Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Đề tài: “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.37 KB, 97 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

Đề tài:
“Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực
tiễn áp dụng tại công ty TNHH nhà nước một
thành viên Thăng Long”

SVTH: Nguyễn Thị Yến

1


Khố luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

LỜI NĨI ĐẦU

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch kinh tế diễn ra ngày
càng sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với sự phát triển đó
thì nhu cầu tất yếu là cần phải có một cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện các giao dịch này. Hợp đồng là một là một lựa chọn hàng đầu đối với
các nhà đầu tư. Hiện nay, đa số các giao dịch đều được cụ thể hóa dưới hình
thức hợp đồng, nó là căn cứ nhằm ràng buộc các bên vào những gì mà họ đã
cam kết, để khi có tranh chấp xảy ra thì đó là một trong các căn cứ quan trọng
để xác định trách nhiệm của các bên. Trong điều kiện nước ta mới gia nhập
WTO, được hội nhập trong môi trường kinh tế cạnh tranh cơng bằng và lành
mạnh, mà ở đó sự bảo hộ của nhà nước là gần như không tồn tại vì vậy các
doanh nghiệp phải tự mình vận động để tồn tại và phát triển trong môi trường


cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Chính vì vậy vấn đề pháp lí về hợp đồng
được các bên đặc biệt chú ý, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ về mặt nội dung và
hình thức trong tất cả các giao dịch và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Hiện nay pháp luật về hợp đồng của nước ta đã hình thành và ngày càng
hoàn thiện đồng thời cũng đang được điều chỉnh cho phù hợp với pháp luật hợp
đồng của thế giới có như vậy mới bảo đảm khả năng hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Hiện nay các hợp đồng về mua bán hàng hóa, dịch vụ chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng số các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp thực hiện, vì
trên thực tế hiện nay thì nền kinh tế dịch vụ và mua bán hàng hóa mang lại một
doanh thu khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân các nước. Với một khối lượng
hàng hóa dịch vụ khổng lồ lưu thơng trên thị trường mà khơng có hợp đồng thì
rất dễ gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế. Trên thực tế thì vai trị của hợp đồng
là khơng thể phủ nhận nhưng cịn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hồn thiện
hành lang pháp lý.
Trong công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Thăng
Long - GTC hàng năm đàm phán và kí kết một khối lượng hợp đồng tương đối
lớn, đặc biệt là các hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ.

SVTH: Nguyễn Thị Yến

2


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

Các hợp đồng này hàng năm đem lại cho công ty những khoản thu rất lớn
vì đây là một cơng ty nhà nước mà hoạt động chủ yếu là dịch vụ. Trong đó các
hợp đồng về dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng không nhỏ,gồm cả hợp đồng du lịch

mang bản chất là dân sự và cả hợp đồng du lịch mang tính chất kinh doanh
thương mại. Do hoạt động du lịch của Công ty TNNHH Nhà nước một thành
viên Thăng Long GTC là tương đối rộng nên trong phạm vi hạn hẹp của bài báo
cáo chuyên đề này tôi chỉ đề cập đến

Những hợp đồng dịch vụ du lịch

mang bản chất là hợp đồng dân sự ( tức là những hợp đồng du lịch
được ký kết giữa cá nhân khách du lịch ( người tiêu dùng dịch vụ du lịch) với
một bên là đại diện Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC
Nội dung chuyên đề: “PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU
LỊCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT
THÀNH VIÊN THĂNG LONG -GTC”
Bài viết được chia làm 3 phần lớn là :
Chương I. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch.
Chương II. Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch
tại Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC.
Chương III. Nhận xét và một số kiến nghị.
Để bài viết được thành công tôi rất hi vọng nhận được sự giúp đỡ của cán
bộ công ty và giáo viên hướng dẫn thực tập chuyên đề.

SVTH: Nguyễn Thị Yến

3


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế


CHƯƠNG I. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG.
Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí giữa các cá nhân tổ chức có năng lực
chủ thể để từ đó làm xuất hiện những quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy hợp
đồng là sự cụ thể hóa ý chí của các bên trong quan hệ giao dịch, và là căn cứ để
từ đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ.
1.1.1. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội.
Quan hệ trao đổi hàng hoá là quan hệ kinh tế giữa những người có hàng
hố được thiết lập trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên mà hình thức thể hiện
của nó là bản giao kèo. Bản giao kèo này là hợp đồng. Quan hệ trao đổi sản
phẩm hàng hoá trở thành quan hệ pháp luật khi được pháp luật điều chỉnh và
hợp đồng trở thành hình thức pháp lý của nó. Sự ra đời của hợp đồng là đòi hỏi
khách quan của nền sản xuất hàng hố. Đã có sản xuất hàng hố tất yếu phải có
hợp đồng để trao đổi sản phẩm hàng hố. Sau đó cùng với sự phát triển của xã
hội, hợp đồng phát triển cả ngoài phạm vi trao đổi hàng hố. Người ta có thể
thoả thuận thống nhất ý chí với nhau về việc làm một việc gì hoặc khơng làm
một việc gì đó thì cũng là hợp đồng.
Hợp đồng có vai trị quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân,
là cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xác lập mối quan hệ hợp tác giữa
các bên ký kết hợp đồng.
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia
nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó việc các bên thiết lập với nhau quan
hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với đời sống xã hội.
Tuy nhiên việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó khơng phải tự nhiên hình
thành bởi tài sản ( vốn là hiện thân của lợi ích vật chất) khơng thể tự tìm đến
nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những
hành vi có ý chí của chủ thể. Mác nói rằng:

SVTH: Nguyễn Thị Yến


4


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

“ Tự chúng hàng hố khơng thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau
được. Muốn cho những vật đó trao đổi được với nhau, thì những người giữ
chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong hiện vật đó”.(1)
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các
chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ
có thể áp dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi
ích chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chính
đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích của tồn xã hội.
Hợp đồng là cơng cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của
chính các chủ thể kinh doanh, làm cho các kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có
thể được thực hiện nếu người sản xuất mua được nguyên vật liệu và kí được hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng cũng được cụ thể hoá,
chi tiết hoá kế hoạch sản xuất mua bán, giá cả, thời gian giao hàng… Như vậy
nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người sản xuất kinh doanh quyết định và thỏa
thuận với khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận.
Thơng qua việc đàm phán kí kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt
được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực
của kế hoạch sản xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua
q trình kí kết hợp đồng các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính tốn chênh
lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh.
Thông qua hợp đồng mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ
kinh tế, xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật. Khi hợp

