoạn này không tiêu hóa được thức ăn, vì bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh,
chúng sống nhờ vào noãn hoàng.
Sau khoảng 8-10h lúc nhỏ, ấu trùng lột xác thành giai đoạn (instar
II), lúc này chúng có thể tiêu hóa được các hạt thức ăn cỡ nhỏ (tế bào tảo, vi
khuẩn, chất vẩn) có kích thước từ 1-50

m, và lúc này bộ máy tiêu hóa đã
hoạt động. Ấu trùng tăng trưởng qua 15 lần lột xác trước khi đạt giai đoạn
trưởng thành.
Artemia trưởng thành dài khoảng 10-12mm (tùy dòng). Tuổi thọ
trung bình của cá thể Artemia trong các ao nuôi ở ruộng muối khoảng 40-60
ngày tùy thuộc điều kiện môi trường nuôi (nhiệt độ, độ mặn, thức
ăn…)(Nguyễn Văn Hòa et al., 1994).
Từ giai đoạn 10 ngày trở đi, Artemia có sự thay đổi đáng kể về hình
thái và chức năng. Râu mất dần chức năng ban đầu của chúng và có sự khác
biệt ở cá thể đực, cái. Con đực, râu phát triển thành mấu bám trong khi ở
con cái râu phát triển thành phụ bộ cảm giác. Con đực có một cặp cơ quan

giao cấu ở phần sau của vùng thân. Ở con cái có đôi buồng trứng nằm ở hai
bên ống tiêu hóa sau các chân ngực.


16

2.4.Đặc điểm môi trường sống và dinh dưỡng
Động vật này có tập tính sống trôi nổi, bơi lội tự do trong môi trường
nước mặn, có đặc tính ăn lọc không chọn lọc (Reeve, 1963) và chúng có thể
sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau (Sorgeloos et al., 1986). Ở giai đoạn
ấu trùng chúng có thể sử dụng thức ăn có kích cở 25-30

m và 40-50

m
khi trưởng thành (Dobbeleir et al., 1980), và chúng có khả năng lọc các vật
chất lơ lửng trong nước (mùn bã hữu cơ, vi khuẩn, tế bào tảo đơn bào). Ở
phạm vi kích thước nhỏ hơn 50

m chúng bắt mồi bằng cách dùng chân bơi
đơn thức ăn từ dưới lên miệng ((Sorgeloos et al., 1986 trích dẫn bởi
Nguyễn Đại Khoa, 1999). Ở ruộng muối thức ăn cho Artemia chủ yếu dựa
vào việc bón phân gây màu tảo trực tiếp (trong ao nuôi) hoặc gián tiếp (ao
gây nuôi)(Rothis, 1986). Ngoài ra chúng còn sử dụng các phụ phẩm như:
bột đầu nành, cám gạo mà người nuôi cung cấp. Đặc biệt động vật này còn
có khả năng chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt của môi trường như sự
biến động lớn của các yếu tố: nhiệt độ, hàm lượng oxy, nồng độ muối
(Sorgeloos et al., 1980). Ở Việt Nam hiện nay đang nuôi rộng rãi Artemia
thuộc dòng Franciscana FSB (Mỹ), gần như loại này đã được thuần hóa với
môi trường nước ta, chúng phát triển tốt trong điều kiện:

 Độ mặn: 80-120%o .
 Nhiệt độ: 22-35
o
C.
 Oxy hòa tan: không thấp hơn 2mg/l.
 PH từ trung tính đến kiềm (7.0-9.0).
2.5. Đặc điểm sinh sản Artemia
Hình 2.5.1.: Sự bắt cặp trước khi sinh sản
17
Trước khi giao phôi, con đục bắt cặp với con cái bằng đôi râu của nó
tại dựa lỗ sinh dục và đôi chân ngực cuối cùng. Chúng bơi lội xung quanh
vài ngày, sự giao phối xãy ra rất nhanh khi con đực uốn cong bụng về phía
trước và đưa cơ quan giao phối vào lỗ sinh dục của con cái.
Trứng thụ tinh phát triển thành ấu trùng bơi lội tự do trong nước. Khi
điều kiện thích hợp, tuyến võ hoạt động và tiết sản phẩm bài tiết màu nâu
làm trứng nổi trên mặt nước và tấp vào bờ khô lại thành trứng nghỉ.
Trong điều kiện thích hợp, Artemia có thể sống nhiều tháng. Chúng
phát triển từ nauplii đến trưởng thành trong vòng 8 ngày.
Theo Sorgeloos (1980), Artemia phát triển thành con trưởng thành
sau 2 tuần nuôi và bắt đầu tham gia sinh sản. Trong vòng đời con cái có thể
tham gia cả 2 phương thức sinh sản và trung bình mỗi con đẻ khoảng 1500-
2500 phôi.
2.6. Quá trình di nhập
Ở Việt Nam Artemia được du nhập từ đầu thập niên 80 dưới dạng
trứng bào xác để làm thức ăn cho tôm càng xanh. Sau đó nguồn trứng này
được sử dụng làm giống nuôi thử nghiệm trong phòng và thả nuôi trong
ruộng muối ở Vĩnh Châu, Bạc Liệu, Cam Ranh, Phan Thiết…(Nguyễn Văn
Hòa và ctv, 2007).
Mặc dù là đối tượng rất mới so với các nghề nông nghiệp khác ở
ĐBSCL, nhưng với sự hình thành trung tâm nghiên cứu và phát triển

Artemia – Tôm Trường ĐHCT năm 1989 nay thuộc Khoa thủy sản, việc
nghiên cứu ứng dụng sản xuất Artemia ở vùng ĐBSCL được thực hiện một
cách liên tục và có hệ thống. Cùng với sự giúp đỡ, hợp tác về tài chính, kiến
thức, kinh nghiệm của các đơn vị nghiên cứu truyền thống về Artemia trên
thế giới, đến khoảng năm 1990, trường ĐHCT đã xây dựng và triển khai
ứng dụng “Quy trình kỷ thuật sản xuất Trứng và Sinh Khối Artemia trên
ruộng muối” và đạt nhiều thành công trong nghiên cứu và mở rộng nhiều
vùng nuôi thuộc tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liệu. Hiện nay nghề nuôi Artemia đã
trở thành quen thuộc và đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao (Nguyễn Kim
Quang và ctv, 1993, Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007).
2.7. Tình hình sản xuất và sử dụng Artemia trên thế giới và Việt
Nam
2.7.1 Thế giới
18
Phần lớn lượng trứng bào xác thu hoạch trên thế giới đều có nguồn
gốc từ Great Salt Lake (90 %). Những năm trở lại đây nghề nuôi Artemia
trên thế giới đang có chiều hướng phát triển và mở rộng ra những địa bàn
mới, cụ thể là ở khu vực ruộng muối Brazil, sau những thành công bước
đầu, sản lượng trứng bào xác bắt đầu tụt giảm từ năm 1982 cho đến nay
chưa cải thiện được. Ước tính lượng tiêu thụ bào xác Artemia lên đến hàng
nghìn tấn hàng năm (Năm 1997, khoảng 6000 trại giống tiêu thụ 1500 tấn
trứng bào xác Artemia hàng năm)(Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007).
Tuy nhiên, rất khó xác định được chính xác lượng trứng sản xuất do
các thông tin ghi nhận được còn rất hạn chế. Những vùng sản xuất trứng
bào xác với quy mô nhỏ mặc dù rất về mặt kỹ thuật ở nhiều quốc gia Đông
Nam Á và Mỹ Latin (Sorgeloos, 1997), vẫn chưa được khẳng định sẽ góp
phần một cách đang kể vào nguồn cung cấp trứng bào xác trên thế giới
(Lavens và Sorgeloos, 2000) vì nó chỉ chiếm khoảng 2% tổng lượng trứng
sản xuất ra hàng năm trên thế giới. Đối với những qui trình sản xuất trên qui
mô lớn mặc dù đã có những thành công nhất định nhưng vẫn còn nhiều bất

