TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN HOÀNG PHÚ
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨCĂN KHÁC NHAU
LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG
TƯỢNG (Oxyeleotris marmoratus) TỪ GIAI ĐOẠN HƯƠNG
LÊN GIỐNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN HOÀNG PHÚ
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨCĂN KHÁC NHAU
LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG
TƯỢNG (Oxyeleotris marmoratus) TỪ GIAI ĐOẠN HƯƠNG
LÊN GIỐNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ts. BÙI MINH TÂM
2009
1
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin được phép bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến gia đình và những
người thân đã động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cán bộ hướng dẫn Ts. Bùi Minh Tâm đã
động viên, giúp đỡ tận tình và cho tôi những lời khuyên qúi báo trong suốt thời gian
thực hiện đề tài và viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giảng dạy của trường Đại
Học Cần Thơ và khoa Thủy Sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được học tập và
đã tận tâm truyền đạt cho tôi những kiến thức chuyên môn trong suốt thời gian học
tập.
Xin chân thành cảm ơn anh (chị) Đỗ Văn Minh, Nguyễn Hồng Quyết Thắng,
Lê Văn Bình, Nguyễn Thanh Sử, Trần Hoàng Diễm đã tận tình giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn
Nguyễn Hoàng Phú
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
TÓM TẮT 4
DANH SÁCH CÁC BẢNG 5
DANH SÁCH CÁC HÌNH 6
Chương I 7
ĐẶT VẤN ĐỀ 7
1.1. Giới thiệu 7
1.2. Mục tiêu của đề tài 7
1.3. Nội dung đề tài 8
Chương II 9
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 9
2.1. Đặc điểm sinh học 9
2.1.1 Đặc điểm phân loại 9
2.1.2. Đặc điểm hình thái 10
2.1.3. Đặc điểm phân bố 10
2.1.4. Tập tính sống 10
2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng. 11
2.2. Đặc điểm sinh sản 12
2.3. Sản xuất giống cá bống tượng 13
2.3.1. Ương trong ao đất 15
2.3.2. Ương trong bể xi măng 16
2.3.3. Ương cá hương thành cá giống lớn ( 8 – 10cm) 17
2.4. Ảnh hưởng của thức ăn và nhịp cho ăn lên tăng trưởng của cá bống tượng.17
2.4.1. Các loại thức ăn 17
2.4.2. Nhịp cho ăn 18
2.4.3 Điều kiện nuôi 18
Chương III 19
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19
3.1. Thời gian và địa điểm 19
3
3.2. Nguồn cá thí nghiệm 19
3.3. Vật liệu nghiên cứu 19
3.4 Phương pháp nghiên cứu 19
3.4.1. Bố trí thí nghiệm 19
3.4.2. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn 22
3.4.3. Xử lý số liệu 23
Chương IV 24
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 24
4.1. Các yếu tố môi trường 24
4.1.1. Biến động của nhiệt độ, pH, oxy hoà tan và NH
4
+
24
4.1.2. Hàm lượng NH
4
+
27
4.2 Thí nghiệm1: ương nuôi cá bống tượng với các loại thức ăn khác nhau 28
4.2.1 Tốc độ tăng trưởng về khối lượng 28
4.2.2 Tốc độ tăng trưởng về chiều dài 28
4.2.3 Tỷ lệ sống 29
4.2.4 Hệ số thức ăn 31
4.3.Thí nghiệm 2: ương nuôi cá bống tượng từ cá hương lên cá giống trong giai.
31
4.3.1 Tăng trưởng về khối lượng 31
4.3.2 Tăng trưởng về chiều dài 32
4.3.3 Tỷ lệ sống 32
4.3.4 Hệ số thức ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn 33
Chương V 35
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 35
5.1 Kết luận 35
5.2 Đề xuất 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
4
TÓM TẮT
Hai thí nghiệm đã được tiến hành để đánh giá ảnh hưởng của thức ăn ở giai
đoạn cá hương lên cá giống cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus).
Thí nghiệm thứ nhất được bố trí trong xô nhựa có thể tích 60lít và cho ăn
thức ăn trùn quế, trùn quế kết hợp thức ăn viên, thức ăn viên. Ba nghiệm thức với
ba lần lặp lại, thí nghiệm kéo dài 60 ngày. Kết quả cho thấy cá sử dụng thức ăn trùn
quế là tốt nhất, cho tăng trọng 1,77g và tỉ lệ sống 91,11% so với hai nghiệm thức
còn lại.
Thí nghiệm hai được bố trí trong giai đặt trong ao, giai có thể tích 1m
3
và cho
ăn thức ăn tự chế kết hợp với dịch cá, thức ăn tự chế với trùn chỉ, thức ăn tự chế. Ba
nghiệm thức với ba lần lặp lại, thí nghiệm kéo dài 50 ngày. Cá ở thí nghiệm sử dụng
thức ăn tự chế kết hợp với dịch cá cho tăng trưởng/ngày là 1,08g/ngày, FCR là 8,48.
Cá ăn hoàn toàn thức ăn tự chế cho tăng trọng thấp là 5,73 và FCR cao 9,88.
Tóm lại, tăng trọng và tỉ lệ sống của cá bống tượng ở nghiệm thức sử dụng
thức ăn trùn quế là thích hợp nhất cho việc ương nuôi cá bống tượng trong giai đoạn
từ hương lên giống.
5
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 3. 1 : Thành phần dinh dưỡng của thức ăn
Bảng 3. 2: Thành phần dịch cá thủy phân (%VCK)
Bảng 4.1: Biến động nhiệt độ sáng chiều ở các nghiệm thức
Bảng 4.2: Biến động pH theo thời gian
Bảng 4.3: Biến động oxy theo thời gian
Bảng 4.4: Biến động NH
4
+
/NH
3
theo thời gian
Bảng 4.5: Sự tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng của cá bống tượng sau 60
ngày ương bằng các loại thức ăn khác nhau.
Bảng 4.6: Tỉ lệ sống của cá bống tượng.
