Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.22 KB, 62 trang )

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

1

LỜI NĨI ĐẦU
Trong tiến trình tồn cầu hố đang diễn ra mạnh mẽ, với những xu thế
vận động và bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới và khu vực, với
những tác động của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội… để tránh khỏi bị
tụt hậu Việt Nam đang đứng trước thời cơ mới và thách thức mới. Đối với
Việt Nam, trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế thị trường lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng
trưởng kinh tế chưa cao, để đưa đất nước phát triển nhanh Đảng ta đã
khẳng định ” Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngồi” Q trình tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới và khu vực là tất
yếu.
Nhật Bản là một trong những nước có tầm ảnh hưởng rất lớn trong
nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhật Bản là một
cường quốc kinh tế đã trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập
niên 90của thế kỷ XX khiến cho cả thế giới khâm phục. Nhiều nước trong
khu vực Châu Á đã phấn đấu noi theo mơ hình phát triển của Nhật Bản,
trong đó một số nước và lãnh thổ Đơng Á đã nhanh chóng trở thành con
rồng, con hổ kinh tế, giải quyết thành công nhiều vấn đề đời sống kinh tế –
xã hội, chỉ trong vòng 2 – 3 thập niên.Vì vậy, việc xem xét, nghiên cứu, tìm
hiểu học hỏi những chính sách, biện pháp, giải pháp, chiến lược mà chính
phủ Nhật Bản đã sử dụng để đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như vậy
đối với Việt Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao và bền
vững cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Sau quá trình thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản em đã
hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Cải cách kinh tế của
Nhật Bản và mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản”.


Vì thời gian ngắn và kiến thức bản thân còn hạn chế nên nội dung
chuyên đề thực tập này khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các
thầy cơ chỉ bảo, góp ý để chuyên đề thực tập của em được hoàn chỉnh hơn.
1


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

2

2


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

3

MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống những vấn đề về cải cách kinh
tế của Nhật Bản, hiệu quả của cuộc các cuộc cải cách đó và sự ảnh hưởng
của nó tới Việt Nam.
Đánh giá bước đầu hiệu quả của các cuộc cải cách đó đối với việc
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản, Việt Nam và một số tồn
tại.
Trên cơ sở đó để có những giải pháp và tìm ra những ảnh hưởng của
các cuộc cải cách đó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải có phương pháp, cách tiếp
cận khoa học và phù hợp. Cơ sở lý luận thực hiện đề tài chủ yếu dựa vào
các lý thuyết liên quan đến lợi thế so sánh, lý thuyết về phát triển thương
mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay.
III. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Lời nói đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, ý nghĩa, đề tài.
Chương I, Đề tài tập trung nghiên cứu về Nhật Bản, quá trình cải cách
của Nhật Bản và tầm ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Nhật Bản.
Chương II, Đề tài tập trung phân tích, đánh giá các cuộc cải cách tài
chính của Nhật Bản và hiệu quả của nó.

3


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

4

Chương III, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của các cuộc cải cách đó và triển vọng phát triển
trong tương lai.
Kết luận, Trên cơ sở kết quả nghiên cứu phần kết luận khẳng định
những kết quả đạt được và một số kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ
kinh tế Nhật Bản - Việt Nam trong tương lai.

4



Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

5

CHƯƠNG I: Q TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ
CỦA NHẬT BẢN
I. XU HƯỚNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu
hướng quan trọng trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các nước đang phát
triển (trong đó có Việt Nam) cùng với việc tranh thủ thu hút các nguồn vốn
để phát triển cũng khuyến khích, đẩy mạnh việc quan hệ hợp tác với các
nước phát triển trên thế giới nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng như mở rộng
thị trường, tận dụng các nguồn tài nguyên, lao động, tăng nguồn thu lợi
nhuận cũng như tăng cường ảnh hưởng với các nước khác và. Chính vì
những lẽ đó mà đã có rất nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, các cơ quan
nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra, tổng kết những kinh nghiệm,
những vấn đề lý luận, thực tiễn và dự báo về xu hướng phát triển của nền
kinh tế thế giới trong đó có Nhật Bản và Việt Nam.
II. NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TỪ CUỐI NHỮNG NĂM 1980 ĐẾN
NAY
Nhật Bản, một nước nghèo tài nguyên, không thể đánh mất bất kỳ
một cơ hội thương mại quốc tế nào nếu đó là cơ hội để phát triển kinh tế và
duy trì một mức sống cao. Các chính sách liên quan tới thương mại và đầu
tư do vậy đã chiếm một vị trí nổi bật trong q trình phát triển kinh tế. Sau
thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao, ở Nhật Bản đã nảy sinh hàng loạt vấn đề
đòi hỏi nhà nước phải điều chỉnh chính sách và tiến hành cải cách trên
nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa…
Phạm vi của đề tài được xác định là những cải cách được tiến hành ở
Nhật Bản từ cuối những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay. Những cải cách này

đã, đang và sẽ được tiến hành với nội dung và hình thức rất phong phú và
đa dạng, chưa biết được thời gian kết thúc.