cập xung quanh vấn đề nuôi Artemia cần phải được giải quyết trong thời
gian sắp tới (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007)
2.7.2. Việt Nam
Ở Việt Nam nghề nuôi Artemia mang tính đặc thù của vùng Duyên
Hải, gắn liền với nhu cầu phát triển của nghề nuôi Tôm, đặc biệt trong đầu
thập niện 1980, Artemia bắt đầu được nghiên cứu và thử nghiệm ở các vùng
biển thuộc tỉnh Cam Ranh, Khanh Hòa, Nha Trang, Bạc Liệu, Sóc
Trăng…(Nguyễn Kim Quang và ctv., 1993).
Năm 1984, thông qua chương trình hợp tác quốc tế, Khoa Thủy Sản,
Trường ĐHCT đã nhập nội và nghiên cứu Artemia thu trứng bào dần dần
ổn định và từng bước được gây nuôi và phát triển mạnh ở Bạc Liệu, Vĩnh
Châu.
Từ năm 1996 đến nay, hoạt động nghiên cứu Artemia được sự tài trở
của tổ chức VLIR(Bỉ), để tiếp tục qui trình nuôi tăng năng xuất. Hiện nay,
cũng với chương trình hợp tác với tổ chức VLIR (Bỉ), Khoa Thủy Sản đang
tiến hành nghiên cứu thử nghiệm sản xuất Artemia ở ruộng muối Vĩnh
Châu.
2.8. Vi tảo – Giá trị dinh dưỡng của tảo
2.8.1. Vi tảo
19
Đến nay, có khoảng trên 40 loài tảo đã được phân lập, nuôi cấy và sử
dụng làm thức ăn cho ấu trùng các loài thủy sản. Tùy thuộc vào chất lượng
và tính có sẵn của các loài tảo mà việc sử dụng chúng cho các đối tượng
thủy sản cũng khác nhau giữa các nơi trên thế giới. Tuy nhiên có một số
loài tảo quan trọng được nuôi và sử dụng phổ biến trên thế giới.
Về phương thức sử dụng tảo, chúng thường được cho ăn trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua sinh vật trung gian khác, ở dạng tươi sống hay chế
biến, thuẫn chủng hay hỗn hợp nhiều loài. Mặc dù người ta áp dụng phương
pháp cho đối tượng nuôi thủy sản ăn chỉ một loài tảo nào đó, nhưng Liao
(1983) cho rằng: không có loài tảo đơn độc nào lại tốt nhất về mọi phương

diện cho việc nuôi và sử dụng chúng làm thức ăn cho ấu trùng thủy sản.
Tầm quan trọng của tảo chính là từ giá trị dinh dưỡng của chúng (Trần
Sương Ngọc, 2000. Kỹ thuật nuôi thức ă tự nhiên)
2.8.2. Giá trị dinh dưỡng của tảo
- Chaetoceros :là ngành tảo Khuê, Ngày nay việc nghiên cứu nuôi
trồng các loài tảo khuê có kích thước nhỏ và thành phần dinh dưỡng cao
phù hợp cho ấu trùng của các loại thân mềm, giáp xác rất phát triển. Tảo
khuê được xem như một nguồn acid béo không no mạch cao, đặc biệt là
acid 20:5

-3(Lora- Vilchis và Voltolina, 2003), rất cần thiết cho sự tăng
trưởng và phát triển của ấu trùng các loài tôm cá biển.(Trần Sương Ngọc,
2000. Kỹ thuật nuôi thức ă tự nhiên)
- Tảo Dunaliella, Nannochloropsis, Tetraselmis là ngàng tảo Lục có
chứa hàm lượng glycerol và β-caroten cao nên được xem là đối tượng nuôi
đầy triển vọng, dùng làm thức ăn không chỉ trong nghề nuôi thủy sản mà
còn nhiều lĩnh vực khác.Trong nuôi thủy sản, đóng vai trò trong chế độ
dinh dưỡng của nhuyễn thể nhưng với mức độ khac nhau tùy theo loài
nhuyễn thể.