Bảng 4.7: Sự tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng của cá bống tượng sau 50
ngày ương trong giai bằng các loại thức ăn khác nhau.
Bảng 4.8 : Tỉ lệ sống của cá bống tượng khi ương trong giai.
6
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài của cá bống tượng ( Oxyeleotris marmoratus).
Hình 4.1: Biến động nhiệt độ theo thời gian
Hình 4.2: Biến động pH theo thời gian
Hình 4.3: Biến động oxy theo thời gian
Hình 4.4: Biến động NH
4
theo thời gian
Hình4.5: Trọng lượng cá gia tăng theo thời gian ương với các loại thức ăn khác
nhau.
Hình 4.6 : Cá bống tượng.
Hình 4.7: Tăng trọng của cá khi sử dụng các loại thức ăn khác nhau.
7
Chương I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, các hoạt động nuôi trồng thủy sản đặc biệt là
nuôi trồng thủy sản nước lợ, ở các vùng ven biển nước ta nói chung và Đồng Bằng
Sông Cửu Long nói riêng, càng trở nên năng động. Từ nhiều hình thức nuôi, nuôi
quảng canh, nuôi công nghiệp. Đối tượng nuôi mang tính chất truyền thống như
Tôm Sú, Tôm thẻ chân trắng, chủ yếu là các loại tôm.
Riêng các loại cá mặc dầu vẫn thích nghi được với vùng nước lợ, song chưa
được chú trọng trong nghề nuôi. Từ lâu chỉ là đối tượng khai thác.
So với nhiều loài thuỷ sản có giá trị như cá ngừ đại dương, cá anh vũ, cá lăng
nha, cá chiên, cá mú…, cá bống tượng là loài cá có giá trị kinh tế lẫn thương mại.
Cá bống tượng thịt thơm ngon, không mỡ, màu sáng trong, vị ngọt thanh và thơm
nhẹ ( Nguyễn Chung, 2007).
Trong năm 2006, cá bống tượng loại 1 cỡ 500 – 800 g/con giá không thấp
hơn 350.000 đ/ kg. Đây là loài cá thích nghi được với các điều kiện môi trường đặc
biệt là các vùng nước lợ và các vùng hạ lưu sông, có độ mặn dao động từ 4 – 15 ptt.
Hiện nay, nghề nuôi cá bống tượng đang trong giai đoạn bắt đầu còn mang tính tự
phát như nuôi trong ao mương ở Đồng Nai, Bình Dương, nuôi bè ở An Giang, nuôi
đầm ở Tân Thành Cà Mau. Những thông tin kỹ thuật về nuôi cá bống tượng hãy còn
quá hiếm hoi.
Cá bống tượng là loài cá có cơ thể lớn nhất trong họ cá bống, có tính ăn mồi
động vật (Trần Thanh Xuân,1995). Cá tăng trưởng rất chậm, đặc biệt là ở giai đoạn
nhỏ dưới 100 gr/ con, cá trên 100gr có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn. Để việc ương
nuôi cá bống tượng đạt hiệu quả, chất lượng ở mọi môi trường và giảm sự phụ
thuộc vào nguồn cá tạp thì nghiên cứu: “ Ảnh hưởng của các loại thức ăn lên tăng
trưởng và tỉ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeletris marmoratus) được thực hiện.
1.2. Mục tiêu của đề tài
Xác định loại thức ăn thích hợp và hiệu quả sử dụng thức ăn đối với sự tăng
trưởng của cá Bống Tượng trong ương nuôi đạt kết quả, góp phần xây dựng quy
trình ương đối tượng này.
8
1.3. Nội dung đề tài
- Ương cá bống tượng bằng các loại thức ăn khác nhau
- Theo dõi tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá.
- Xác định hệ số chuyển hoá thức ăn trong giai đoạn ương từ hương lên giống.
9
Chương II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm sinh học
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Cá Bống Tượng (Oxyeleotris marmoratus) được phân loại như sau:
Lớp: Osteichthyes
Lớp phụ: Artinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Eleotridae
Loài: Oxyeleotris marmoratus
Hình 2.1: Hình dạng bên ngoài của cá bống tượng ( Oxyeleotris marmoratus)
Trong thuỷ sản Cá Bống Tượng còn có nhiều tên gọi khác nhau. Ở Trung
Quốc có tên là Soen hock dzi, Thái Lan gọi là plabu, người Campuchia gọi là Soon
– Hock (một địa danh của thuỷ vực gần Biển Hồ). Cá Bống Tượng còn có tên
thương mại là Marbled sleepy Goby (Nguyễn Chung,2007).
Nhiều nước trong khu vực đã nghiên cứu và cho sinh sản nhân tạo thành
công cá Bống Tượng như: Indonesia (1978), Thai Lan và Singapore (1980). Ở Việt
Nam, năm 1985 nhiều cơ quan như viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II; khoa
thuỷ sản trường Đại Học Nông Lâm, Thành Phố Hồ Chí Minh; Đại Học Cần Thơ đã
nghiên cứu về sinh học và sinh sản cá Bống Tượng (Trần Thanh Xuân, 1995).
Theo các kết quả của Tavarutmaneegul và Lin (1988) thì tỉ lệ sống của cá bột
Bống Tượng 30 ngày tuổi trung bình là 20 % (từ 7 – 55 %) và thức ăn tự nhiên ban
10
đầu thích hợp cho cá Bống Tượng là luân trùng (Brachionus spp.) (Nguyễn Văn Tủ,
1986).
Vài năm trở lại đây đã thu hút nhiều địa phương tham gia nghiên cứu đã giúp
chúng ta hiểu biết ít nhiều về đặc điểm sinh học, sinh sản.
2.1.2. Đặc điểm hình thái
Cá bống tượng có hình dạng như búp măng tre, thân tròn dài, phần thân trước
tròn lớn nhỏ dần về phần sau và dẹp ngang về phía đuôi. Đầu rộng hơi hẹp, miệng
chẻ rộng và sâu hướng lên trên. Chiều dài đầu gần bằng
1
/
4
chiều dài thân. Mắt nằm
ở mặt trên của đầu, hơi lồi các vây to và mềm, vây đuôi tròn dài vây ngực hơi nhọn.