5


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

6

- Những yếu tố (bên trong và bên ngồi) thúc đẩy Nhật Bản cải cách.
Đó là sự đổ vỡ của kinh tế bong bóng, đồng Yên lên giá, hệ thống ngân
hàng tài chính lạc hậu, sự già hố dân số, bộ máy nhà nước yếu kém, tình
hình chính trị mất ổn định và tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp
tác động mạnh tới kinh tế, xã hội Nhật Bản.
- Những nội dung cơ bản của cải cách kinh tế ở Nhật Bản, trong đó

bao gồm các chính sách và giải pháp tình thế lẫn các chương trình cải cách
kinh tế một cách tồn diện. Đồng thời, đánh gia một số thành công cũng
như hạn chế của cải cách kinh tế ở Nhật Bản và cuối cùng vạch ra những
vấn đề cần được tiếp tục cải cách.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng nợ đã làm
cho nhiều nước đang phát triền lâm vào tình trạng suy thối nghiêm trọng.
Để thốt khỏi khủng hoảng, suy thoái các nước đang phát triển đã phải cải
cách kinh tế theo hướng chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mở cửa
nền kinh tế, thực hiện chiến lược CNH, hướng về xuất khẩu. Và Nhật Bản
cũng không là ngoại lệ, từ đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật
Bản vẫn chưa thoát hẳn ra khỏi cơn suy thối kéo dài, cho dù cũng đã có sự
tăng trưởng trở lại của nền kinh tế với chỉ số dự đốn khoảng 2,4% năm

2003 (tạp chí “Times” số tháng 10/2003).
Sự phát triển không ổn định đi liền với khủng hoảng suy thoái kéo
dài là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản trong khoảng hơn thập
niên vừa qua. khởi đầu của sự phất triển đó được đánh dấu bởi sự đổ vỡ của
nền kinh tế bong bóng Nhật Bản vào đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh
tế (GDP) của Nhật Bản trong những năm 1990 đã suy giảm liên tục với
động thái tăng trưởng rất chậm chạp và thất thường. Cụ thể như sau:
- Từ 1990 đến 1996: với động thái tăng trưởng kinh tế: 0,5%; 0,6%;
2,8%; và 3,2%.
- Từ 1997 đến 1999: tiến dần đến tình trạng trầm trọng của khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản được gắn liền với ảnh hưởng tiêu cực

6


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

7

của khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đơng á (1997 – 1998). Lần đầu tiên
kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng âm
liên tục trong 2 năm liền(1997: - 0,7% và 1998: -1,1%).Năm 1999: kinh
tế Nhật Bản phục hồi trở lại nhưng tăng trưởng còn mong manh: 0,7%.
- Năm 2000: kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khả quan: 2,4%.
- Năm 2001: suy giảm kinh tế trở lại với chỉ số tăng trưởng: -0,4%.
- Năm 2002 đến nay: đang phục hồi yếu 1,6%.
Về đại thể, các chỉ số tăng trưởng GDP hàng năm trên đây đã phản
ánh khái quát nhất về mặt định lượng của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật
Bản kéo dài suốt thập niên 1990 đến nay. Nếu so với cuộc khuủng hoảng

kinh tế 1973 – 1975 của thế giới Tư Bản Chủ Nghĩa, trong đó có Nhật Bản
thì mức độ khủng hoảng lần này còn tồi tệ hơn nhiều (cuộc khủng hoảng
1973 – 1975, năm 1973: tăng trưởng GDP của Nhật Bản là 8%, đến năm
1974 tuy có bị giảm đột ngột đến mức – 1,2%, song đến năm 1975, lại khôi
phục trở lại ngay với tăng trưởng 3%, tiếp đó năm 1976 là 4%, từ đó bình
qn hàng năm cho đến cuối thập niên 1980 đều đạt tăng trưởng khoảng
5%).
Đó là biểu hiện tổng quát nhất của khủng hoảng kinh tế Nhật Bản
qua động thái suy giảm của tăng trưởng GDP hàng năm.
III. CẢI CÁCH TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ CỦA NHẬT BẢN
Các chính sách và biện pháp cải cách kinh tế ở Nhật Bản kể từ đầu
thập kỷ 1990 đến nay có thể được chia thành hai cum chính sách và biện
pháp chủ yếu, đó là các chính sách và biện pháp mang tính chất tình thế, và
các chương trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và tồn diện.
1. Các chính sách và giải pháp tình thế
Trước tình trạng suy thối kinh tế nghiêm trọng và kéo dài, đồng yên
bất ổn định, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng – tài chính, và các vấn đề
7