đồng được kí kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán
giải quyết khi có tranh chấp.
1.1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp
đồng.
Pháp luật đề cao nguyên tắc tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền
kinh tế thị trường. Nguyên tắc này được Hiến pháp thừa nhận. Tại Điều 15 hiến
(1)

Các Mác: “Tư bản”, quyển 1, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1973, Tr.163

SVTH: Nguyễn Thị Yến

5


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

pháp 1992 nêu rõ: Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với
các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu tồn dân và sở hữu tập thể
là nền tảng.(1)
Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh của mọi
công dân: “Cơng dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật”(2). Như vậy mọi cá nhân tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền
tham gia giao kết bất kỳ hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà khơng ai có
quyền ngăn cản. Nhưng bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ

thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi
ích của tồn xã hội
Như vậy tự do kinh doanh khơng có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà nó
phải đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. Mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều
bình đẳng trước pháp luật, chịu sự quản lý của Nhà nước. Mặc dù, mọi chủ thể
trong nền kinh tế khi có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi ( khi thoả
mãn những điều kiện do pháp luật quy định) theo quy định của pháp luật thì đều
có quyền tham gia giao kết hợp đồng kinh tế nhằm mục đích nhất định mà
khơng ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền
giao kết những hợp đồng đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những
hợp đồng khác mà pháp luật chưa có quy định. Khi tham gia vào quá trình ký
kết hợp đồng các chủ thể được tự do thể hiện ý chí của mình, tự do đưa vào hợp
đồng những nội dung, điều khoản có lợi nhất cho mình để đảm bảo khả năng
thực hiện hợp đồng và giành được ưu thế khi có tranh chấp xảy ra
Hơn nữa tại Điều 50 Bộ luật dân sự 2005 cũng đã ghi nhận quyền tự do kinh
doanh:

(1)

Điều 15 Hiến pháp 1992
Điều 57 Hiến pháp 1992

(2)

SVTH: Nguyễn Thị Yến

6


Khoá luận tốt nghiệp


Khoa Luật kinh tế

“Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Cá nhân có quyền lựa chọn lĩnh vực, hình thức, ngành nghề kinh doanh, lập
doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù
hợp với quy định của pháp luật”(1).
Trong quá trình giao kết hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi của mình các
bên có thể đưa vào hợp đồng những điều khoản nội dung trái pháp luật xâm hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, lợi ích cơng cộng và lợi ích của
tồn xã tồn xã hội.
Trong đời sống xã hội hiện nay yếu tố thoả thuận trong giao kết hợp
đồng ngày càng được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thoả thuận. Tuy
nhiên không thể suy luận ngược lại là mọi thoả thuận đều là hợp đồng.
Những thoả thuận được coi là hợp đồng nếu nó phù hợp với ý chí của các
bên, tức là sự ưng thuận đích thực của các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp
pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây phải hợp lẽ công bằng, hợp đạo đức và pháp
luật. Các hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc
mua chuộc khơng có sự ưng thuận đích thực, tức là có sự vơ hiệu của hợp đồng.
Như vậy, một sự thoả thuận khơng thể hiện ý chí đích thực của các bên thì
khơng phát sinh quyền và nghiã vụ pháp lý của các bên. Vì vậy, Nhà nước buộc
các bên khi tiến hành giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức xã hội, pháp
luật, trật tự xã hội, trật tự công cộng.
Để hạn chế sự tự do thái quá của các chủ thể khi tham gia vào quá trình
giao kết thực hiện hợp đồng thì cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật
trong quan hệ hợp đồng. Vì sự tự do nào cũng phải nằm trong khn khổ nhất
định. Pháp luật là sự cụ thể hoá ý chí của Nhà nước. Bên cạnh chú ý đến quyền
lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những
người khác cũng như lợi ích của tồn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải
“ không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Nằm trong mối quan hệ tương ứng

giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi chủ thể vừa “có quyền tự do giao kết hợp đồng”

(1)

Điều 50 Bộ Luật dân sự 2005

SVTH: Nguyễn Thị Yến

7


Khố luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

vừa có nghĩa vụ tơn trọng pháp luật và đạo đức xã hội.
Lợi ích cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được
coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi chủ thể trong việc giao kết hợp đồng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không
cho phép tất cả các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng
thành phương tiện bóc lột.
Vì vậy, để bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định và
đặc biệt là hiện nay khi nước ta đã ra nhập WTO thì cần phải có một hành lang
pháp lý thơng thống và đủ mạnh để làm kim chỉ nam cho việc giao kết và thực
hiện hợp đồng nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong
và ngoài nước nhưng đồng thời cũng ngăn chặn được các hành vi lợi dụng sức
mạnh của doanh nghiệp nước ngoài nhằm chèn ép các doanh nghiệp trong nước.
Hiện nay, hầu hết các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua hợp đồng
nên việc ban hành pháp luật về hợp đồng là hết sức cần thiết trong giai đoạn
hiện nay nhằm đáp ứng các yêu cầu khách quan của nền sản xuất hàng hoá, vì

khi nền kinh tế sản xuất hàng hố phát triển thì nhu cầu trao đổi hàng hố giữa
các tổ chức sản xuất, kinh doanh với nhau ngày càng gia tăng. Điều này khơng
tránh khỏi việc cần phải có hình thức, biện pháp để ghi nhận, bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia vào việc trao đổi những hàng hoá đó. Chính vì vậy việc
ban hành pháp luật về hợp đồng trong đó nêu rõ những thoả thuận của các bên
phải thực hiện và việc giải quyết nếu có những hành vi vi phạm các thoả thuận
đó.
1.1.3. Nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng, khi giao kết các bên tham gia có vai trò quan
trọng trong việc xác định xem hợp đồng đó áp dụng luật nào để điều chỉnh.
Nguyên tắc điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng có thể do các bên tự
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi tham gia vào quan hệ hợp
đồng các bên chủ thể đều có vị trí ngang hàng nhau khơng bên nào được đe dọa
bên nào nhằm mục đích cưỡng chế bên kia giao kết thực hiện hợp đồng. Vì vậy
trong quá trình đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng các bên phải đảm bảo
nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, hợp tác đơi bên cùng có lợi. Tuy nhiên tự do