20

PHẦN III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1.1 Vật liệu nghiên cứu
3.1.1.1.Dụng cụ, vật tư và hóa chất
 Chai mũ hình chóp thể tích 500ml (12 chai)
 Dụng cụ đo: nhiệt độ bằng nhiệt kế thủy ngân
 Hệ thống sục khí: pipet, đá bọt, van điều chỉnh.
 Kính hiển vi, thước đo, đèn neon 40w.
 Cân điện tử, đĩa petri.
 Cốc thủy tinh, xô nhựa, vợt, ca, máy thổi khí.
 Tủ sấy.
 Hóa chất: Formol, Chlorine (bột tẩy), Javel (NaOCL),
ThiosulfatNatri (Na
2
S
2
O
3
), lugol.
 Một số dụng cụ và trang thiết bị khác.
3.1.1.2.Nguồn trứng giống Artemia
Trứng Artemia Franciscana dòng Vĩnh Châu.
3.1.1.3. Nguồn nước
 Nước ngọt: sử dụng nguồn nước máy.
 Nước mặn: được pha từ nguồn nước ót (nước mặn có nồng độ
muối cao) để có độ mặn 80%o dùng cho thí nghiệm
3.1.1.4. Nhiệt độ
Nhiệt độ phòng luôn ổn định (28-30
o
C)
3.1.1.5. Thức ăn
 Thức ăn dụng cho Artemia là: (Chaetoceros, Tetraselmis,

Dunaliella, Nannochloropsis), nguồn tảo giống được cung cấp bởi phòng
thí nghiệm nuôi thức ăn tự nhiên, Bộ môn sinh học ứng dụng, Khoa thủy
sản, ĐHCT sau đó được nuôi theo phương pháp cấy truyền, thu hoạch và ly
tâm làm thức ăn cho Artemia ăn trong suốt quá trình thí nghiệm

21

3.1.1.6. Thời gian và địa điểm
Thời gian: 3 tháng (từ tháng 1/2009 đến tháng 4/2009).
Địa điểm: Trại thực nghiệm - Khoa Thuỷ Sản - Trường Đại học Cần
Thơ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp ấp trứng Artemia
- Cho nở trứng trong chai nhựa trong (1,5lít) hình phểu.
- Nhiệt độ thích hợp từ 28-30
o
C.
- Độ mặn: 33ppt.
- pH=8 (nếu pH thấp thì thêm Na
2
CO
3
hoặc NaHCO
3
).
- Ánh sáng: rất quan trọng để đạt tỉ lệ nở cao, đặt biệt trong thời
gian lúc đầu trứng hút nước hoàn toàn, cần nguồn ánh sáng mạnh 1000-
2000 lux (2000 lux tương đương với 2 bóng đèn neon) và được đặt cách
mặt nước là 0,5m.
- Sục khí: bằng que sục khí.

- Mật độ ấp trứng tốt nhất là 2g/lít
- Thời gian nở: 24 giờ.
- Thu hoạch Nauplii: ngưng sụt khí 5-10 phút, ở phía dưới đáy
chai có đèn sáng, dùng vải đen đậy miệng chai lại, ấu trùng sẽ tập trung ở
đáy bể, dùng ống siphon ấu trùng ra và bố trí thí nghiệm.
3.2.2. Phương pháp gây nuôi tảo làm thức ăn:
- Dụng cụ : keo thủy tinh 10 lít, pipet, dây sục khí, các dụng cụ trước
khi dùng nuôi tảo phải xử lý nhằm tránh tảo giống bị nhiễm tạp. Rửa bằng
xà phồng sau đó rửa sạch bằng nước ngọt (nước máy hay nước giếng), đem
ngậm trong nước Javel (500 lít nước ngọt cho vào 100ml Javel) trong 2 giờ,
tiếp tục ngâm trong nước acid 0.5 giờ, rửa sạch lại bằng nước ngọt và đem
đi sử dụng.
- Nguồn nước nuôi tảo chủ yếu là nguồn nước biển tự hay nước ót,
nước ngọt có thể sử dụng nước máy hay nước giếng. Pha nước thành 25%o
vào bể lắng để xử lý trước khi cho vào túi lọc giòn. Nước nên xử lý tại bể
lắng với Chlorine ở nồng độ 20ppm. Sục khí liên tục để loại bỏ mùi
22
Chlorine , sau đó kiểm tra còn Chlorine hay không, nếu còn trung hòa lại
bằng Thiosulphate Natri với liều lượng bằng với liều lượng Chlorine.
- Liều lượng môi trường dinh dưỡng nuôi tảo:
Chaetoceros : 1 lít nước cho vào (2ml dung dịch Walne + 2ml dung
dịch silic ).
Dunaliella , Nannochloropsis, Tetraselmis :1 lít nước cho vào (2ml
dung dịch Walne )
- Các yếu tố môi trường: Do nuôi trong phòng kín nên nhiệt độ và
ánh sáng được khống chế cho phù hợp với sự phát triển của tảo
Nhiệt độ được duy trì ở 24
o
C bằng máy điều hòa
Ánh sáng (1000-2000lux) chiếu sáng liên tục