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

8

kinh tế – xã hội khác, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện khá nhiều chính
sách và giải pháp tạm thời để khôi phục và lấy lại sức sống cho nền kinh tế.
Các chính sách và biện pháp loại này thực ra đã được áp dụng nhiều lần
trong các thập kỷ trước đây khi nền kinh tế Nhật Bản có biểu hiện suy thối
theo chu kỳ. Nội dung chủ yếu của nó là bơm thêm tiền vào nền kinh tế

bằng các chương trình kích thích kinh tế trọn gói, tăng đầu tư vào các cơng
trình cơng cộng, giảm thuế, giảm tỷ lệ lãi suất chiết khấu chính thức,…
nhằm kích thích nhu cầu trong nước.
- Các chương trình kích thích kinh tế trọn gói: Đây là một giải pháp
truyền thống mà Chính phủ Nhật Bản thường sử dung để khác phục khủng
hoảng chu kỳ. Đó là việc dựa vào ngân sách bổ sung hoặc các chương trình
kích thích kinh tế trọn gói nhằm kích cầu trong nước thơng quq việc mỏ
rộng các cơng trình cơng cộng. Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” sụp đổ,
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện rất nhiều biện pháp cả gói với tổng chi
phí lên tới 107.000 tỷ Yên. Đây chính là những biện pháp can thiệp của
Chính phủ mà theo lý thuyết của Kêyn thì có thể tạo ra những địn bẩy cho
nền kinh tế.
- Cắt giảm thuế và xoá matt phần nợ cho các công ty kinh doanh bất
động sản: Đây cũng là một giải pháp quan trọng nhằm trợ giúp các công ty
đang đứng trước bờ vực thẳm của sự phá sản sau sự sụp đổ của nền kinh tế
bong bóng. Ví dụ, Nội các của thủ tướng Obuchi đã thực hiện giảm thuế
thu nhập 9.000 tỷ Yên (2%GDP). Mức thuế thu nhập cao nhất của cả cấp
quốc gia và cấp địa phương đã được giảm từ 65% xuống còn 50%. Sự giảm
thuế này được hy vọng là sẽ thúc đẩy tiêu dùng cá nhân và kích thích tinh
thần làm việc chung. Việc giảm thuế để khuyến khích xây dựng nhà ở cũng
đã được tiến hành một cách rộng rãi. Hơn nữa, Chính phủ Nhật Bản đã
quyết định giảm tỷ lệ thuế kinh doanh kết hợp cả quốc gia và địa phương từ
mức 46,36% xuống 40,87% tương đương với 2,4 tỷ tỷ Yên (0,4% GDP).
Thông qua các cuộc cải cách và giảm thuế này, Chính phủ hy vọng giảm
gánh nặng thuế xuống bằng mức trung bình của các nước đã cơng nghiệp
hố.
8


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ

TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

9

Cùng với q trình này, việc lập quyết định về ngân sách quốc gia và
cải cách thuế đã đưa vấn đề cơ cấu vào bàn nghị sự. Chính phủ đã tăng
ngân sách về nghiên cứu cơ bản và phát triển 8,1%, các thiết bị thơng tin
như máy vi tính, máy photcoppy kỹ thuật số, và máy điện thoạ kỹ thuật số
sẽ được thanh lý ngay nếu chúng ít hơn 1 triệu n. Để khuyến khích sử
dụng các loại ơ tơ có hiệu quả và ít gây ơ nhiễm mơi trường, thuế xe khách
và các loại xe tải tương tự sẽ được giảm đi.
Nhằm khuyến khích việc quốc tế hố đồng Yên, Chính phủ đã ban
hành hệ thống bỏ thầu mở đối với các trái phiếu ngắn hạn, đây là matt hình
thức miễn thuế thu nhập đặc biệt đối với các trái phiếu Chính phủ cho
những người khơng phải cư dân Nhật Bản. Chính phủ cũng đã quyết định
huỷ bỏ thuế giao dịch chứng khoán và ban hành một hệ thống thuế đã được
củng cố trong năm 2001.
- Giảm lãi suất chiết khấu chính thức: Trước tình trạng sản xuất đình
trệ, nhu cầu đầu tư trong nước giảm sút, Chính phủ Nhật Bản đã liên tục
giảm lãi suất cho vay chính thức của ngân hàng nhằm kích thích đầu tư.
Đây cũng là một trong những hướng cơ bản của chính sách kích cầu trong
nước. Trong suốt những năm 1990, lãi suất chính thức đã ln được giảm
đi trước tình trạng kinh tế suy thoái. Ngân hàng trung ương Nhật Bản đã
duy trì một tỷ lệ lãi suất thấp tới mức chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản
(0,5%) trong suốt nhiều năm liên tục và thậm chí hiện nay đã xuống tới
mức sấp sỉ con số không nhằm phuch hồi và lấy lại sinh khí cho nền kinh
tế.
2. Các chương trình cải cách kinh tế một cách cơ bản và tồn diện
Ngun nhân sâu xa gây ra tình trạng trì trệ kéo dài của nền kinh tế
Nhật Bản là sự bất cập hay những hạn chế của mơ hình kinh tế Nhật Bản