Toàn thân cá được phủ 1 lớp vảy lược, có màu nâu nhạt hơi xám, trên thân có
những đám vân lớn như vân đá cẩm thạch. Màu sắc của cá thay đổi theo khu vực cá
sinh sống, cá sống trong ao hầm có màu sắc đậm hơn cá nuôi trong bè cá thiên
nhiên vùng nước chảy.
Cá bống tượng có miệng rộng, trong hàm có nhiều răng mọc thành dãy, cơ
quan tiêu hoá có dạ dày to, ruột ngắn nên cá có tập tính ăn mồi động vật (Nguyễn
Chung, 2007).
2.1.3. Đặc điểm phân bố
Cá Bống Tượng là loài cá đặc trưng của vùng nhiệt đới là loài cá dữ điển
hình, ăn động vật chủ yếu, phân bố rộng ở Việt Nam, Thái Lan, Malaysia,
Campuchia… Ở Việt Nam cá xuất hiện ở hệ thống sông Cửu Long, Đồng Nai, Vàm
Cỏ ( Niconski, 1963).
Cá phân bố ở khắp các thuỷ vực sông rạch, mương ao, ruộng. Cá sống được
ở môi trường nước bị nhiễm phèn pH = 5,5, sống được ở nước có nhiệt độ cao tới
41,5
0
C chịu đựng được nhiệt độ lạnh 15
0
C và độ mặn 15
0
/
00
(Nguyễn Chung, 2007).
2.1.4. Tập tính sống
Cá có tập tính sống ở đáy, ban ngày ít hoạt động và thường vùi mình xuống
bùn, ban đêm hoạt động bắt mồi tích cực. Cá ưa ẩn náo nơi cây cỏ rậm ven bờ và
rình bắt mồi, khi gập nguy hiểm cá có thể vùi sâu trong bùn tới 1m sống được nhiều
giờ. Đặc biệt cá có thể sống nhiều ngày không ăn, hoạt động trong điều kiện bị giữ
trong lu, xô có nước không ngập hết thân cá. Khi hàm lượng oxy hoà tan trong nước
thấp cá có hiện tượng phùng mang nổi đầu trên mặt nước. Do cá sống ở tầng đáy
nên mọi biến động chất lượng môi trường nước ở tầng đáy dễ làm cá mất sức, yếu
đi và chậm lớn (Nguyễn Chung, 2007).
11
Môi trường sống thuận lợi cho cá sinh trưởng tốt như nuôi trong môi trường
nước ngọt không bị nhiễm phèn pH thích hợp 6,5 – 7, nhiệt độ 26 – 32
0
C và oxy
trên 3mg/l (Nguyễn Chung, 2007). Nhờ có cơ quan hô hấp phụ, cá có thể chịu được
trong điều kiện oxy thấp và ngay cả chiu rut trong bùn trong nhiều giờ. Cá có thể
sống trong khoảng nhiệt độ 15 – 41,5
0
C. Cơ quan hô hấp phụ chủ yếu là da và tuyến
nhầy trên đầu, giúp cá sử dụng khí trời nhiều giờ liền trong điều kiện ẩm (Nguyễn
Anh Tuấn, 1993).
2.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng.
Khi phân tích chiều dài ruột và chiều dài thân Cá Bống Tượng cho thấy tỉ lệ
Li/L = 0,7 (Dương Tấn Lộc, 2002) kết hợp với miệng to rộng, hàm có nhiều răng
mọc thành dãy, dạ dày to, ruột ngắn là loài cá ăn tạp thiên về động vật, khi đói cá
cũng tấn công săn bắt những con cá khác và có thể ăn lẫn nhau.
Theo Nguyễn Anh Tuấn và ctv (2004), các nhà nghiên cứu trước đây việc
thay thế thức ăn tự nhiên hoàn toàn không thể thực hiện được trong ương nuôi các
loài cá do thức ăn nhân tạo không kích thích cá bắt mồi vì không kích thích thị giác
cá. Cá bột rất khó bắt mồi là thức ăn nhân tạo nên không ăn đủ lượng thức ăn cần
thiết. những nghiên cứu của Kolkovski và ctv (1997), được trích bởi Nguyễn Anh
Tuấn và ctv (2004), kết quả khả quan của việc kết hợp thức ăn tươi sống và thức ăn
chế biến. Một số nghiên cứu cho đã cho thấy hoạt tính của enzym tiêu hoá thấp ở
ngày đầu ăn thức ăn ngoài và tăng dần trong suốt giai đoạn ấu trùng trước khi
chuyển sang giai đoạn khác (Walford và Lam, 1993 được trích bởi Nguyễn Anh
Tuấn và ctv, 2004). Vì vậy, ở hầu hết cá bột, bắt đầu ăn thức ăn ngoài, chúng đòi
hỏi có thời gian nhất định để phát triển khả năng thích nghi với thức ăn bên ngoài.
Cá Bống Tượng hoạt động tích cực săn mồi vào ban đêm, nếu nơi sống có
điều kiện thích hợp cá hoạt động cả ban ngày. Cá ăn mạnh về đêm hơn ngày, nước
rong ăn mạnh hơn nước kém. Cá thích ăn tôm tép, cá sống, trùng đất, khi đói ăn tôm
cá chết nhưng không ăn động vật ươn thối (Nguyễn Chung, 2007).
Dưới 100g cá tăng trưởng chậm, từ 100g trở lên cá tăng trưởng nhanh, nuôi
một năm có thể đạt 900g, dài 20 cm (Sở Nông Nghiệp Đồng Tháp,1994). Ở giai
đoạn từ cá bột đến cá giống, cá phải mất thời gian là 2 – 3 tháng mới đạt được chiều
dài khoảng 3 – 4 cm. Từ cá giống để có thể đạt được kích cỡ 100 g/con cho việc
nuôi bè, cá cần khoảng 4 – 5 tháng nữa. Để có được cá thương phẩm từ 400 g/con
trở lên, cá giống có trọng lượng 100 g/con cần thời gian nuôi từ 5 – 8 tháng
(Nguyễn Mạnh Hùng, 1995).