Sục khí liên tục giúp tảo lơ lửng trong nước, tránh lắng xuống đáy
keo, làm tảo có cơ hội tiếp xúc đều với ánh sáng và chất dinh dưỡng. Sục
khí cũng giúp nhiệt độ nước đều trong keo nuôi, tránh phân tầng.
- Thu hoạch, bảo quản và xử lý tảo
Quan sát keo nuôi nếu thấy mật độ tảo dầy thì ta tiến hành thu hoạch,
cần giữ lại 1/10 giống tảo nuôi qua keo khác nhằm duy trì tảo nuôi, đem tảo
đi li tâm sau đó bỏ vào tủ lạnh và cho ăn tùy theo nhu cầu của người sử
dụng,
3.2.3 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện với 4 nghiệm thức (tương ứng với 4 loài
tảo) và 3 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức:
Nghiệm thức 1 (NT1) Chaetoceros
Nghiệm thức 2 (NT2) Dunaliella
Nghiệm thức 3 (NT3) Nannochloropsis
Nghiệm thức 4 (NT4) Tetraselmis
Thí nghiệm gồm hai bước: nuôi chung quần thể Artemia cho tới khi
cá thể trưởng thành và nuôi riêng (từng cặp cá thể)
Nuôi chung: Artemia được bố trí trong các chai mũ hình chóp 500ml
chứa 400ml nước ở nồng độ muối 80%o, nhiệt độ phòng và mật độ thả nuôi
là 200 nauplii/400ml(500nauplii/1 lít).
23

Chế độ cho ăn: 2 lần/ngày, liều lượng cho ăn theo kiểu thỏa mãn bằng
cách quan sát màu nước trong chai nuôi, biểu hiện bơi lội của Artemia và sự
hiện diện thức ăn trong đường ruột (nếu thức ăn bị đứt quãng thì lượng thức
ăn đưa vào không đủ và phải bổ sung thêm, ngược lại nếu nước có biểu
hiện dơ, màu tảo còn đậm thì lượng thức ăn được điều chỉnh giảm).
Chế độ thay nước: Tùy thuộc vào chất lượng nước của chai nuôi, khi
quan sát mẫu, nếu thấy phân Artemia thải ra môi trường nước khá nhiều thì
tiến hành thay nước mới.