SVTH: Nguyễn Thị Yến

8


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

giao kết hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đối với hợp đồng thì căn cứ để ràng buộc các bên là những gì các bên đã
cam kết, và các văn bản pháp luật có liên quan. Việc lựa chọn văn bản pháp luật
nào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng phải căn cứ vào sự lựa chọn và tính chất

của hợp đồng đó. Ngồi việc áp dụng luật chung là Bộ Luật dân sự thì đối với
từng loại hợp đồng cụ thể cịn có những văn bản luật chun ngành điều
chỉnh.Vì vậy đối với từng loại hợp đồng nguyên tắc áp dụng pháp luật theo thứ
tự ưu tiên như sau: Nếu có luật chun ngành điều chỉnh thì áp dụng luật
chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành và các lĩnh vực pháp luật khác có quy
định mâu thuẫn thì áp dụng luật chun ngành, nếu luật chun ngành khơng có
quy định thì áp dụng Bộ luật dân sự 2005. Trong trường hợp có điều ước quốc
tế mà Việt Nam đã là thành viên có quy định áp dụng điều ước quốc tế thì áp
dụng điều ước quốc tế đó, mặc dù nó trái với pháp luật trong nước.
Ngồi ra các bên có thể áp dụng các tập quán và các quy định tương tự
của pháp luật nếu pháp lụât không có quy định và các bên khơng có thỏa thuận
(Điều 3 Luật dân sự).
Trong phạm vi Chuyên đề tốt nghiệp này tôi chỉ đế cập đến mảng hợp
đồng dịch vụ du lịch với tư cách là một hợp đồng dân sự nên pháp luật áp
dụng cho hợp đồng dịch vụ du lịch là Bộ luật dân sự 2005, ngoài ra hoạt động
du lịch còn chịu sự điều chỉnh của Luật du lịch 2005. Nếu có những hoạt động
du lịch nào mà Bộ lụât dân sự 2005 không quy định hoặc quy định trái với văn
bản của chuyên ngành du lịch thì áp dụng Luật du lịch 2005, Ngồi ra hoạt động
du lịch còn liên quan đến hoạt đồng xuất nhập cảnh của người và hành lý nên
hợp đồng dịch vụ du lịch còn chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh xuất nhập cảnh
năm 2000.
1.2. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG.
1.2.1. Hợp đồng dân sự.
1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng dân sự.
1.2.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng dân sự.
Hợp đồng ra đời từ nhu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh và
lưu thông hàng hố, nó có vai trị vơ cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc

SVTH: Nguyễn Thị Yến


9


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

dân.
Hợp đồng bảo đảm cho việc duy trì một nền kinh tế thị trường vận hành
đúng quy luật. Trong nền kinh tế hàng - tiền thì mọi thoả thuận giữa các bên
trong quan hệ kinh tế đều phải hết sức rõ ràng và minh bạch có như vậy mới bảo
đảm cho việc thực hiện hợp đồng và là căn cứ cho việc xác định trách nhiệm
của các bên khi xảy ra tranh chấp liên quan đến hợp đồng.
Từ vai trị quan trọng đó của hợp đồng thì ở mọi Nhà nước đều có những
quy định về hợp đồng nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng , tránh
tình trạng các bên tuỳ tiện đưa vào hợp đồng những nội dung vi phạm pháp luật
và trái với nguyên tắc hoạt động của Nhà nước.
Theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005, tại điều 388 hợp đồng được
hiểu như sau: “ Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về viêc xác
lập, thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”(1). Hợp đồng dân sự là một
loại hợp đồng nói chung và được hiểu theo nghĩa rộng. Hợp đồng là sự thoả
thuận giữa các bên, tức là sự thống nhất về mặt ý chí của các chủ thể khi tham
gia giao kết hợp đồng. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà khơng
được bên kia chấp nhận cũng khơng thể hình thành mối quan hệ hợp đồng để
qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm một cơng việc đối với nhau
được. Vì vậy, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì
quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là
quan hệ hợp đồng dân sự.
Như vậy cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thoả
thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực

pháp luật

( tức là được pháp luật bảo vệ ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý

chí của Nhà nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng
sự tự do đó được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của
xã hội và lợi ích cơng cộng.
Khái niệm hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều khía cạnh
khác nhau.Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự là do các quy
định của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà
(1)

Điều 388 BLDS 2005

SVTH: Nguyễn Thị Yến

10


Khố luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng
nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định.
Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển
giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể cịn là sự thoả thuận
để thay đổi chấm dứt các nghĩ vụ đó. Hợp đồng dân sự và pháp luật về hợp

đồng dân sự là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Hợp đồng dân sự theo
nghĩa chủ quan là một quan hệ được hình thành từ sự thoả thuận của các bên để
thoả mãn nhu cầu trao đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng dân
sự là sự thừa nhận, là yêu cầu của Nhà nước đối với giao lưu dân sự đó.
a). Đặc điểm của hợp đồng dân sự.
- Chủ thể của hợp đồng dân sự: Chủ thể tham gia vào hợp đồng dân sự là
những người tham gia vào quan hệ đó. Vì hợp đồng dân sự chính là sự cụ thể
hóa của các quan hệ pháp luật dân sự. Nên chủ thể của hợp đồng dân sự là chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy chủ thể của hợp đồng dân sự gồm cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước cũng là một chủ thể của
quan hệ hợp đồng dân sự . Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng dân sự
các chủ thể này độc lập với nhau về tổ chức và tài sản. Để tham gia vào quan hệ
dân sự cụ thể thì các chủ thể phải có tư cách chủ thể theo quy định của pháp
luật.
Vì vậy chủ thể của hợp đồng dân sự là rất rộng nó bao gồm đại bộ phận
dân cư trong xã hội.
- Mục đích của hợp đồng dân sự: Là cái mà các bên khi tham gia quan
hệ hợp đồng nhằm hướng tới. Trong hợp đồng dân sự thì mục đích của các chủ
thể khi giao kết hợp đồng là phục vụ nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày.
- Hình thức của hợp đồng dân sự: Theo điều 401 Bô luật dân sự 2005 đã
nêu rõ: Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được giao
kết dưới hình thức cụ thể thì các bên phải tuân theo hình thức đó. Tại Điều 401
Bộ luật dân sự quy định:
1.

Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản

hoặc hành vi cụ thể, khi pháp luật khơng quy định đối với loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.

2.

Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể

SVTH: Nguyễn Thị Yến

11


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

hiện bằng văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tn theo các quy định đó.
Hợp đồng khơng bị vơ hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, hình thức của hợp đồng dân sự khá đa dạng tạo điều kiện cho
các chủ thể ký kết thuận lợi. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật đã
quy định buộc phải giao kết theo hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo
hình thức đó. Ngồi ra đối với những hợp đồng khác các bên có thể chọn một
trong các hình thức sau đây để giao kết:
+ Hình thức miệng ( bằng lời nói).
Thơng qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thoả thuận
miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện
những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường áp dụng trong
những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những
trường hợp mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt.
+ Hình thức viết ( bằng văn bản).
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có

thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó,
các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên
xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp xảy ra hợp đồng được giao kết bằng
hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức
miệng. Nên đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc
giao kết thì các bên thường sử dụng hình thức này.Thơng thường hợp đồng
được thành lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản coi như đã có trong tay
một bằng chứng chứng minh quyền dân sự của mình.
+ Hình thức có chứng nhận chứng thực.
Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và
đối tượng của nó là những loại tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát
khi chúng cần được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác thì các bên
phải lập văn bản có chứng nhận của cơng chứng Nhà nước, chứng thực của Uỷ
ban nhân dân có thẩm quyền. Hợp đồng được lập ra dưới hình thức này có giá

SVTH: Nguyễn Thị Yến

12


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

trị chứng thực cao nhất. Nên những hợp đồng mà Nhà nước không yêu cầu phải
lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi của mình được bảo đảm, các bên vẫn
có thể chọn hình thức này để giao kết hợp đồng.
1.2.1.1.2. Phân loại hợp đồng dân sự.
Hợp đồng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Vì vậy, để phân
loại hợp đồng thì ta cần phải căn cứ theo các tiêu chí đó để đảm bảo tính khách

quan và phù hợp với điều kiện thực tế đối với mỗi quốc gia. Ở nước ta thì quan
niệm về hợp đồng được thể hiện trong Bộ luật dân sự và Luật thương mại có sự
khác biệt do tính chất của
quan hệ dân sự và quan hệ thương mại là khác nhau.
Hợp đồng dân sự là bản giao kèo để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ
dân sự giữa các bên. Trong sự đa dạng của các hợp đồng dân sự, có thể dựa vào
các dấu hiệu đặc trưng để phân chúng thành từng nhóm khác nhau.
* Nếu dựa vào hình thức của hợp đồng, thì hợp đồng dân sự được phân
thành hợp đồng miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có cơng chứng chứng nhận,
hợp đồng mẫu…
* Nếu dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên, thì
hợp đồng được phân làm hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ:
- Hợp đồng song vụ: Là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ.
Hay nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đống song vụ là người vừa có
quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong loại hợp đồng này thì quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng là đối lập nhau.
- Hợp đồng đơn vụ: là hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà
khơng có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền và khơng phải
thực hiện một nghĩa vụ nào.
* Nếu dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng thì
hợp đồng được phân làm hai loại theo khoản 3 Điều 406 BLDS 2005 thì hợp
đồng gồm :
- Hợp đồng chính: là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp
đồng khác. Vì vậy các hợp đồng chính khi đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà
pháp luật quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu lực và có hiệu lực bắt buộc

SVTH: Nguyễn Thị Yến

13



Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

đối với các bên từ thời điểm giao kết
- Hợp đồng phụ: là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính
( khoản 4 Điều 406 BLDS).
* Nếu dựa vào tính chất có đi có lại về các lơị ích của các chủ thể , hợp
đồng dân sự được phân thành:
- Hợp đồng có đền bù: là loại hợp đồng mà trong đó mỗi chủ thể sau khi
đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương
ứng.
- Hợp đồng khơng có đền bù: là hợp đồng mà trong đó một bên nhận được
từ bên kia một lợi ích nhưng khơng phải giao lại một lợi ích nào.
* Nếu dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực thì hợp đồng dân sự được
phân thành:
- Hợp đồng ưng thuận: là hợp đồng mà theo quy định của pháp luật,
quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi các bên thoả thuận với
nhau xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng.
- Hợp đồng thực tế: là những hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực
của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối
tượng của hợp đồng.
Tóm lại. Việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa dựa vào sự
quy định của BLDS, vừa dựa trên phương diện lý luận. Qua đó, nhằm xác định
được những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, góp phần nâng
cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự.
1.2.1.2. Nội dung hợp đồng dân sự.
Nội dung của hợp đồng là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng

càng chi tiết cụ thể bao nhiêu thì càng có lợi cho việc thực hiện hợp đồng bấy
nhiêu. Như vậy, nội dung của hợp đồng nó thể hiện ý chí của các bên trong quá
trình thương lượng. Yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, có
khả năng thực hiện, các điều khoản phải rõ ràng cụ thể, ý chí của các bên khơng
được mập mờ và mâu thuẫn.
Bộ luật dân sự 2005 là luật chung, nên các quy định của nó về nội dung
của hợp đồng là những quy định mang tính chất mở, và dùng làm định hướng

SVTH: Nguyễn Thị Yến

14


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

cho các lĩnh vực luật chuyên ngành.
Tại Điều 402 BLDS 2005 quy định nội dung của hợp đồng như sau (1)
“ Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội
dung sau:
-

Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm

hoặc không được làm.
-

Số lượng, chất lượng.