12
2.2. Đặc điểm sinh sản
Cá cái cỡ 150g/con là có thể thành thục sinh sản, sức sinh sản khá cao. Trái
với quy luật tự nhiên, cá Bống Tượng càng lớn càng ít trứng, cá cỡ 150 – 200g/con
có số lượng trứng nhiều nhất 270.000 trứng/kg cá cái, cỡ 250g/con giảm chỉ còn
76.000 trứng/kg và cỡ 350g/con giảm còn 58.700 trứng/kg.
Cá Bống Tượng sinh sản lần đầu sau 9 – 12 tháng tuổi. Mùa sinh sản tự
nhiên kéo dài từ tháng 3 – 11, tập trung từ tháng 5 – 8, sức sinh sản 150.000 –
200.000 trứng/ kg cá cái (Dương Tấn Lộc, 2002). Cá tự bắt cặp và đẻ trứng. Trứng
có hình quả lê dính chặt vào các hang, hốc đá, bọng cây, các vật hình ống hay gạch
đá có dưới ao.
Sau khi đẻ cá đực canh tổ và ấp cùng cá cái, cá cái bơi quanh tổ trứng dùng
đuôi quạt nước tạo thành dòng chảy cung cấp oxy cho phôi trứng phát triển nở
thành cá bột. Thời gian ấp trứng là 25 – 26 giờ ở nhiệt độ 28 – 30
0
C.
Sau khi nở 1 ngày cá bột có chiều dài 0,38 – 0,4mm, cá chuyển độgn thẳng
đứng rồi từ từ buông mình chìm xuống đáy.
Cá bột 2 ngày tuổi dài 0,4 – 0,45mm, mắt có sắc tố đen, vi ngực xuất hiện, cá
bơi thẳng đứng.
Cá bột 3 ngày tuổi dài 0,5 – 0,6mm, noãn hoàng tiêu hết.
Cá bột 12 ngày tuổi dài 1,5 – 3mm, đã xuát hiện đầy đủ vây.
Cá bột 18 ngày tuổi dài 5 – 8mm, đã hình thành vảy, có hình dạng của cá
trưởng thành.
Cá con 30 ngày tuổi dài khoảng 13mm.
Cá con 45 ngày tuổi dài khoảng 21mm.
Cá con 60 ngày tuổi dài khoảng 30mm.
Cá con 75 ngày tuổi dài khoảng 41mm.
Cá con 90 ngày tuổi dài khoảng 53mm.
Từ cá hương 4 – 5cm cần thêm 4 – 5 tháng cá mới đạt kích cỡ cá giống 100
g/con (Nguyễn Chung, 2007).
Môi trường sống
Cá bống tượng sống thích hợp và phát triển tốt trong môi trường nước ngọt
không bị nhiễm phèn pH thích hợp 6,5 – 7, nhiệt độ 26 – 32
0
C và oxy trên 3 mg/l.
13
Ở những môi trường khắc nghiệt mà nhiều loài cá khác không thể sống được,
cá bống tượng có thể sống được ở những vùng bị nhiễm phèn pH = 5,5, những vùng
nước lợ độ mặn cao 15
0
/
00
, sống được ở nhiệt độ thấp 15
0
C và chịu được nắng nóng
trên 38 – 41,5
0
C. Cá có cơ quan hô hấp phụ nên có thể chịu được môi trường dưỡng
khí thấp chỉ cần lượng oxy hòa tan trong nước trên 2 mg/l là cá sống được. Nhưng
khi phải buộc sống trong môi trường khắc nghiệt này, cá chậm lớn khó thành thục
sinh sản. Cá sống ở nước lợ 6
0
/
00
vẫn phát triển thành thục sinh sản bình thường.
Môi trường nước cho cá bống tượng sống rất quan trọng vì không chỉ cho cá
sống mà còn cho các thủy sinh động thực vật và tôm tép cá sống làm thức ăn tự
nhiên cho cá bống tượng. Môi trường nước ổn định tốt, mồi ăn đầy đủ, cá bống
tượng có sức đề kháng cao, ký sinh trùng mầm bệnh khó xâm nhập, cá khỏe mạnh
tăng trưởng nhanh.
Khi có sự thay đổi môi trường gây sốc cá bị yếu mất sức đề kháng dễ bị ký
sinh trùng xâm nhập và nhiễm bệnh chết. Ở giai đoạn cá dưới 12cm, nếu có sự thay
đổi môi trường sống đột ngột cá dễ bị sốc và thường chết hàng loạt.
Khi chọn địa điểm nuôi cá bống tượng nên chọn nơi có nguồn nước tốt, sạch
khong chọn những nơi vượt ngưỡng thích hợp, trừ trường hợp không thể chọn nơi
tốt hơn mới chấp nhận ở những nơi bị nước biển xâm nhập có độ mặn 5 - 6
0
/
00
vài
tháng trong năm.
Môi trường nước có tác động lớn đến hiệu quả nuôi vỗ cá bố mẹ, cho cá đẻ,
ấp trứng, ương dưỡng cá con thành cá giống và nuôi cá thịt. Tốc độ dòng chảy, bổ
sung thay nước mới và đặc biệt khi tăng các chất dinh dưỡng để tăng chất lượng
nước cho cá đều phải được chú trọng quan tâm (Nguyễn Chung, 2007).