trước bối cảnh mới của tình hình kinh tế quốc tế, sự lạc hậu của hệ thống
ngân hàng tài chính mang nặng tính bao cấp, sự cứng nhắc cũng như thiếu
minh bạch của bộ máy hành chính trong việc quản lí và điều hành nền kinh

9


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

10

tế… Chính vì vậy, để khắc phục một cách triệt để tình trạng kinh tế suy
thối địi hỏi phải tiến hành những cải cách toàn diện hệ thống kinh tế Nhật
Bản. Tuy nhiên, không phải vấn đề này đã được nhận thức và thực hiện
ngay từ đầu thập kỷ1990 sau khi những “bong bóng” kinh tế bất đơng sản
sụp đổ đẩy nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng
và kéo dài. Mà phải đến 1996, sau khi hàng loạt các chương trình kích
thích kinh tế trọn gói, như đã đề cập đến ở trên, khơng đem lại hiệu quả,
Chính phủ Nhật Bản dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Hashimoto mới ban
hành một loạt các chương trình cải các liên quan đến nhiều mặt hoạt động
của nền kinh tế xã hội Nhật Bản. Có 6 chương trình cải cách lớn đã được
đưa ra, trong đó có 3 chương trình liên quan đến cải cách kinh tế. Đó là:
Điều chỉnh chính sách kinh tế; Cải cách cơ cấu kinh tế; và Cải cách hành
chính. Sau đây là một số nội dung cơ bản nhất của các chương trình cải
cách này.
Thứ nhất, để thực hiện cải cách cơ câu kinh tế, Chinh phủ Nhật Bản
một mặt đã áp dụng các giải pháp hỗ trợ đối với một số nghành công
nghiệp đang bị sa sút như luyện kim, đóng tầu, hố chất… nhằm ngăn chặn
nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực

này. Các giải pháp chủ yếu như tài trợ qua ngân sách, kích thích đổi mới
trang thiết bị qua thực hiện khấu hao nhanh, áp dụng giải pháp miễn thuế
và hỗ trợ thất nghiệp… Mặt khác, Chính phủ đã thực thi các giải pháp để
khuyến khích đầu tư vào các nghành công nghệ mới như ưu đãi về thuế để
khuyến khích các hoạt động đầu tư nghiên cứu triển khai (R&D), thực hiện
trợ cấp cho các chương trình và dự án quan trọng có qui mơ lớn, và các dự
án trong các lĩnh vực mới có nhiều rủi ro. Chính phủ cũng thực hiện hỗ trợ
cho cơng tác nghiên cứu tại các trường, các viện và kêu gọi vốn của khu
vực tư nhân tập trung vào nghiên cứu cơ bản, sáng chế quy trình cơng nghệ
mới.
Thứ hai, cùng với các biện pháp kích cầu của Chính phủ, các cơng ty
Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt các giải pháp như:

10


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

11

+ Cắt giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí lao động. Trong suốt
những năm 1990, các công ty Nhật Bản đã hết sức hạn chế việc tuyển thêm
công nhân mới, giảm công nhân hợp đồng, khuyến khích những người cao
tuổi về hưu sớm, và ép các xí nghiệp vừa và nhỏ làm thầu khốn phải giảm
tối đa các chi phí sản xuất phụ tùng. Kết quả là thất nghiệp gia tăng và các
công nhân thường xuyên còn được tuyển mộ phải làm thêm giờ song tiền
lương lại khơng được tăng một cach tương ứng. Chính vì thế trong suốt
những năm 1990, những cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm tại các công sở
nhà nước lẫn khu vực tư nhân cho những người dân ở Nhật Bản ở độ tuổi