-

Giá phương thức thanh toán.

-

Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.

-

Quyền, nghĩa vụ của các bên.

-

Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

-

Phạt vi phạm hợp đồng.

-

Các nội dung khác.

1.2.2.Dịch vụ và hợp đồng dịch vụ.
1.2.2.1. Vai trò của ngành dịch vụ trong xã hội.
Ngày nay, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, ở nước tiên tiến tỷ trọng của dịch vụ chiếm trong
GDP là 70% - 75%, ở Việt Nam tỷ lệ này là 40% Nghị quyết Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ 9 đã chỉ rõ: “Toàn bộ các giá trị dịch vụ tính theo giá trị

gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 -8% / năm và đến năm 2010
chiếm 42 – 43% GDP, 26 – 27% số lao động”(1). Mạng lưới dịch vụ hình
thành từ nơng thơn đến thành thị và ngày càng phát triển mạnh mẽ để phục vụ
nhu cầu của nhân dân. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế đang trên đà phát triển và
nhu cầu khách quan hình thành các loại hình dịch vụ. Chính vì dịch vụ có vai trị
quan trọng như vậy cho nên việc nghiên cứu các khái niệm về dịch vụ có ý
nghĩa đặc biệt đối với việc nghiên cứu các các hoạt động về dịch vụ du lịch và
hợp đồng dịch vụ du lịch.
1.2.2.2. Khái niệm dịch vụ và hợp đồng dịch vụ.
a). Dịch vụ.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ. Trong nền kinh tế thị
trường dịch vụ được coi là mọi thứ có giá trị, khác với hàng hoá vật chất, mà
một người hoặc một tổ chức cung cấp cho một người hoặc một tổ chức khác
(1)

Điều 402 Bộ Luật dân sự 2005

SVTH: Nguyễn Thị Yến

15


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

để đổi lấy một cái gì đó (2). Khái niệm này chỉ ra các tương tác của con người
hoặc một tổ chức khác trong quá trình hình thành dịch vụ. Khái niệm này cũng
thể hiện quan điểm hướng tới khách hàng vì giá trị của dịch vụ do khách hàng
quyết định.

Trong lý luận Marketing, Dịch vụ được coi như là một hoạt động của
chủ thể này cung cấp cho chủ thể kia, chúng có tính vơ hình và khơng làm
thay đổi quyền sở hữu. Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng khơng nhất
thiết phải gắn liền với quan hệ vật chất.( Nguồn Giáo trình kinh tế du lịch của
Trường ĐHKTQD trang 217)
Một khái niệm dịch vụ hiện được sử dụng rộng rãi là khái niệm dịch vụ
theo định nghĩa của ISO 9004: 1991 “Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các
hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các
hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng”
( Nguồn Giáo trình Kinh tế du lịch của trường ĐHKTQD trang 278).
►Như vậy, Dịch vụ là kết quả của những hoạt động không thể hiện bằng
sản phẩm vật chất, nhưng bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế.
b). Hợp đồng dịch vụ.
● Khái niệm hợp đồng dịch vụ.
Trong BLDS 2005, hợp đồng dịch vụ là một hợp đồng có những đặc
điểm riêng. Các quy phạm của hợp đồng dịch vụ điều chỉnh các loại dịch vụ cụ
thể như: Dịch vụ sửa chữa tài sản,dịch vụ pháp lý, dịch vụ cung cấp thông tin
thương mại, dịch vụ quảng cáo…
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc cụ thể. Người cung ứng
dịch vụ bằng cơng sức, trí tuệ của mình để hồn thành cơng việc đã nhận. Tuy
nhiên, người cung ứng dịch vụ có thể sử dụng người cộng sự giúp việc cho
mình và phải chịu trách nhiệm về những việc xảy ra do lỗi của người cộng sự.
Tuy vậy, bên cung ứng dịch vụ không được giao cho người khác làm thay cơng
việc nếu khơng có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ. Khi thoả thuận về việc thực
hiện công việc dịch vụ phải đưa ra các u cầu của mình về chất lượng kỹ thuật
các thơng số khác… Từ đó các bên có cơ sở thoả thuận các điều kiện cung ứng

(2)

Giáo trình Kinh tế Du lịch Tr. 216, Tr. 217. Nxb Thống kê


SVTH: Nguyễn Thị Yến

16


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

dịch vụ.
Theo Điều 518 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thoả
thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện cơng việc cho bên
th dịch vụ, cịn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ”
● Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy hợp đồng dịch vụ có những đặc điểm
sau đây:
-

Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý nhất

định và giao kết quả cho bên thuê dịch vụ. Tức là bên cung ứng dịch vụ phải
thực hiện các nghĩa vụ mà được bên thuê dịch vụ yêu cầu nhưng phải đảm bảo
đúng quy định của pháp luật, và khi thực hiện xong thì phải thơng báo cho bên
th dịch vụ đến nhận hoặc giao trực tiếp cho bên thuê dịch vụ.
-

Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù. Bên thuê dịch vụ phải

trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ, khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện

công việc và mang lại kết quả như đã thoả thuận.
-

Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ

và bên thuê dịch vụ đều có nghĩa vụ đối với nhau. Bên cung ứng dịch vụ phải
thực hiện hành vi pháp lý theo yêu cầu của bên thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ
có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả cơng việc và trả tiền công cho bên cung ứng dịch
vụ.
● Đối tượng của hợp đồng dịch vụ.
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là cơng việc có thể thực hiện được. Tức
là cơng việc ấy phải có thực, khơng bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội
(Điều 519 BLDS 2005 ).
c). Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ.
*. Bên thuê dịch vụ.
Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền thù lao về kết quả cơng việc mà bên
cung ứng dịch vụ đã hồn thành. Nếu đối tượng của hợp đồng dịch vụ yêu cầu
phải có thơng tin từ bên th dịch vụ, thì bên thuê phải cung cấp tài liệu, thông
tin đầy đủ cho bên cung ứng dịch vụ ( dịch vụ pháp lý). Đối với những loại dịch
vụ yêu cầu phải có phương tiện để thực hiện, bên thuê phải cung cấp phương