2.3. Sản xuất giống cá bống tượng
Ao nuôi vỗ cá bống tượng có diện tích từ 500 – 1000m
2
, nguồn nước trong
ao phải trong sạch, không bị ô nhiễm, đất không bị nhiễm phèn nhiễm mặn. Ao phải
có nguồn cấp thoát nước chủ động. Trước khi thả cá ao cần phải tẩy dọn sạch sẽ, vét
hết bùn đáy ao, trang bằng đáy ao, dùng dây thuóc cá để diệt tạp với lượng 0,5
kg/100
2
. Sau đó tiến hành bón vôi với lượng 5 – 7kg/100m
2
. Ở những vùng bị
nhiễm phèn lượng vôi có thể tăng lên gấp đôi. Sau khi bón vôi nên tiến hành phơi
đáy ao 2 – 3 ngày. Sau khi cải tạo xong, tiến hành lấy nước vào ao. Cống phải bịt
lưới hai đầu và kích thước mắt lưới nhỏ để ngăn cá tạp và địch hại xâm nhập vào ao
cũng như không cho cá thoát ra ngoài.
14
Chọn cá bố mẹ khoẻ mạnh, không bị xây sát và phải đảm bảo các tiêu chuẩn
sau: cá trên 1 năm tuổi, trọng lượng từ 0,25 – 1,5kg, kích cỡ đều, mập, khoẻ, không
dị tật.
Cá cái: gai sinh dục dài gần đến gốc vây hậu môn, có màu đỏ ửng và tươi,
đầu gai sinh dục tròn, bụng cá to tròn. Trong một số trường hợp cá thành thục sinh
dục có thể thấy buồng trứng hai bên bụng.
Cá đực: gai sinh dục ngắn, đầu mút nhọn có hình tam giác.
Thời gian nuôi vỗ: tuỳ từng điều kiện cụ thể mà thời gian nuôi vỗ khác nhau.
Thời điểm nuôi vỗ thích hợp là vào cuối tháng 12 hay đầu tháng giêng.
Mật độ nuôi vỗ từ 0,2 – 0,3kg/m
2
(nuôi chung đực, cái) hoặc 0,5kg/m
2
(nuôi
riêng đực, cái). Cho cá ăn các loại thức ăn như: cá vụn, tép, ốc,cua,… Mỗi ngày cho
ăn 2 lần vào buổi sáng và vào buổi chiều. Lượng thức ăn hằng ngày chiếm từ 3 - 5%
trọng lượng cá. Thức ăn nên đặt cố định trong sàn ăn. Hằng ngày kiểm tra sàn ăn để
loại bỏ thức ăn thừa.
Do cá bống tượng là loài cá đẻ trứng dính và đẻ ở tầng đáy vì vậy cần chuẩn
bị giá thể cho cá đẻ. Giá thể có thể là mê bồ, ống nước hay gạch tàu. Tuy nhiên,
nhược điểm của mê bồ là để lâu ngày gây thối nước ảnh hưởng đến trứng cá. Trước
khi đặt giá thể cần phải rửa sạch và đặt nghiêng một góc 45
0
hay song song với đáy
và cách đáy 20 – 30cm.
Vào mùa sinh sản, hằng ngày nên kiểm tra giá thể khoảng 2 -3lần để vớt
trứng tránh các loài cá tạp ăn trứng. Khi kiểm tra thao tác phải nhẹ nhàng, tránh
khuấy động làm ảnh hưởng tới cá. Sau khi vớt trứng xong thì tiến hành ấp trứng.
Trong quá trình ương ấp trứng cần tạo môi trường thuận lợi. Môi trường ương ấp
trứng cần có nhiệt độ thích hợp từ 25 – 28
0
C, oxy hòa tan >5mg/l, pH từ 7 – 7,5 và
không có vi sinh vật hại trứng (động vật phù du nhóm Cyclops, bọ gạo…). Thời
gian nở của trứng từ 34 – 82giờ. Nhìn chung thời gian nở càng cao (trong giới hạn
cho phép) thì thời gian nở càng nhanh. Ngoài ra phương pháp ấp trứng cũng ảnh
hưởng tới thời gian nở. Thời gian nở của phương pháp nước tĩnh bắt đầu từ 36giờ
và kéo dài đến 82giờ trong khi thời gian nở của phương pháp nước chảy và nước
tĩnh có sục khí cũng bắt đầu từ 36giờ nhưng tập trung nhất vào khoảng 48 – 56giờ
sau khi thụ tinh. Qua kinh nghiệm thực tiễn thì ấp trứng theo phương pháp nước
tĩnh có sục khí là tốt nhất vì kích thước cá bột rất nhỏ và rất yếu dễ mẫn cảm với
điều kiện môi trường (theo Ngô Bá Thành (1988) trích bởi Dương Nhựt Long,
2003).
15
Kỹ thuật ương
Có hai cách ương cá bống tượng bột là ương trong ao đất và ương trong bể xi
măng.
2.3.1. Ương trong ao đất
Ao cần phải tẩy dọn sạch sẽ, vét bùn đáy ao, không nên để lớp bùn quá dày,
phơi khô đáy ao sau đó cấp nước vào ao với mức nước 0,8 – 1 m khoảng 2 – 3 ngày
mới thả cá vào ao. Diện tích ao nuôi từ 250 – 1000m
2
khi đưa nước vào ao qua lưới
lọc mịn (0,5 – 0,7mm) tránh cá tạp, cá dữ và các loại động vật thủy sinh gây hại.
Nếu có bọ gạo xuất hiện thì phải diệt ngay trước khi thả cá ( diệt bằng dầu hôi). Sau
đó xả bỏ lớp nước mặt và thả cá ( Bùi Minh Tâm & Lê Như Xuân, 1995).
Mật độ ương có thể dao động từ 500 – 1000 con/m
2
. Nên thả cá bột lúc hết
noãn hoàng cá được thả sáng sớm hoặc chiều mát, nhiệt độ nước 28 – 30
0
C, oxy hòa
tan là 4 – 5mg/l, pH 6,5 – 7,5.
