Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU THEO DÕI DỌC BỆNH NHÂN DOẠ TỰ TỬ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.22 KB, 6 trang )

TCNCYH 28 (2) - 2004

99
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU THEO DÕI DỌC BỆNH NHÂN DOẠ TỰ TỬ

Nguyễn Văn Tường, Trần Thị Thanh Hương,
Hà Trần Hưng, Nguyễn Văn Tuấn,
Nguyễn Thị Thanh Hương, Nguyễn Lan Anh,
Hoàng Hoa Sơn, Phạm Thị Minh Đức
Trường Đại học Y Hà Nội

90 bệnh nhân doạ tự tử vào điều trị tại các khoa hồi sức cấp cứu tại các bệnh viện nội thành Hà
Nội được tiến hành phỏng vấn và chia thành 2 nhóm: 44 bệnh nhân được nhận điều tri thường quy
và nhóm gồm 46 bệnh nhân được nhận điều trị thường quy và tiến hành can thiệp. Tư vấn trước khi
bệnh nhân ra viện và theo dõi dọc được xem như các biện pháp can thiệp.
Các thông tin chung được thu thâp. T
ỷ suất nữ/nam là 2,6:1. Tuổi trung bình của các bệnh nhân
doạ tự tử là 25,1 ± 9,3. Sử dụng các thuốc giảm đau, gây ngủ, an thần là phương pháp chính được
sử dụng để doạ tự tử. 23.5% bệnh nhân có tiền sử doạ tự tử trước đó. Nguyên nhân chính dẫn đến
tự tử ở 33,3% bệnh nhân là do các áp lực liên quan tới tâm lý.
Việc theo dõi bệnh nhân tại thời điểm 1 tuần, 2 tuần, 4 tuầ
n, 7 tuần, 11 tuần, 4 tháng, 6 tháng, 12
tháng và 18 tháng sau khi ra viện được thực hiện. Một số trường hợp có hành vi doạ tự tử cho tới
tháng thứ 4. Không có bệnh nhân nào cảm thấy sức khoẻ xấu đi hoặc không tốt tại tháng theo dõi
thứ 4. Các bệnh nhân cần sự hỗ trợ về tinh thần chủ yếu từ bạn bè và người thân.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Doạ tự tử bao gồm những hành vi tự làm
nguy hiểm đến tính mạng nhưng không dẫn
đến cái chết trong khi hành vi tự tử bao gồm
những hành động làm nguy hại đến bản thân


và dẫn đến cái chết.
Doạ tự tử được đánh giá là chỉ số quan
trọng nhất dự báo cho hành vi tự tử [5]. Hàng
năm, theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới có
tới hàng triệu ngườ
i có hành vi doạ tự tử [6].
Theo nghiên cứu của chúng tôi, thì hàng năm
có khoảng 300 trường hợp doạ tự tử vào điều
trị tại khoa chống độc bệnh viện Bạch Mai [1].
Doạ tự tử là một hành vi chịu sự tác động
của rất nhiều các yếu tố khác nhau về y học, xã
hội và tâm lý . Nhưng tại Việt Nam, hầu hết các
bệnh nhân doạ tự tử chỉ nhậ
n được sự điều trị
tại các khoa hồi sức cấp cứu mà sau đó không
có sự theo dõi cũng như can thiệp bằng các trị
liệu tâm lý mặc dù có rất nhiều các nghiên cứu
trên thế giới đã chỉ ra rằng hành vi doạ tự tử
thường có nguy cơ lặp lại [3].
Năm 2001, Trường Đại học Y Hà Nội bắt
đầu tham gia cùng với 12 nước trên 5 châu
lục tiến hành “Nghiên cứu can thiệ
p đa quốc
gia về hành vi doạ tự tử” với sự hỗ trợ của Tổ
chức Y tế thế giới.
Nghiên cứu thử nghiệm giải pháp can
thiệp đối với hành vi doạ tự tử này được thực
hiện với các mục tiêu sau:
1. Xác định một số đặc điểm của hành vi
doạ tự tử tại nội thành Hà Nội