SVTH: Nguyễn Thị Yến

17


Khố luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế


tiện đó. (Điều 520 BLDS 2005).
Trong q trình thực hiện dịch vụ nếu có những sai sót từ bên cung ứng
dịch vụ, bên thuê dịch vụ có quyền sửa chữa những sai sót đó. Nếu sai sót
nghiêm trọng địi hỏi phải chi phí thêm, bên thuê dịch vụ có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Bên thuê dịch vụ có quyền hủy hợp đồng nếu bên cung ứng dịch vụ hồn
thành kết quả khơng như thỏa thuận. Hoặc hồn thành cơng việc khơng đúng
thời gian mà cơng việc khơng cịn ý nghĩa đối với bên thuê dịch vụ và yêu cầu
bên cung ứng dịch vụ bồi thường thiệt hại nếu có. (Điều 521 BLDS 2005).
Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng,
số lượng, địa điểm và các thỏa thuận khác. Nếu bên cung ứng dịch vụ vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên th dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả
tiền công cho bên cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận.
*. Bên cung ứng dịch vụ.
Bên cung ứng dịch vụ có thể là cá nhân tổ chức dùng cơng sức của mình
để hồn thành, thực hiện cơng việc do bên thuê dịch vụ chỉ định. Trong thời
gian thực hiện hợp đồng phải tự mình tổ chức thực hiện công việc. Khi hết hạn
của hợp đồng phải giao lại kết quả của cơng việc mà mình đã thực hiện cho bên
thuê dịch vụ.
Bên cung ứng dịch vụ có quyền bên thuê dịch vụ phải cung cấp thông
tin, tài liệu và phương tiện. Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên
th dịch vụ, mà khơng nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nhưng
phải báo cáo ngay cho bên thuê dịch vụ. Yêu cầu bên th dịch vụ trả tiền cơng.
Sau khi hồn thành công việc đúng kỳ hạn mà bên thuê dịch vụ không nhận kết
quả của công việc, nếu xảy ra rủi ro, bên cung ứng dịch vụ không chịu trách
nhiệm về những thiệt hại cho bên thuê dịch vụ (Điều 523 BLDS).
Trong thời gian thực hiện dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ có thể thay đổi
những điều kiện dịch vụ, nếu việc thay đổi đó khơng làm phương hại đến lợi ích
của bên th dịch vụ. Trong quy trình thực hiện nghĩa vụ, bên cung ứng dịch vụ

phải tự mình chuẩn bị phương tiện. kỹ thuật và tổ chức thực hiện công việc mà

SVTH: Nguyễn Thị Yến

18


Khố luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

mình đã nhận. Do vậy, điều kiện của dịch vụ có thể thay đổi cho phù hợp với
khả năng của bên cung ứng dịch vụ.Khoản 2 Điều 523 BLDS 2005 “Được thay
đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên th dịch vụ, mà không nhất thiết phải
chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên
thuê dịch vụ, nhưng phải thông báo ngay cho bên thuê dịch vụ”(1)
Trong tình trạng bình thường, bên cung ứng dịch vụ khơng có quyền thay
đổi điều kiện của dịch vụ, nếu việc thay đổi đó khơng mang lại lợi ích cho bên
thuê dịch vụ. Trường hợp này cần phải thỏa thuận với bên thuê dịch vụ. Nhưng
khi cung ứng dịch vụ nếu không thay đổi điều kiện của dịch vụ sẽ gây thiệt hại
cho bên thuê dịch vụ, việc thay đổi này phải hoàn toàn xuất phát từ lợi ích của
bên thuê dịch vụ. Trong trường hợp này bên cung ứng dịch vụ được phép thay
đổi điều kiện dịch vụ và phải thông báo cho bên thuê dịch vụ. Khi thực hiện
dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ biết được việc tiếp tục làm dịch vụ sẽ có hại
cho bên th dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng mặc dù bên thuê dịch vụ không đồng ý. Bên th dịch vụ có
thể khơng thấy hoặc khơng lường trước hết được hậu quả xảy ra nếu tiếp tục
thực hiện công việc. Bên cung ứng dịch vụ cần phải giải thích cho bên thuê dịch
vụ sự cần thiết phải chấm dứt hợp đồng nếu không sẽ gây thiệt hại cho bên thuê
dịch vụ. Trong trường hợp này bên th dịch vụ phải thanh tốn chi phí cho bên

cung ứng dịch vụ theo số lượng và chất lượng công việc mà họ đã làm.
Khi hợp đồng thực hiện một công việc mà các bên không thỏa thuận về
kết quả cơng việc đó và nếu hết hạn của hợp đồng mà cơng việc chưa hồn
thành thì về ngun tắc hợp đồng chấm dứt và cần thanh lý hợp đồng. Nếu bên
cung ứng dịch vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng cho đến khi hồn thành mà bên
th dịch vụ khơng có ý kiến gì về việc kéo dài thời gian đó thì hợp đồng khi đó
được coi là kéo dài thời hạn. Trong trường hợp này bên thuê dịch vụ phải thanh
tốn tiền cơng của thời gian đã kéo dài sau khi hết hạn hợp đồng (Điều 526
BLDS 2005).
Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở hợp
đồng này không cần thoả thuận nhưng ở một hợp đồng khác các bên lại buộc
(1)

Khoản 2 Điều 523 Tr 239 BLDS 2005

SVTH: Nguyễn Thị Yến

19


Khố luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

phải thoả thuận thì hợp đồng mới được coi là đã giao kết. Mặt khác ngồi nội
dung cụ thể các bên cịn phải thoả thuận để xác định với nhau thêm một số nội
dung khác.
Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng
thành 3 loại như sau:
* Điều khoản cơ bản:

Các điều khoản cơ bản xác định nội dung cơ bản của hợp đồng. Đó là
những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu khơng
thể thoả thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được.
Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của hợp đồng quyết định hoặc do pháp
luật quyết định. Có những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản vì nếu
khơng thoả thuận tới nó sẽ khơng hình thành hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản
về đối tượng luôn là điều khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán tài sản. Nhưng
có những điều khoản mà vốn dĩ không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên
thấy cần thiết phải thoả thuận được điều khoản đó mới giao kết hợp đồng, thì
những điều khoản đó cũng là những điều khoản cơ bản của hợp đồng.
* Điều khoản thông thường:
Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết
hợp đồng các bên khơng thoả thuận những điều khoản này, thì vẫn coi như hai
bên đã mặc nhiên thoả thuận và được thực hiện như pháp luật đã quy định. Khác
với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng đến
quá trình giao kết hợp đồng. Để giảm bớt sự phức tạp trong giao kết hợp đồng
thì các bên có thể khơng đưa các nội dung đó vào hợp đồng nhưng vẫn thực
hiện các nội dung đó trên thực tế.
* Điều khoản tuỳ nghi:
Ngoài những điều khoản phải thoả thuận vì tính chất của hợp đồng và
những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các
bên có thể thoả thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho
nội dung của hợp đồng được cụ thể thuận lợi cho các bên trong quá trình thực
hiện. Điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết
hợp đồng tự ý lựa chọn và thoả thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ

SVTH: Nguyễn Thị Yến

20



Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

dân sự của các bên. Thơng qua điều khoản tuỳ nghi bên có nghĩa vụ được phép
lựa chọn một trong các cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng sao cho thuận
lợi mà vẫn đảm bảo được yêu cầu của bên kia.
►Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều
khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường hoặc điều khoản tuỳ nghi.
1.2.3. DU LỊCH VÀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU LỊCH.
1.2.3.1. Khái niệm, đặc điểm về du lịch.
a). Khái niệm du lịch.
Theo khoản 1 Điều 4 Luật du lịch 2005: “ Du lịch là hoạt động có liên
quan đến chuyến đi của con người ngồi nơi cư trú của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng, trong một khoảng thời
gian nhất định” (1)
Theo định nghĩa đó thì hợp đồng du lịch là một loại hợp đồng được giao
kết nhằm đáp ứng các nhu cầu đó của khách du lịch ( là người đi du lịch hoặc
kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu
nhập ở nơi đến)
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là
dịch vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho lưu bãi, không chuyển
quyền sở hữu khi sử dụng. Do vậy nó cũng mang đặc trưng chung của dịch vụ.
Chính vì thế, trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, chúng ta có thể đưa
ra khái niệm dịch vụ du lịch như sau: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ
các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng dịch vụ và khách du lịch
và thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch
và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ du lịch.
Theo khoa học pháp lý, Tại khoản 11 Điều 4 Luật du lịch 2005: “ Dịch

vụ du lịch được hiểu là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu
trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, thơng tin hướng dẫn và những dịch vụ khác
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”(2)
Như vậy, hợp đồng du lịch chủ yếu đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng của
(1)
(2)

Khoản 1 Điều 4 Luật du lịch 2005

Khoản 11 Điều 4 Luật du lịch 2005

SVTH: Nguyễn Thị Yến

21


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

khách du lịch, người tiêu dùng dịch vụ cá nhân khi sử dụng dịch vụ du lịch do
các hãng lữ hành cung cấp không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu để thoả
mãn nhu cầu sinh hoạt của bản thân, nên thực chất hợp đồng du lịch mang yếu
tố dân sự nhiều hơn đối với khách du lịch, còn đối với nhà cung cấp dịch vụ thì
thơng qua việc đáp ứng nhu cầu của khách du lịch để thu được lợi nhuận, nên
mục đích thương mại là rất rõ ràng. Do có sự xung đột về mục đích giữa người
tiêu dùng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ như vậy nên việc áp dụng pháp luật
đôi khi cũng gặp những vấn đề khó khăn.
Cịn đối với người sử dụng dịch vụ du lịch là một pháp nhân, mua
chương trình lữ hành cho cán bộ nhân viên Cơng ty mình thì đó lại là nhằm mục

đích thương mại, vì đó là chính sách hoạt động của Công ty, và cũng là chiến
lược nhằm nâng cao năng suất lao động cho cán bộ nhân viên Cơng ty mình.
Nếu khách du lịch sử dụng dịch vụ du lịch nhằm mục đích tiêu dùng thì
khi giao kết hợp đồng luật áp dụng sẽ là Luật dân sự hiện hành, nhưng nếu bên
cung ứng dịch vụ và bên tiêu dùng dịch vụ thống nhất là áp dụng luật thương
mại thì trong trường hợp đó Luật thương mại sẽ được dung làm căn cứ pháp lý
khi giao kết hợp đồng ( theo Điều 1 Luật thương mại 2005).
b). Đặc điểm của dịch vụ du lịch:
Cũng như dịch vụ nói chung, dịch vụ du lịch có những đặc trưng sau:
* Tính phi vật chất.
Đây là tính chất quan trọng nhất của sản xuất dịch vụ du lịch. Tính phi
vật chất đã làm cho du khách khơng thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ
trước. Cho nên đối với du khách thì dịch vụ du lịch là trừu tượng khi mà họ
chưa một lần tiêu thụ nó. Dịch vụ luôn đồng hành với những sản phẩm vật chất
nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình. Du khách rất khó
đánh giá dịch vụ. Từ những nguyên nhân nêu trên, nhà cung ứng dịch vụ du lịch
cần phải cung cấp đủ thông tin và thông tin cần phải được nhấn mạnh tính lợi
ích của dịch vụ chứ khơng chỉ đơn thuần mơ tả q trình dịch vụ, qua đó làm
cho du khách phải quyết định mua dịch vụ của mình.
* Tính khơng chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ.