Ao ương cá bống tượng không cần bón phân trước nhưng cần có một ao gây
nuôi tảo và trùng bánh xe riêng biệt. Trong giai đoạn này cho cá ăn 50 – 70g bột
đậu nành và 10 lòng đỏ trứng bóp nhuyễn cho 100.000 cá bột. Thức ăn được rãi
điều khắp ao. Hàng ngày nên cho ăn 4 – 5 lần. Lượng thức ăn mỗi ngày tăng dần lên
5- 10%. Thêm vào đó mỗi ngày vớt tảo và trùng bánh xe cho cá ăn. Sau 20 ngày
tuổi, cá ăn được thức ăn tự nhiên có kích thước lớn như giáp xác chân chèo, giáp
xác râu ngành. Lúc này cần quan sát màu nước ao. Nếu ao không lên màu thì tiến
hành bón phân với liều lượng 25 – 30kg/100m
2
đối với phân hữu cơ và 3 – 4g phân
DAP ( Bùi Minh Tâm & Lê Như Xuân, 1995).
Từ ngày 26 – 40 có thể cho cá ăn trùng chỉ, cá tép hay thịt ốc xay nhuyễn.
Mỗi ngày cho ăn 0,5 – 1,5kg/100m
2
ao đến thời điểm này cá đạt 2 – 3cm ( Nguyễn
Chung, 2007).
Ương cá con thành cá giống: Khi cá đạt kích cỡ 2 – 3cm ta tiếp tục nuôi 1,5 –
2 tháng nữa tại ao đang ương hoặc thu hoạch kiểm tra rồi chuyển sang ao khác. Mật
độ ương 100 – 150 con/m
2
. Thức ăn là cá vụn, tép, ốc… băm nhỏ, mỗi ngày cho ăn
hai lần và cho vào sàn đặt cố định ở một nơi. Ở tháng đầu lượng thức ăn là 10%
trọng lượng cá ương, tháng thứ hai là 8% trọng lượng cá. Thường xuyên kiểm tra
trọng lượng cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
Thường xuyên thay nước ao nếu không lợi dụng được thủy triều cũng phải
thay đổi nước ít nhất 2 lần/tuần (Nguyễn Chung, 2007).
16
2.3.2. Ương trong bể xi măng
Có thể sử dụng bể xi măng, bể lót bạt nhựa hay bể composite bể cáo diện tích
từ 15 – 30m
2
, có chiều sâu 80 – 100cm, giữ nước trong bể ở mức 60 – 80cm, cứ 3 –
4m
2
có một viên đá bọt sục khí liên tục 24/24 để đảm bảo lượng oxy hòa tan trong
nước. Vệ sinh bể ương và dụng cụ, chà rửa khắp thành và đáy bể bằng chlorine
20ppm, rửa lại bằng nước sạch, phơi nắng từ 6 – 12 tiếng rồi mới cho nước vào bể.
Trước khi cấp nước vào bể ương phải lắng lọc kỹ, dùng chlorine nồng độ
20ppm để xử lý và diệt hết các sinh vật gây hại sống trong nước. Sau 24 giờ nước
có thể dùng được, nên sục khí liên tục để ổn định và duy trì chất lượng nước trong
suốt quá trình ương, chất lượng nước tốt có hàm lượng oxy trên 5mg/l, pH 6.8 – 7,
nhiệt độ 28 -30
0
C, không ô nhiễm. Mọi thay đổi môi trường chất lượng nước ở
khoảng 10 – 15% đều có nguy cơ gây sốc làm cá yếu đi và chết.
Có thể dùng nước giếng để lắng 2 – 3 ngày, xử lý bằng chlorine nhưng phải
đạt chất lượng nước tốt (Nguyễn Chung, 2007).
Mật độ ương trên bể xi măng thường là 1000 – 2000 con/m
2
giai đoạn đầu và
150 – 250 con/m
2
ở giai đoạn sau.
Kỹ thuật ương: có thể ương cá thành hai giai đoạn từ 3 – 10 ngày tuổi và 10
– 60 ngày tuổi.
Cá bột từ 3 – 10 ngày tuổi được ương trong bể xi măng với các loại thức ăn
khác nhau như lòng đỏ trứng (1trứng/2vạn cá), bột đạu nành xay nhuyễn (1 muỗng
cà phê/5000 cá) và thức ăn tự nhiên với thành phần chủ yếu là nguyên sinh động vật
như: protozoa, trùng bánh xe, tảo đơn bào Chlorella.
Sau 10 ngày ương, cá có thể ăn được các loại sinh vật thức ăn có kích thước
thấy được bằng mắt thường như giáp xác chân chèo, giáp xác râu ngành. Trong giai
đoạn này cá được cho ăn thêm moina và lòng đỏ trứng trộn với đậu nành số lượng
giảm đi một nửa. Khi cá được 15 ngày tuổi thì không cần cung cấp trứng và bột đậu
nành. Sau 25 ngày cá đã hình thành đầy đủ sắc tố và bám vào thành bể bằng vi bụng
hay nằm ở đáy bể. Sau 30 ngày tuooircas có thể ăn ấu trùng muỗi, giáp xác nhỏ…
Sau 60 ngày tuổi cá đạt 3 – 4cm thì tiến hành ương tiếp thành các giống ( Bùi Minh
Tâm & Lê Như Xuân, 1995).
Từ ngày 60 – 90, cho cá ăn trùng chỉ cá con và tép rong sống. Nếu thức ăn là
cá con và tép chết phải tươi không nên xay hay băm nhỏ mà dùng kéo hay dao cắt
nhỏ.
17
Ương cá 4 – 5cm lên cá giống với mật độ ương 80 – 120 con/m
2
. Chế độ cho
ăn trong thời gian này như sau: tháng đầu cho ăn 70% trùng chỉ và 30% cá, trọng
lượng bằng 10% trọng lượng cá nuôi. Tháng thứ hai, cho cá ăn 50% trùng chỉ và
50% cá, trọng bằng 8 – 9% trọng lượng cá nuôi. Tháng thứ ba, cho cá ăn 30% trùng
chỉ và 70% cá, trọng lượng bằng 6 – 7% trọng lượng cá nuôi. Tháng thứ tư, cho cá
ăn 15% trùng chỉ và 85% cá, trọng lượng bằng 5% trọng lượng cá nuôi. Thức ăn
cho vào bể ở các vị trí cố định đề có thể theo dõi sức khỏe của cá và kiểm tra sức ăn
của cá để điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày. Sau khi cho ăn khoảng 1 – 1.5 giờ
nên lấy hết thức ăn thừa ra.