2. Đánh giá kết quả của theo dõi dọc đối
với bệnh nhân doạ tự tử

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các bệnh
nhân có hành vi doạ tự tử, hiện tại đang sống tại
Hà Nội vào điều trị tại các khoa hồi sức cấp cứu
của các bệnh viện Thanh Nhàn, Saint Pault,
Đống Đa, Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch
mai và Viện sức khoẻ tâm thần trung ương từ
ngày 1/7/2002 đến 31/1/2004.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp có đối chứng theo
sơ đồ sau:
TCNCYH 28 (2) - 2004

Các bệnh nhân doạ tự tử vào điều trị tại các khoa hồi sức cấp cứu
tại các bệnh viện nội thành Hà Nội




100


Đồng ý tham gia nghiên cứu Không đồng ý tham gia nghiên cứu




chọn ngẫu nhiên
Nhóm chứng Nhóm can thiệp
+ Điều trị thường quy + Điều trị thường quy
+ Theo dõi 2 lần vào thời điểm + Tư vấn trước khi ra viện
6 tháng, 18 tháng sau khi ra viện + Theo dõi vào các thời điểm
1 tuần, 2 tuần, 4 tuần, 7 tuần,
11 tuần, 4 tháng, 6 tháng, 12 tháng
và 18 tháng sau khi ra viện
3. Công cụ nghiên cứu
Bộ câu hỏi nghiên cứu SUPRE-MISS
bệnh viện của Tổ chức Y tế thế giới được sử
dụng để phỏng vấn các bệnh nhân doạ tự tử
và đồng ý tham gia nghiên cứu vào điều trị tại
các bệnh viện được nêu trên. Bộ câu hỏi này
bao gồm các thông tin về các yếu tố văn hoá
- xã hội, tiền sử tự tử của gia đình, thói quen
s
ử dụng rượu và các chất kích thích cũng
như các thang điểm đánh giá trầm cảm Beck,
thang điểm đo sự tức giận, thang điểm đánh
giá tình trạng sức khoẻ của WHO.
Nhóm can thiệp sẽ được tư vấn trước khi
ra viện khoảng 1 giờ dựa trên tài liệu hướng
dẫn can thiệp của Tổ chức Y tế thế giới. Tài
liệu này bao gồm các thông tin về tình hình t

tử trên thế giới,các yếu tố nguy cơ, các yếu tố
bảo vệ cũng như các biện pháp phòng chống
hành vi doạ tự tử. Dựa trên tài liệu này, các

nhà nghiên cứu sẽ xác định các yếu tố nguy
cơ cũng như các yếu tố bảo vệ ở từng bệnh
nhân để từ đó đưa ra giải pháp tư vấn thích
hợp với từng người.
Việ
c theo dõi bệnh nhân sau khi ra viện
cũng được tiến hành bằng bộ câu hỏi theo dõi
của Tổ chức Y tế thế giới. Bộ câu hỏi này bao
gồm các câu hỏi có liên quan tới hành vi doạ tự
tử sau khi điều trị, tình trạng sức khỏe chung
cũng như nhu cầu cần sự hỗ trợ về cảm xúc
của các bệnh nhân này sau khi ra viện.
4. Xử lý số liệu
Số liệu nghiên cứu
được nhập và xử lý
trên phần mềm thống kê SPSS 10.5
5. Các vấn đề liên quan tới đạo đức
trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự chấp nhận về đạo
đức trong nghiên cứu của Viện Karolinska và
Trường Đại học Y Hà Nội. Các đối tượng
đồng ý tham gia nghiên cứu được ký vào
“Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu”.
III. KẾT QUẢ
Có 118 bệnh nhân doạ tự tử, hiện sống tại
Hà Nội vào điều trị tại các bệnh viện trên
trong thời gian nghiên cứu, trong đó có 46
bệnh nhân ở nhóm can thiệp, 44 bệnh nhân ở
nhóm chứng, 28 bệnh nhân từ chối tham gia
nghiên cứu.