SVTH: Nguyễn Thị Yến

22


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế


Khi mua hàng hoá, người mua có quyền được sở hữu đối với hàng hố và
sau đó có thể sử dụng như thế nào, nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì
khơng có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người
mua chỉ là đang mua quyền đối với tiến trình dịch vụ.
Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du lịch được chuyên chở, được ở khách
sạn, được sử dụng bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với
chúng.
* Tính khơng thể di chuyển của dịch vụ du lịch.
Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ du
lịch thuộc loại không thể di chuyển được, khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì
phải đến cơ sở du lịch. Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu
quả kinh doanh khi xây dựng các điểm du lịch cần chọn địa điểm thoả mãn các
điều kiện tự nhiên: Địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài ngun, mơi
trường sinh thái và điều kiện xã hội, dân số dân sinh, phong tục tập quán, chính
sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở hạ tầng. Đặc điểm này của họat
động du lịch đòi hỏi các cơ sở du lịch tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng
bá mạnh mẽ để kéo được du khách đến các địa điểm du lịch.
* Tính thời vụ của dịch vụ du lịch
Dịch vụ có tính đặc trưng là tính thời vụ, có những mùa mà du khách rất
đơng nhưng cũng có những thời điểm do yếu tố thời tiết mà hoạt động này kém
sôi động hơn.
* Tính chọn gói của dịch vụ du lịch.
Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ chọn gói bao gồm dịch vụ cơ bản, dịch
vụ bổ sung, dịch vụ đặc trưng.
Dịch vụ cơ bản là dịch vụ chính mà nhà cung cấp du lịch cung cấp cho
khách hàng nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản không thể thiếu được đối với du
khách như vận chuyển, nhà hàng….
Dịch vụ bổ sung: là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm
thoả mãn những nhu cầu không bắt buộc dịch vụ cơ bản nhưng phải có trong
hành trình của du khách.


SVTH: Nguyễn Thị Yến

23


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

* Dịch vụ đặc trưng: là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu đặc trưng của
du khách như tham quan, tìm hiểu vui chơi giả trí. Việc thoả mãn nhu cầu này
cũng chính là nguyên nhân cũng chính là mục đích của chuyến du lịch.
* Tính khơng đồng nhất dịch vụ du lịch.
Do khách hàng muốn được chăm sóc như những người riêng biệt nên
dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất.
* Sự khác nhau giữa thương mại hàng hố và thương mại dịch vụ:
Thương mại hàng hố có thể gọi là thương mại liên quan đến sản phẩm
vật chất, còn thương mại dịch vụ là một sản phẩm phi vật chất. Sự khác nhau
giữa hai loại hình này được thể hiện như sau.
Bảng 1 So sánh hoạt động dịch vụ và hoạt động kinh doanh vật chất
Sản phẩm vật chất

Dịch vụ

Sản phẩm cụ thể

Phi vật chất hay vô hình

Quyền sở hữu được chuyển giao khi mua bán


Khơng có sự thay đổi về sở hữu

Được trưng bày trước khi mua bán

Thông thường không được trưng bày hoặc
trưng bán nhưng khơng có hiệu quả trước khi
mua bán

Có thể được cất giữ lưu kho

Không cất giữ hay lưu kho được

Sản xuất được tạo ra trước khi tiêu dùng

Sản xuất và tiêu dung được tiến hành đồng
thời cùng một thời gian

Có thể được bán tiếp theo

Không bán được tiếp theo

Sản xuất tiêu dùng sẽ được tiến hành ở những Sản xuất và tiêu dùng thường xuyên gắn liền
địa điểm khác nhau

về mặt khơng gian

Có thể vận chuyển được

Khơng thể vận chuyển được ngay cả khi

người sản xuất mong muốn

Có thể quan hệ gián tiếp với khách hàng

Trong đại đa số các trường hợp phải quan hệ
trực tiếp với khách hàng

Có thể xuất khẩu được

Thơng thường dịch vụ khó xuất khẩu được
nếu khơng có sự trợ giúp của sản phẩm vật
chất

Khách hàng là một thành viên chỉ trong quá Khách hàng là một thành viên trong quá trình
trình tiêu dùng

SVTH: Nguyễn Thị Yến

sản suất và tiêu dùng

24


Khoá luận tốt nghiệp

Khoa Luật kinh tế

Do dịch vụ du lịch có những đăc trưng như trên nên hợp đồng dịch vụ du
lịch cũng có những đặc trưng riêng của nó.
Hợp đồng du lịch có thể mang bản chất là một hợp đồng dân sự nếu mục

đích giao kết hợp đồng của một bên khơng nhằm mục đích lợi nhuận mà chỉ là
nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt vui chơi giải trí tiêu dùng của cá nhân người
tiêu dùng dịch vụ. Tuy nhiên nếu việc giao kết hợp đồng dịch vụ là nhằm mục
đích kinh doanh thương mại thì nó lại mang bản chất là hợp đồng thương mại.
Vì vậy việc phân biệt hợp đồng du lịch là hợp đồng dân sự hay hợp đồng
thương mại còn phụ thuộc vào mục đích của các chủ thể khi giao kết hợp đồng.
Đối với hợp đồng du lịch được giao kết giữa một cá nhân với bên cung
cấp dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của cá nhân thì đó là hợp
đồng dân sự.
Đối với hợp đồng du lịch được giao kết giữa một tập thể người sử dụng
dịch vụ du lịch với một bên là người cung ứng dịch vụ mà cả hai bên đều nhằm
mục đích thương mại thì đó được coi là hợp đồng thương mại
1.2.3.2. Hợp đồng dịch vụ du lịch
1.23.2.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng du lịch.
a). Khái niệm hợp đồng du lịch.
Theo điều 38 Luật du lịch 2005: Ngành nghề kinh doanh du lịch là ngành
kinh doanh dịch vụ bao gồm các ngành nghề sau đây:
-

Kinh doanh lữ hành.

-

Kinh doanh lưu trú du lịch.

-

Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.

-


Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch.

-

Kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
Như vậy, dịch vụ du lịch bao gồm các nghiệp vụ nói trên nên khi giao kết

hợp đồng du lịch thì đó có thể là hợp đồng về một trong các nghiệp vụ đó.
Trong đó hợp đồng du lịch chủ yếu và mang lại doanh thu lớn cho các Công ty
du lịch là hợp đồng kinh doanh lữ hành. Hoạt động du lịch là hợp đồng được
giao kết giữa Công ty du lịch với người sử dụng dịch vụ du lịch.

SVTH: Nguyễn Thị Yến

25


×