Nước trong bể ương phải thay thường xuyên, tránh ô nhiễm do thức ăn thừa
bị phân hủy và do các hoạt động bài tiết của cá gây ra, mỗi lần thay khoảng 20%
lượng nước trong bể. Hàng ngày siphon đáy lấy thức ăn dư thừa và phân cá ra, cấp
thêm mức nước vào bằng với mức nước ban đầu và duy trì chất lượng nước ổn định.
Sục khí cần phải liên tục nếu không phải giảm mật độ ương nuôi từ 50 – 100 con/m
2
(Nguyễn Chung, 2007).
2.3.3. Ương cá hương thành cá giống lớn ( 8 – 10cm)
Để cá có kích thước 8 – 10cm ta tiếp tục ương cá thêm 3,5 – 4 tháng. Kỹ
thuật chuẩn bị ao ương như chuẩn bị ao ương cá bột lên cá hương. Mật độ ương từ
75 – 100 con/m
2
. Thức ăn cho cá là cá vụn, tép, ốc… băm nhỏ.
Mỗi ngày cho ăn 2 lần. Thức ăn cho vào sàn đặt ở nơi cố định. Khẩu phần
thức ăn mỗi ngày bằng 7 – 10% trọng lượng cá, thường xuyên kiểm tra tốc độ tăng
trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn thích hợp (Phạm văn Khánh, 2006).
Nước trong ao ương nên được thay thường xuyên. Nếu không lợi dụng được
thủy triều thì cũng phải thay ít nhất 2 lần trong tuần. Khi cá đạt 8 – 10cm (15 – 30g)
thì chuyển sang nuôi cá lứa hoặc chuyến hằn sang nuôi thịt (Phạm văn Khánh,
2006).
2.4. Ảnh hưởng của thức ăn và nhịp cho ăn lên tăng trưởng của cá bống tượng.
2.4.1. Các loại thức ăn
Theo Bùi Minh Tâm & Lê Như Xuân (1995), khi thí nghiệm cá ở 30 ngày
tuổi cho ăn với các loại thức ăn khác nhau thì trùng chỉ cho thấy kết quả cá 50 ngày
tuổi và cho ăn trùng chỉ kết hợp với thức ăn viên cho tốc độ tăng trưởng cao nhất (từ
1,141g tăng lên 4,586g) sau 60 ngày theo dõi.
18
2.4.2. Nhịp cho ăn
Theo Bùi Minh Tâm & Lê Như Xuân (1995), khi theo dõi nhịp cho ăn của cá
sau 60 ngày thì thấy cá cho ăn cả ngày lẫn đêm cho tốc độ tăng trọng cao hơn so với
cá chỉ cho ăn ngày hoặc chỉ cho ăn đêm.
2.4.3 Điều kiện nuôi
Cá Bống Tượng sống thích hợp và phát triển tốt trong môi trương nước ngọt
không không bị nhiễm phèn với các chỉ tiêu về môi trường:
Nhiệt độ: thích hợp từ 26 – 32
o
C, chịu nhiệt độ thấp 15
o
C và trên 38 – 41.5
o
C.
pH: thích hợp 6.5 – 7 và cũng có thể sống ở những vùng nhiễm phèn trung bình
với pH = 5.5.
Độ mặn: 0 – 15
o
/
oo
. Cá sống ở nước lợ 6
o
/
oo
vẫn phát triển thành thục sinh sản
bình thường.
Oxy: trên 3 mg/L, đặc biệt cá có cơ quan hô hấp phụ nên có thể chịu đựng môi
trường dưỡng khí thấp, trên 20 mg/L là đã sống được.
N – NH
3
: 0.2 – 2 ppm.
N – NO
2
: nhỏ hơn 0.1 ppm.
19
Chương III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm
Thời gian: Đề tài bắt đầu thực hiện từ tháng 12 – 2008 và kết thúc vào cuối
tháng 06 – 2009.
Địa điểm: Trại Cá – Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Cần Thơ.
Đối tượng nghiên cứu: Cá Bống Tượng (Oxyeleotris marmoratus).
3.2. Nguồn cá thí nghiệm
Nguồn cá thí nghiệm được lấy từ trại cá của khoa Thủy Sản – Trường Đại
Học Cần Thơ. Cá Bống Tượng có chiều dài từ 2,5 – 4.5 cm và được ương đến
giống.
3.3. Vật liệu nghiên cứu
Xô nhựa 60L ( 9 xô), 9 giai 1m
2
Hóa chất: Chlorine dùng để khử trùng đáy bể; Formol, muối dùng để khử
trùng thức ăn
Máy đo oxy, pH, nhiệt độ, hệ thống sục khí, cân điện tử, thước,vợt vớt cá,
kính lúp và một số dụng cụ khác.
Thức ăn cho cá bao gồm: Thức ăn tự chế, trùn chỉ, trùn quế, tép.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm 1: Thử nghiệm ương nuôi cá bống tượng từ cá hương lên cá giống với
các loại thức ăn khác nhau.
Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức lập
lại 3 lần.