1.Một số đặc điểm của bệnh nhân doạ
tự tử
Các đặc điểm của bệnh nhân doạ tự tử
được trình bày trong b
ảng sau:
TCNCYH 28 (2) - 2004

101
Bảng 1: Phân bổ một số đặc điểm của bệnh nhân doạ tự tử ở nhóm can thiệp và nhóm chứng
Nhóm can thiệp
(n = 46)
Nhóm chứng
(n = 44)
Cả 2 nhóm
(n = 88)

Mean ± SD Mean ± SD Mean ± SD
Tuổi trung bình
23,3 ± 6,7 27,6 ± 11,0 25,1 ± 9,3
Số năm đi học
11,6 ± 3,1 11,3 ± 3,5 11,4 ± 3,3

n % n % n %
Giới
Nam
Nữ

10
36


21,7
78,3

15
29

35,7
64,3

25
65

28,4
73,9
Tình trạng hôn nhân
Chưa lập gia đình
Đã lập gia đình
Ly dị/ly thân/goá

29
14
3

63,0
30,4
6,5

26
16
1


61,9
38,1
2,4

55
30
4

62,5
34,1
4,5
Phương pháp tự tử theo ICD 10
X60: thuốc gây ngủ và hạ sốt
X61: thuốc an thần, barbituric
X63: thuốc tác động lên hệ TKTƯ
X64: thuốc và hoá chất khác
X68: bằng thuốc trừ sâu/thuốc chuột
X70: bằng treo cổ
X78: bằng các vật sắc
X80: nhảy từ trên cao xuống
X83: các cách khác xác định được

29
8
3
0
0
1
1

0
1

63,0
17,4
6,5


2,2
2,2

2,2

17
8
1
3
3
3
1
1
0

40,5
19,0
2,4
7,1
7,1
7,1
2,4

2,4
0,0

46
16
4
3
3
4
2
1
1

52,3
18,2
4,5
3,4
3,4
4,5
2,3
1,1
1,1
Đã từng có hành vi doạ tự tử
trước đó
11 26,2 10 24,4 21 25,3
Nguyên nhân
+ Bị đánh
+ Bị đe doạ
+ Áp lực về tinh thần


2
8
15

4,9
19,5
36,6

4
7
12

10,0
17,5
30,0

6
15
27

7,4
18,5
33,3
Điểm theo thang điểm đánh giá
trầm cảm Beck (Median)
22 27 25,5
Điểm theo thang điểm đánh giá tình
trạng sức khoẻ của WHO (Median)
8 11 10
Điểm theo thang điểm đo sự tức

giận (Median)
18,5 21 20
TCNCYH 28 (2) - 2004

102
Bảng 1 cho thấy không có sự khác biệt về
các đặc điểm như tuổi, giới tính, tình trạng
hôn nhân cũng như một số test đánh giá trầm
cảm hay tình trạng sức khoẻ giữa 2 nhóm
can thiệp và nhóm chứng với p > 0,05.
Tỷ suất nữ/nam ở cả 2 nhóm là 2,6:1 và
phần lớn bệnh nhân doạ tự tử ở lứa tuổi trẻ
với tuổi trung bình là 25,1 ± 9,3.
Phương pháp sử dụng ch
ủ yếu ở bệnh
nhân nội thành là sử dụng thuốc gây ngủ, hạ
sốt (52,3%), tiếp theo là thuốc an thần
(18,2%).
25,3% có tiền sử có hành vi doạ tự tử
trước đó. 33,3% doạ tự tử với nguyên nhân
chính là do các áp lực về tinh thần.
Điểm theo các thang điểm đánh giá trầm
cảm, tình trạng sức khoẻ và đo sự tức giận ở
mức trung bình. Các mức điể
m của các test
này càng cao thì chứng tỏ nguy cơ xuất hiện
hành vi tự tử càng lớn.
2. Đánh giá bước đầu tình trạng bệnh
nhân sau theo dõi dọc 12 tháng
Bảng 2: Tình trạng bệnh nhân sau khi theo dõi dọc

1 tuần
n = 46
2 tuần
n = 45
4 tuần
n= 45
7 tuần
n = 44
11 tuần
n = 40
4 tháng
n = 36
6 tháng
n = 36
12 tháng
n = 7
n % n % n % n % n % n % n % n %
Số người có hành vi
doạ tự tử
7 15,2 6 13,3 6 13,3 3 6,8 1 2,5 0 0,0 0 0,0 0 0,0
Tình trạng sức khoẻ
+ Tồi
+ Không tốt
+ Tương đối tốt
+ Tốt
+ Rất tốt