Sục khí: bằng bằng que sục khí và đưa xuống tận đáy chai để quá
trình di chuyển của khí sẽ làm cho thức ăn không bị lắng tụ xuống đáy như
vậy hiệu quả lọc của Artemia trong quá trình bơi lội sẽ tốt hơn.
Nuôi riêng: nhằm xác định các chỉ tiêu sinh sản của Artemia. Sau khi
quần thể Artemia ở các nghiệm thức có xuất hiện bắt cặp, tiến hành bắt
ngẫu nhiên 30 cặp của mỗi nghiệm thức và nuôi riệng biệt từng cặp trong
mỗi ống nghiệm với chế độ cho ăn 2 lần/ngày, thay nước sau mỗi đợt sinh
sản của Artemia.
3.2.4. Thu thập số liệu:
 Tỉ lệ sống được xác định vào ngày thứ 8, 11, 14.
 Sức sinh sản, phương thức sinh sản được xác định theo từng cặp.
- Trung bình Số phôi/ lần sinh sản(sức sinh sản)
- Tổng số phôi được sinh sản/con mẹ
- Tổng số cyst được sinh/con mẹ
- Tổng số nauplii được sinh/con mẹ
- Tổng số lần tham gia sinh sản/ con mẹ
- Trung bình số lần sinh sản cyst/con mẹ
- Trung bình số lần sinh sản nauplii/con mẹ
- Khoảng cách giữa 2 lần tham gia sinh sản/con mẹ(ngày)
- Tỷ lệ % Cyst: tổng số Cyst/tổng số phôi.
- Tỷ lệ % Nauplii: tổng số Nauplii/tổng số phôi.
- Tỷ lệ Cyst /Nauplii trong vòng đời: tổng số cyst/ tổng số
Nauplii của 1 con mẹ.
24
- Thời gian trước sinh sản: thời gian từ khi nuôi đến khi đẻ lứa đầu
tiên.
- Thời gian sinh sản: thời gian từ lúc con mẹ bắt đầu sinh sản đến lần
sinh sản cuối cùng.
- Thời gian sau sinh sản: thời gian từ khi con mẹ sinh sản lần cuối
cùng đến khi chết.

 Chiều dài Artemia: được xác định vào ngày thứ 7, 14 bằng cách
bắt ngẫu nhiên 30 con trong quần thể của mỗi nghiệm thức, sau đó đo từ
đỉnh đầu của Artemia đến điểm cuối đuôi, dưới kính hiển vi chuyên dùng
cho việc đo mẫu vật có kích thước nhỏ và hình dạng cong.
 Phân tích số liệu: số liệu được xử lý với bảng tính Excel và
chương trình SPSS để so sánh độ sai biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở
mức p<0.05.


















25
PHẦN IV:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện môi trường
4.1.1.Độ mặn (nồng độ muối)

Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv (2007) thì Artemia có khả năng sống ở
những vùng nước mặn có biên độ muối rộng (từ vài %o đến 250%o). Ở độ
mặn lớn hơn 250%o Artemia chết đồng loạt do môi trường vượt ngữơng
chịu đựng. Artemia franciscana Vĩnh Châu trong quá trình du nhập đã được
thuần hóa theo điều kiện Việt Nam và có thể phát triển tốt ở độ mặn 80-
120%o
Còn theo nghiên cứu của Huỳnh Thanh Tới về “Ảnh hưởng mật độ
nuôi khác nhau đến sinh trưởng sinh sản của Artemia Franciscana Vĩnh
Châu” (1996) đã chọn nồng độ muối 90%o cho môi trường nuôi thí
nghiệm, vì ở nồng độ này thích hợp cho sự sinh trưởng của Artemia.
Trong thí nghiệm này cũng sẽ duy trì ở độ mặn 80%o cũng là một
trong những độ muối được cho là thích hợp cho sự phát triển của quần thể
Artemia Vĩnh Châu (Nguyễn Văn Hòa và ctv., 2007). Đồng thời ở nồng độ
muối này ngoài tự nhiên sẽ hạn chế được kẻ thù của Artemia như cá, tôm
tép, copepoda.
4.1.2. Nhiệt độ:
Theo Nguyễn Văn Hòa và ctv (2007), nhiệt độ có ảnh hưởng rất
nhiều đến sinh trưởng cũng như sinh sản của Artemia, vì vậy nhiệt độ cần
được duy trì trong khoảng thích hợp, Artemia Vĩnh Châu có thể phát triển
tốt trong điều kiện nhiệt độ 22-35
o
C.
Còn theo nghiên cứu của Huỳnh Thanh Tới về “Ảnh hưởng mật độ
nuôi khác nhau đến sinh trưởng sinh sản của Artemia Franciscana Vĩnh
Châu”(1996), cho rằng nhiệt độ là một yếu tố gây ảnh hưởng đến sự sống
và sinh trưởng của Artemia, nhiệt độ lúc 14 giờ là cao nhất vào những ngày
trời nắng gắt 37
o
C, thấp nhất vào những ngày mưa lớn29
o

C.
Trong thí nghiệm này nhiệt độ luôn ổn định trong khoảng dao động
từ 28-30
o
C(nhiệt độ phòng).


×