lao động, đặc biệt là những sinh viên mới và đang chuẩn bị tốt nghiệp ra
trường, đã trở nên rất khó khăn. Đối với những ai lần đầu tiên đi tìm kiếm
cơng ăn việc làm thì quả thật là cơ hội rất mỏng manh. Bởi vì phần đông
các công ty Nhật Bản trong những năm này luôn ở trong tình trạng suy
thối, họ phải co nhỏ lại quy mô họat động kinh doanh để tránh tổn thất và
sa thải công nhân. Một số nhỏ các công nhân được thuyên chuyển tới các xí
nghiệp vừa và nhỏ với những cơng việc mang tính chất tạm thời.
+ Tiến hành thu hẹp và giảm đầu tư vào nhiều khâu sản xuất cần
nhiều lao động, khơng cịn cạnh tranh được với hàng nhập khẩu, đồng thời
chuyển chúng sang các nước Đông Á. Đó là các nghành sản xuất phụ tùng
ơ tơ, lắp ráp đồ điện, điện tử, dệt… Hướng thích ứng này đã dẫn tới nguy
cơ của sự “trống rỗng” nền công nghiệp trong nước mà các sách báo đã đề
cập đến rất nhiều. Theo các số liệu thống kê của 14 nghành cơng nghiệp, tỷ
lệ đầu tư ra nước ngồi trong những năm giữa thập kỷ 90 bình quân đều đạt
trên 27%, vượt xa mức 1,8% vào năm 1986. Trong đó cơng nghiệp chế tạo
tăng mạnh nhất. Ví dụ, đằu tư ra nước ngồi trong ngành chế tạo ơ tơ đã
tăng từ 4,8% năm 1986 lên 38,1% năm 1995 (Tạp chí “Kinh tế hệ” số
tháng 7/1996). Tỷ trọng sản xuất ở nước ngoài (chỉ mối quan hệ giữatổng
ngạch tiêu thụ của các xí nghiệp ở nước ngồi thuộc ngành chế tạo với tổng
ngạch tiêu thụ của ngành chế tạo trong nước) đã tăng từ 3% năm 1985 lên
6,4% năm 1990 và 7,4% năm 1993, trong đó nghành sản xuất máy điện

11


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

12


tăng lên 12,6%, máy móc vận tải tăng lên 17,3% (Sách trắng đầu tư, Hội
Chấn hưng mậu dịch Nhật Bản năm 1995).
+ Tăng cường nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, bán thành
phẩm, và linh kiện, đặc biệt là những sản phẩm được sản xuất từ những cơ
sở chế tạo của Nhật Bản ở nước ngoài và nâng cao hơn nữa giá cả hàng
xuất khẩu để bù lại những thiệt hại do sư tăng giá của đồng Yên gây ra. Ví
dụ trong năm 1995, nhiều cơng ty xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng giá hàng
xuất khẩu từ 10 – 15%. Điều này đã khiến cho hàng nhập khẩu dễ có điều
kiện thâm nhập hơn vào thị trường Nhật Bản trong khi đó hàng xuất khẩu
từ Nhật Bản lại khó được chấp nhận hơn đối với người tiêu dùng nước
ngoài. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của Nhật Bản trong name 1995 chỉ
tăng có 2,6%so với 5,1% vào năm 1994, trong khi đó, nhập khẩu tăng tới
9,2% so với 8,4% vào năm 1994. Do xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng,
cán cân mậu dịch thặng dư của Nhật Bản đã giảm đi đáng kể. Song điều
đáng nói là trong khi thặng dư mậu dịch với Mỹ và EU giảm đi thì thặng dư
mậu dịch của Nhật Bản với Châu Á vẫn tiếp tục tăng nhanh, chứng tỏ Châu
Á ngày càng trở thành một thị trường xuất khẩu quan trọng của Nhật Bản.
Ví dụ, xuất khẩu của Nhật Bản sang Châu Á trong 6 tháng đầu năm 1995
đã lên tới 99,8 tỷ đôla, cao hơn cả xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ và EU
cộng lại (97,3 tỷ đôla). (Trịnh Ngọc - Kinh tế Nhật Bản phục hồi trong sự
trì trệ. Nghiên cứu Nhật Bản, số 1(5), 3/1996).
+ Tăng cường liên doanh, liên kết với nước ngoài trong việc nghiên
cứu và phát triển các sản phẩm mới. Đồng thời tến hành đào tạo lại lao
động, hợp nhất các cơ sở sản xuất khơng có hiệu quả, hoặc bán lại cho các
nhà đầu tư nước ngoài…
Thứ ba, trong lĩnh vực tài chính, “Bing Bang” được coi là một trong
những cuộc cải cách có vị trí quan trọng hàng đầu. Đây là một cuộc cải
cách toàn diện, sâu sắc, và triệt để với mục tiêu cơ bản là: làm cho thi
trường tài chính Nhật Bản năng động hơn, linh hoạt hơn, tự do hơn, minh
bạch, chuẩn mực hơn và có thể sánh vai với những trung tâm tài chính lớn