Nghiệm thức I: Trùn quế
Nghiệm thức II: Thức ăn viên kết hợp với trùn quế xay
Nghiệm thức III: Thức ăn viên
Chăm sóc và quản lí: Thí nghiệm được bố trí trong bể xi măng có sục khí với
mực nước 0.4 m. Ban đầu cá chỉ ăn trùn chỉ, trong quá trình ương cá được cho ăn
trùng quế, thức ăn viên kết hợp với trùn quế xay, thức ăn viên. Cá được cho ăn theo
nhu cầu nhưng với khẩu phần dao động từ 3 – 7 % khối lượng thân (tính theo khối
20
lượng khô), sáng cho ăn 1/3 lượng thức ăn, chiều cho ăn 2/3 lượng thức ăn (ban
ngày cá rất ít ăn) và cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7, 17 giờ. Trong thời gian thí nghiệm,
thường xuyên theo dõi và ghi lại hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá và đếm số cá
chết, kết thúc thí nghiệm đếm số cá còn lại đồng thời cân và đo chiều dài tổng cộng
của số cá còn lại. Các bể được sục khí liên tục và thay nước hàng ngày, lượng nước
thay 20 – 30% lượng nước trong bể.
Thí nghiệm 2: Thử nghiệm ương nuôi cá bống tượng từ cá hương lên cá giống
trong giai với các loại thức ăn khác nhau.
Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức
lập lại 3 lần.
Nghiệm thức I: thức ăn tự chế với dịch cá
Nghiệm thức II: thức ăn tự chế với dịch trùn chỉ
Nghiệm thức III: thức ăn tự chế
Chăm sóc và quản lí: Thí nghiệm được bố trí trong giai có sục khí với mực
nước 0.4 m. Ban đầu cá chỉ ăn trùng chỉ, trong quá trình ương cá được cho ăn thức
ăn tự chế với dịch cá, thức ăn tự chế với trùng chỉ, thức ăn tự chế. Cá được cho ăn
theo nhu cầu nhưng với khẩu phần dao động từ 3 – 7 % khối lượng thân (tính theo
khối lượng khô), sáng cho ăn 1/3 lượng thức ăn, chiều cho ăn 2/3 lượng thức ăn
(ban ngày cá rất ít ăn) và cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7, 17 giờ. Trong thời gian thí
nghiệm, thường xuyên theo dõi và ghi lại hoạt động bơi lội, bắt mồi của cá và đếm
số cá chết, kết thúc thí nghiệm đếm số cá còn lại đồng thời cân và đo chiều dài tổng
cộng của số cá còn lại. Các giai được sục khí liên tục.
Phương pháp thu và phân tích mẫu
Trước khi bố trí thí nghiệm, cá được xác định khối lượng ban đầu bằng cách
cân lấy khối lượng trung bình cá. Khi kết thúc thí nghiệm cũng cân lấy khối lượng
trung bình cá, đếm cá còn lại trong giai và bể để xác định tỷ lệ sống cá.
Chỉ tiêu tăng trưởng: định kỳ 30 ngày/ lần bắt ở mỗi bể 30 con để kiểm tra
tốc độ tăng trưởng chiều dài, khối lượng của cá. Sau khi thu mẫu xong các được thả
lại giai và bể tiếp tục nuôi để tính tỷ lệ sống sau khi kết thúc thí nghiệm.
Các chỉ tiêu môi trường: oxy, pH, nhiệt độ được đo trực tiếp bằng máy, đo
định kỳ 7 ngày/ lần ở mỗi giai và bể vào 8 giờ sáng và 16 giờ chiều trong ngày.
Các chỉ tiêu theo dõi và tính toán
Các chỉ tiêu môi trường: Oxy, pH, nhiệt độ định kỳ 7 ngày/ lần.
21
Tỷ lệ sống (Survival rate, SR)
Số cá thu được
SR (%) = x 100
Số cá thả lúc đầu
Khối lượng cá cân được
Khối lượng trung bình: (g)=
Số cá đem cân
Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (Specific growth rate, SGR) về khối lượng (% /ngày)
và chiều dài (% /ngày)
Ln P
2
( hay L
2
) – Ln P
1
( hay L
1
)
SGR (% /ngày)= x 100
t
2
– t
1
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối theo ngày (Daily weight Gain, DWG) về khối
lượng (g/ngày) và chiều dài (cm/ngày)
P
2
( hay L
2
) – P
1
( hay L
1
)
DWG (g/ngày)=
t
2
– t
1
22
Trong đó, P
1
, P
2
(g): Khối lượng cá ở thời điểm t
1
, t
2
.
L
1
, L
2
(cm): Chiều dài trung bình tại thời điểm t
1
, t
2
.
t
1
, t
2
: Thời điểm kiểm tra.
Hệ số tiêu tốn thức ăn (Feed Conversion Ratio, FCR)
Lượng thức ăn sử dụng
FCR=
Trọng lượng của cá gia tăng
3.4.2. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn
Dịch cá thủy phân màu vàng nâu chưa 90% vật chất khô, hàm lượng protein
dao động 62 – 80%. Trong đó, hợp chất phi protein chiếm tỉ lệ cao, dịch cá thủy
phân chứa đầy đủ các amino acid tự do và các peptide nên được sử dụng nhiều
trong thức ăn thủy sản như là một dẫn dụ.
Dịch trùn quế được phối chế bằng cách xay nhuyễn, dùng vải mịn lọc bỏ xát
chỉ lấy nước đặc.
Thức ăn tự chế được mua từ công ty Cargil với hàm lượng đạm khoảng 80%
Bảng 3. 1 : Thành phần dinh dưỡng của thức ăn
Độ khô (%) Protein (%) Lipid (%) Tro (%)
Trùn quế 19,22 61,98 10,48 7,0
Thức ăn viên 11,00 43 8 14
23
Bảng 3. 2: Thành phần dịch cá thủy phân (%VCK)
Thành phần Trung bình Dao động
Vật chất khô 94,0 89,0-96,0
Protein 71,0 62,0-80,0
Chất béo 4,0 3,0-8,2
Tro 13,5 12,0-16,0
Muối khoáng 5,0 3,5-6,0
Nguồn: Hertrampf and Piedad-Pascual (2000)
VCK: Vật chất khô
3.4.3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý theo chương trình Excel version 5.0 và Statistica. So sánh
trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào phương pháp phân tích ANOVA version
3.0 và phép thử DUCAN ở mức ý nghĩa p < 0.05.