1
7
26

9
3

2,2
15,2
56,5
19,6
6,5

0
3
28
9
5

0,0
6,7
62,2
20,0
11,1

1
2
27
8
7

2,2
4,4
60,0

17,8
15,5

0
1
27
11
5

0,0
2,3
61,4
24,4
11,1

0
0
25
10
5

0,0
0,0
62,5
25,0
12,5

0
0
20

12
4

0,0
0,0
55,5
33,3
11,1

0
0
20
12
3

0,0
0,0
55,5
33,3
8,3

0
0
4
2
1

0,0
0,0
57,1

28,6
14,3
Cần sự hỗ trợ 15 32,6 12 26,7 11 24,4 10 22,7 6 15,0 3 8,3 3 8,3 0 0
Cần sự hỗ trợ từ:
+ Điện thoại
+ Bạn bè
+ Khác


1
14


2,2
30,4


1
11


2,2
24,4


1
10


2,2

22,2



10



22,7



6



15,0



3



8,3



3




8,3


Bảng 2 cho thấy tỷ lệ có hành vi doạ tự tử
lại cao nhất vào tuần thứ 1 sau khi ra viện
(15,2%) và giảm dần theo thời gian. Từ tháng
thứ 4 trở đi, không có bệnh nhân nào có hành
vi tự tử lại nữa
Bệnh nhân có tình trạng sức khoẻ tốt trở
lại càng tăng dần theo thời gian theo dõi.
Bệnh nhân vẫn cần sự hỗ trợ về tâm lý
trong những tuần đầu sau khi điề
u trị (32,6%)
và chủ yếu nhận sự hỗ trợ này từ bạn bè.
Sau 1 năm thì hầu như bệnh nhân không cần
sự hỗ trợ về tâm lý nữa.
IV. BÀN LUẬN
1. Một số vấn đề về phương pháp
Đây là một nghiên cứu khó thực hiện, với
bộ câu hỏi phỏng vấn dài, thời gian tư vấn lâu
trên một đối tượng rất nhạy cảm, do vậy mà
tỷ lệ bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu
là khá lớn (28 bệnh nhân tương ứng với
23,7%). Kết quả này cũng giống như các
nghiên cứu khác đã được thực hiện
ở các
nước châu Âu [4].
Một đặc điểm nữa ở nghiên cứu này là

nghiên cứu theo dõi dọc, với thời gian theo
dõi khá lâu (1,5 năm), do vậy sẽ có một tỷ lệ
không nhỏ bệnh nhân bỏ cuộc có thể gây ảnh
TCNCYH 28 (2) - 2004

103
hưởng đến kết quả nghiên cứu. Để khắc
phục đặc điểm này, chúng tôi sẽ kéo dài thời
gian nghiên cứu để đảm bảo được lực mẫu
cho nghiên cứu.
Bảng 2 mới chỉ trình bày được kết quả
theo dõi dọc mà chưa có sự so sánh kết quả
can thiệp giữa 2 nhóm do các bệnh nhân vẫn
chưa hết thời gian theo dõi (18 tháng), chúng
tôi sẽ tiếp tục theo dõi và sẽ có được các kết
quả
sâu hơn về hiệu quả can thiệp.
2. Một số đặc điểm của bệnh nhân doạ
tự tử ở nội thành Hà Nội
Các đặc điểm về yếu tố văn hoá xã hội đối
với hành vi doạ tự tử như nữ gặp nhiều hơn
nam, chủ yếu là những người chưa lập gia
đình, hay phương pháp tự tử là thuốc gây
ng
ủ và an thần cũng tương tự như kết quả
nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại bệnh
viện Bạch Mai [1].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy các áp lực về tinh thần là nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới hành vi doạ tự tử, đặc biệt với

những người trẻ tuổi. Vì vậy mà sự hỗ trợ về
tinh thần của những ng
ười thân như bạn bè,
gia đình, thầy cô giáo trở thành một yếu tố quan
trọng trong việc phòng tránh hành vi tự tử.
Các đặc điểm về tổn thương tâm thần
cũng chưa thật rõ rệt trên những bệnh nhân
này. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên
cứu trước đây của chúng tôi cũng như các
nghiên cứu ở châu Á về mối tương quan giữa
tâm thần và hành vi tự tử [1,2].
3. Tác d
ụng của theo dõi sau khi ra viện
đối với bệnh nhân có hành vi doạ tự tử
Kết quả ban đầu cho thấy trong thời gian
đầu sau khi ra viện, tình trạng tâm lý của
bệnh nhân chưa ổn định, vẫn có thể xuất hiện
hành vi doạ tự tử, do vậy mà việc theo dõi
bệnh nhân sau khi ra viện trở nên rất quan
trọng trong việc phòng sự xuất hiện lại của
hành vi doạ tự tử. Tác dụng của việ
c theo dõi
bệnh nhân doạ tự tử sau khi điều trị 1 năm
cũng được xác định tại một số các nghiên
cứu của các nước châu Âu [5].
Phần lớn các bệnh nhân trở về trạng thái
sức khoẻ tốt vào tháng thứ 4 sau khi ra viện,
trong khi ở một số nghiên cứu khác thì tình
trạng sức khoẻ trở về bình thường thưòng là
sau 1 năm [5].