12


13

Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

như New York và Ln Đơn. Những nội dung chủ yếu của cuộc cải cách
này là:
+ Mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và những người đi vay.
+ Cải tiến chất lượng phục vụ của các trung gian tài chính và thúc
đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.
+ Phát triển một thị trường đem lại nhiều lợi ích hơn.
+ Thiết lập những khung khổ pháp lý và những quy định đáng tin
cậy cho sự giao dịch bình đẳng, minh bạch.
Trên cơ sở những hướng cải cách cơ bản nói trên, Chính phủ Nhật
Bản đã ban hành và thực hiện hàng loạt các chính sách và biện pháp cải
cách cụ thể đối với từng lĩnh vực của hệ thống tài chính. Trong đó, đặc biệt
là các chính sách cơ cấu lại Bộ Tài Chính, chính sách tăng cường vai trò
của Ngân hàng trung ương Nhật Bản, chính sách cơ cấu lại các ngân hàng
thương mại, chính sách nới lỏng các quy chế tạo điều kiện cho sự phát triển
của các thị trường vốn độc lập và sự thâm nhập vào các công việc kinh
doanh lẫn nhau của các cơ quan tài chính nhằm tăng cường khả năng cạnh
tranh của chúng, các chính sách về lãi suất tín dụng, tỷ giá đồng n, và thị
trường chứng khốn, các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo
hiểm…(Hệ thống tài chính Nhật Bản: những đặc trưng cơ bản và cuộc cải
cách hiện nay; chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).
Chi tiết quá trình thực hiện cải cách tài chính “Bing Bang” của Nhật Bản
được chỉ rõ trong bảng sau:

Tiến trình thực hiện “Big Bang” của Nhật Bản
Các khoản mục
1. Mở rộng sự lựa chọn cho các
nhà đầu tư và các tổ chức tăng
nguồn vốn

1997

1998

1999

2000

2001

13


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

-

-

Tự do hố giao dịch vốn và
kinh doanh noại hối trong
nước cũng như ngồi nước
Thực hiện tài khoản chứng

khốn chung

4/98
10/98

-

Tự do hố hồn tồn các
loại chứng khốn

12/98

-

Giới thiệu việc bán uỷ thác
đầu tư không cần qua quầy
của ngân hàng và các tổ
chức khác

12/98

-

Tăng khả năng thanh toán
của ABS và các khoản nợ
khác

9/98

-


Mở rộng định nghĩa về
chứng khoán

12/98

- Cải cách chế độ lương hưu
2. Cải tiến chất lượng các loại
dịch vụ và đẩy mạnh cạnh
tranh
- Khai thác sử dụng các cơng
ty cổ phần
- Xố bỏ những hạn chế trong
hoạt động kinh doanh ở
các chi nhánh của các tổ
chức tài chính
- Chuyển từ chế độ cấp giấy
phép sang chế độ dăng ký
đối với các cơng ty chứng
khốn

14

2/97

3/98

10/99

12/98


14


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

- Tự do hố mức hoa _ang
của người mơi giới

10/99
10/99

- Cho phép các ngân hàng
phát hành thẳng trái phiếu
và cổ phiếu
3. Sử dụng thị trường thân
thiện, nhiều hơn
- Cải tiến mua bán ngoại tệ và
xoá bỏ mức ấn dịnh cho
các loại chứng khốn có
trong danh sách
- Tăng cường chức năng của
thị trường đăng ký qua máy

12/98

12/98

- Xoá bỏ thuế giao dịch chứng

khoán và thuế ở thị trường
hối đoái

4/99
4/99

- Xoá bỏ một phần thuế của
những người có JGBs
4. Cải tiến khung pháp lý cho
việc trao đổi bình đẳng và
minh bạch
- Thực hiện ngay các biện
pháp hành động đúng
- Tăng cường chế độ cơng
khai tình hình kinh doanh
của các doanh nghiệp
- Cải cách các tiêu chuẩn về
kế toán: đánh gia kế toán
thị trường bằng điểm

15

4/99

12/98

3/01

15



Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

16

16


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

17

CHƯƠNG II: MỘT SỐ THÀNH CƠNG BƯỚC ĐẦU
CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ Ở NHẬT BẢN
Có thể thấy tư sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực
Đơng á Nhật Bản đã có những cố gắng xúc tiến mạnh hơn chương trình cải
cách nền kinh tế của mình. Trên thực tế cuộc khủng hoảng đã làm bộc lộ rõ
những điểm hạn chế trong bản thân nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong hệ
thống Tài chính Ngân hàng buộc Nhật Bản phải có sự cải cách tồn diện.
Nhìn lại các cuộc cải cách trong những năm gần đây ta thấy Nhật Bản
không chỉ chú trọng vào phương diện tạo cầu, kích cầu mà cịn chú ý cả
khía cạnh cung của nền kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý trên
cơ sởphát triển mạnh các ngành kinh tế kỹ thuật cao.
Trên phương diện cầu, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều chương
trình kích thích kinh tế hàng năm nhằm mở rộng đầu tư. Bên cạnh đó là
những cố gắng tập trung giải quyết các khoản nợ khó địi, nhằm tạo sự lành
mạnh trong hệ thống ngân hàng, kích thích các hoạt động đầu tư tư nhân.
Trong các chương trình cải cách của Thủ tướng Nhật Bản trước ơng

Koizumi lại chú trọng kích thích đầu tư tư nhân, hạn chế, giảm tài trợ đầu
tư công cộng nhằm tiến tới cân bằng ngân sách. Chẳng hạn theo dự tốn
ngân sách năm tài chính 2002, cơng trái được phát hành khơng qua 30
nghìn tỷ n,giảm 10% ODA và giảm đầu tư cơng cộng 10%. Để kích
thích mạnh hơn đầu tư tư nhân chính phủ đã tập trung vào giải quyết nợ
khó địi thơng qua một số giải pháp mạnh có tính khả thi như bán lại nợ,
cho doanh nghiệp chịu nợ phá sản, ngân hàng tự huỷ bỏ một phần nợ. Cùng
với đó thực hiện giảm thuế để kích thích người dân tăng chi tiêu và đầu tư
phát triển kinh tế.
Trên phương diện cung nhà nước chú ý đẩy mạnh cải cách cơ cấu và
thể chế kinh tế nhằm tạo mơi trường thơng thống cho các doanh nghiệp
hoạt động. Các chính sách Nhà nước tập trung chú trọng phát triển các
nghành công nghệ cao đại diện cho nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Xúc
17


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

18

tiến chương trình phát triển tổng thể vùng kinh tế nhằm gắn kết các khu
vực trong nền kinh tế theo 4 trục chính: Đơng – Bắc, ven biển Nhật Bản,
ven Thái Bình Dương và trục phía tây Nhật Bản, qua đó phát huy lợi thế so
sánh của từng vùng trong hoạt động kinh doanhhợp tac quốc tế. Nhật Bản
cũng đẩy mạnh tiến trình tự do hố và hội nhập quốc tế. Bên cạnh gia tăng
các hoạt động hợp tác với ASEAN, Nhật Bản cũng từng bước mở cửa thị
trường nội địa và tự do hoá các hoạt động kinh doanh, thu hút nhiều hơn
dịng vốn nước ngồi đổ vào thị trường Nhật Bản.
Điều đáng chú ý trong các cuộc cải cáchgần đây là chú trọng phát

triển kinh tế theo hướng gia tăng nội nhu, láy nội nhu làm động lực phát
triển.
I. MỘT SỐ THÀNH CÔNG BƯỚC ĐẦU CỦA CẢI CÁCH KINH TẾ
NHẬT BẢN
Nhìn một cách tổng thể, cải cách kinh tế ở Nhật Bản đã thu được
những kết quả tương đối khả quan. Các cuộc cải cách này đã và đang dẫn
tới những thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế Nhật Bản, làm cho khu vực tài
chính Nhật Bản đã trở lên có sức cạnh tranh mạnh hơn và, sự thâm nhập
của nước ngoài vào nền kinh tế Nhật Bản cũng trở nên ít khó khăn hơn.
Các cuộc cải cách này cũng đã dẫn tới sự cơ cấu lại các công ty và sự phát
triển mạnh của các thị trường vốn độc lập. Hơn 10 năm trước dây, người
Nhật Bản không thể nghĩ rằng sự xuất hiện của thị trường vốn sẽ là một lực
lượng quan trọng thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế Nhật Bản và làm thay
đổi phong cách quản lý truyền thống trong các công ty của Nhật Bản. Sự ra
đời của một ban giám đốc độc lập và quyền lợi của các cổ đông là những
vấn đề đáng chu ý hiện nay ở các công ty Nhật Bản. Chế độ làm việc suốt
đời và trả lương theo thâm niên cũng đã trở nên khơng cịn thích hợp nữa.
Nếu như trong những năm 1980, người ta không thể tuyển mộ sinh viên
giỏi từ một trường đại học có tiếng ở Nhật Bản vào làm việc cho một công
ty mà không phải là lớn hoặc khơng phải Bộ tài chính; và người Nhật Bản
cũng khơng thích thú vào làm việc trong các cơng ty nước ngồi, thì trong

18


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí

19


những năm gần đây, tình hình đã hồn tồn khác. Những sự thay đổi này,
một phần chính là kết quả của những cuộc cải cách kinh tế trong những
năm 1990, đặc biệt là cuộc cải cách hệ thống tài chính trong những năm
gần đây của Nhật Bản.