Bệnh nhân sau khi ra viện khi cần sự hỗ
tr
ợ thì thường liên hệ với bạn bè. Điều này có
lẽ do đặc điểm văn hoá của châu Á cũng như
vẫn còn rất ít các tổ chức hỗ trợ cho các vấn
đề xúc cảm ở Việt Nam. Việc giáo dục cho
những người trẻ khả năng chia sẻ với bạn bè,
người thân khi gặp những trở ngại trong cuộc
sống trở nên có vai trò quan trọng trong việc
phòng chống tự
tử.
V. KẾT LUẬN
Doạ tự tử ở bệnh nhân nội thành Hà Nội
thường là nữ nhiều hơn nam, lý do chủ yếu là
các áp lực về tâm lý
Kết quả theo dõi dọc cho thấy bệnh nhân
sẽ trở về trạng thái sức khoẻ tốt vào tháng
thứ 4 sau khi ra viện và trong thời gian đầu
bệnh nhân vẫn rất cần sự hỗ trợ về tâm lý.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ c
ủa BS. Nguyễn Bảo Liên, BS. Nguyễn
Đức Minh, BS. Hoàng Văn Vinh, BS.Đinh Thu
Hương, SV. Nguyễn Văn Mạnh, SV. Nguyễn
Huyền Linh đã hỗ trợ rất nhiều trong việc thu
thập số liệu nghiên cứu.
Nghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ
trợ về kinh phí và kỹ thuật của Tổ chức y tế
thế giới. Các tác giả xin chân thành cảm ơn.

TÀI LIÖU THAM KH¶O
1. Huong TTT, Guo Xin, Tuong NV et al:
Attempted suicide in Hanoi, Vietnam.
Summitted
2. Philips MR, Yang G, Zhang Y et al. Risk
factors for suicide in China: a national case –
control psychological autopsy study. Lancet,
2002; 360:1728 – 36
3. Schmidtke A, Bille Brahe U et al.
Attempted suicide in Europe: rates, trend and
sociodemographic characteristics of suicide
TCNCYH 28 (2) - 2004

104
attempters during period 1989 – 1992. Acta Psychiatry Scan, 1996; 93: 327 – 38
4. Stravynski A. and Boyer R. (2001).
Loneliness in relation to suicide ideation and
parasuicide: a population wide study. Suicide
and life-threatening behavior. 31 (1) Spring.
5. Wasserman D. (ed). Suicide: an
Unnecessary Death. London: Martin Dunitz,
2001
6. WHO. World report on Violence and
Health. Geneva: WHO, 2002.
Summary
PRELIMINARY RESULTS OF EFFECTIVENESS OF COUNSELING AND
FOLLOW-UP SUICIDE ATTEMPTERS

88 suicide attempters enrolled in intensive care units in urban hospitals in Hanoi were interviewed
and divided in to 2 groups: group with 42 patients received annual treatment, group with 46 patients

received annual treatment and intervention. Counseling ans follow-up interview were considered as
interventions.
Based line information was collected. The ratio female/male was 2.6: 1. Mean age of attempted
suicide was 25,1 ± 9,3. Non-opioid analgesics, antipyretics and sedatives are meaning of attempted
suicide in urban of Hanoi. 23.5% had privious suicide attempts. The main cause of attempted suicide
is emotionally abused.
Follow- up interviews at 1 week, 2 weeks, 4 weeks, 7 weeks, 11 weeks, 4 months, 6 months, 12
months, 18 months period after the event and the counseling were implemented. Some cases
intending to futher attempted suicide after 1 weeks until 11 weeks. No cases feeling bad or not good
on interview at 4 months. Interviewees stated that they need support from mainly relatives/friends.


×