1. Những tiến bộ trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Kể từ khi nền kinh tế “bong bóng” bị sụp đổ, Chính phủ Nhật Bản đã
ban hành khá nhiều giải pháp kích thích cả gói với quy mơ lớn cùng với các
luật cải cách tài chính và tỷ lệ lãi suất thấp nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Những giải pháp này đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân. Các nhà lãnh đạo kinh doanh của khu vực tư nhân đã
phần nào lấy lại được lòng tin trong việc đưa khu vực tư nhân thành khu
vực đi đầu trong việc đem lại sự phục hồi kinh tế cho Nhật Bản. Dưới tác
động của các chính sách cải cách, các tập đồn cơng ty của Nhật Bản đã và
đang tiến hành việc cơ cấu lại theo hướng phù hợp với xu thế toàn cầu hố
kinh tế. Có 4 tín hiệu chứng tỏ các tập đồn cơng ty Nhật Bản đang tự
chuyển đổi theo hướng một cơ cấu có khả năng cạnh tranh mạnh hơn.
Thứ nhất là có sự thay đổi trong khâu quản lý theo hướng tăng cường
vai trò của những người nắm cổ phần. Theo hướng này, các tập đồn cơng
ty Nhật Bản được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của các cổ đơng, và do đó
các hoạt động kinh doanh sẽ trở nên có hiệu quả hơn.
Thứ hai là việc thực hiện hệ thống tính tốn thống nhất. Hệ thống
này đã có tác dụng quan trọng trong việc tăng cường sự minh bạch cũng
như buộc các công ty phải tập trung vào những khả năng cốt lõi của họ.

19


Tài liệu được sưu tầm từ nguồn internet và chính tác giả chia sẻ
TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu trực tuyến miễn phí


20

Thứ ba là các cơng ty đang xúc tiến việc nâng cao chất lượng lãnh
đạo bằng cách đưa vào các giám đốc từ bên ngoài. Bằng cách này các nhà
quản lý có thể nghe được nhiều ý kiến khác nhau và không thiên vị về
chiến lược công ty của họ, cho phép họ thực hiện những thay đổi làm tăng
khả năng cạnh tranh hơn. Việc làm này cũng góp phần tăng cường vai trị
của lãnh đạo vì nó tách chức năng kiểm tra khỏi chức năng hoạt động kinh
doanh.
Thứ tư, việc quản lý các nguồn nhân lực cũng đang có sự thay đổi.
Nhiều cơng ty hiện nay nhấn mạnh vào khả năng làm việc hơn là sự thâm
niên và thuê mướn suốt đời. Ví dụ, theo một nghiên cứu, chỉ có 6,3% người
Nhật cho rằng hệ thống trả lương theo thâm niên cần được duy trì, trong
khi đó 53,8% cho rằng tiền lương cần được trả trên cơ sở công việc thực
tế .
Bên cạnh những nhân tố kể trên, sự phát triển mạnh của đầu tư nước
ngoài vào Nhật Bản cũng là một động lực khác cho sự thay đổi cơ cấu các
ngành. Đặc biệt là cuộc cải cách tài chính Big Bang đã và đang dẫn tới
những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản. Khu vực tài chính Nhật Bản trở
nên có sức cạnh tranh mạnh hơn và sự thâm nhập của nước ngoài vào khu
vực này cũng trở nên ít khó khăn hơn. Theo các số liệu thống kê, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Nhật Bản trong những năm gần đây đã tăng
rất mạnh. Trong đó khoảng 34,1% tổng vốn FDI là vào khu vực tài chính,
và khoang 24% vào kỹ thuật thơng tin và các ngành thương nghiệp bán lẻ.
FDI, ngoài các khoản tiền đầu tư, đã đưa vào Nhật Bản các quan điểm của
các nhà đầu tư và các kiểu quản lý cơng ty khơng chỉ mới mà cịn có thể áp
dụng đối với các xí nghiệp Nhật Bản truyền thống. Nếu như trước đây
người Nhật Bản đã khơng thích thú làm việc trong các cơng ty nước ngồi
ở Nhật Bản thì trong những năm gần đây tình trạng này đã được cải thiện

rất nhiều. Ví dụ, nhiều người Nhật Bản đã hoan nghênh sự sát nhập của
Nissan và Renault nhằm cứu vãn sự sống còn của Nissan, trong khi thừa

20



×