Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số nét về sâu bệnh hại bí xanh (Benincasa hispida Cogn) và biện pháp phòng chống ở Yên Châu, Sơn La doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 7 trang )

kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
23
Một số nét về sâu bệnh hại bí xanh (
Benincasa hispida
Cogn)
và biện pháp phòng chống ở Yên Châu, Sơn La
Some remarks on insect pests and diseases of Wax Gourd
(
Benincasa hispida
Cogn) and their control at Yenchau, Sonla

Đặng Xuân Kỳ, Trần Văn Sáng,
Nguyễn Văn Đĩnh và Vũ Thanh Hải
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội

Abstract
The study on composition of pest species and diseases, damage of main
pests on wax gourd, Benincasa hispida Cogn. and their control was conducted
at mountainous district Yen Chau, Son La province, 260 km north-west from
capital Hanoi in July 2006 – June 2008.
Mains results as following:
The composition of insect pest species on wax gourd, Benincasa hispida
Cogn. consisted of 14 species and among them the wax gourd beetle
Aulacophora femoralis chinensis Weise and fruit fly, Bactrocera cucurbitae
Coquillett were key pests. There were 3 disease species and the bacterial wilt,
Pseudomonas solanacearum Smith was also a key pest.
The wax gourd beettle A. femoralis chinensis appeared at the beginning of the
crop season and the time of their pick was the same the time when the biomass
of wax gourd plant was highest.
The fruit fly, B. cucurbitae appeared when the first flower opened and
reached its pick at harvesting time. 100% fruits could be damaged by flies. The


best treatment for prevention of biting by fruit flies is packaging the young fruit
right after flower opened onward to 20 days. At that treatment the damage is
lowest (0.0%) and the fruit performance is most attractive.

I. Đặt vấn đề
Việc đa dạng hoá cây trồng, nhất là
mở rộng diện tích cây vụ đông thường
đem lại thu nhập cao cho nông hộ, có
tác dụng chống xói mòn. Cây bí xanh,
Benincasa hispida Cogn. cho năng
suất cao trong vụ đông xuân, không
cạnh tranh với cây lúa, chịu bảo quản
trong thời gian dài và chịu được vận
chuyển, là một loại rau khá lý tưởng
trong trong vụ đông xuân tại vùng đồi
núi. Các nghiên cứu về kỹ thuật canh
tác thích hợp đã chỉ ra tiềm năng phát
triển cây bí xanh ở Yên Châu tỉnh Sơn
La (Vũ Thanh Hải, Nguyễn Văn Đĩnh,
2008).
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
24

Tại đây, cây bí xanh được trồng chủ
yếu theo hình thức quảng canh trên các
nương ngô, trên đất canh tác lúa hay
tại vườn nhà, cây bò leo tự nhiên hoặc
leo trên giàn và hầu như không có tác
động các biện pháp kỹ thuật nào.
Giống phổ biến là bí xanh địa phương

quả to, ngắn, ruột nhiều, có vị chua khi
xào nấu.
Nghiên cứu về dịch hại trên bí xanh
trong nước nhìn chung là rất ít. Một
số công bố mới đây liên quan đến sâu
hại sống trong đất hại bí xanh có loài
sâu xám tại 03 huyện trồng rau ở Hà
Nội và biện pháp phòng trừ là bắt
bằng tay (Trần Đình Chiến và CTV.,
2008). Cây bí xanh là ký chủ của 02
loài ruồi hại quả, Bactrocera
cucurbitae và Bactrocera dorsalis H.
ở 5 tỉnh miền núi phía Bắc và biện
pháp dùng bả protein là có hiệu quả
cao trong phòng trừ ruồi hại quả (Lê
Đức Khánh và CTV., 2008).
Bài viết này trình bày kết quả
nghiên cứu bước đầu về sâu bệnh hại
bí xanh, những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến năng suất của cây bí xanh
và biện pháp phòng chống các loài sâu
bệnh hại trên bí xanh ở Yên Châu, Sơn
La.
II. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong
thời gian 7/2006-6/2008 trên ruộng và
vườn của nông dân trồng thử nghiệm
bí xanh tại xã Viêng Lán (Yên Châu,
Sơn La) thuộc vùng núi cao Tây Bắc.
Thành phần sâu và bệnh hại được

xác định thông qua điều tra tự do trên
đồng ruộng trong suốt cả vụ đông và
vụ xuân.
Mức độ xuất hiện của sâu hại chính
được xác định thông qua tần suất xuất
hiện trong điều tra theo phương pháp 5
điểm chéo góc, mỗi điểm 1m
2
, tương
đương 6 cây bí, riêng đối với ruồi đục
quả tính theo số lượng trưởng thành
vào bẫy CuE do nhóm nghiên cứu ruồi
đục quả thuộc Viện Bảo vệ thực vật
cung cấp. Đối với các bệnh hại quan
sát triệu chứng bệnh trên lá, thân.
Bao quả làm bằng giấy xi măng
mỏng chiều dài 45 cm, đường kính 15
cm, số lượng quả được bao ngẫu nhiên
là 60 quả (năm 2007) và 84 quả (vụ
xuân năm 2008). Quả được bao lại
ngay khi cánh hoa bắt đầu héo (tức sau
khi quá trình thụ phấn gần như hoàn
tất). Hiệu quả của biện pháp này được
xác định dựa trên kết quả thu được của
04 công thức thí nghiệm: Không bao
quả (CT 1: đối chứng), mở bao quả
sau khi tiến hành bao hoa cái 10 ngày
(CT2), 15 ngày (CT 3) và 20 ngày
(CT4).
III. Kết quả nghiên cứu

và thảo luận
1. Thành phần sâu hại và bệnh
hại
Thành phần sâu hại cây bí xanh bao
gồm 14 loài (bảng 1). Ngoài ra còn có
loài ốc sên Bradybaena similaris
Fðrus phá hại khá mạnh cây bí xanh
trong giai đoạn mới trồng. Trong số
các loài sâu hại phổ biến thì bọ bầu
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
25
vàng Aulacophora femoralis chinensis
và ruồi đục quả Bactrocera cucurbitae
là hai loài gây hại quan trọng nhất đến
sinh trưởng, phát triển và năng suất
của cây bí xanh.
Trong vụ xuân năm 2008, bọ bầu
vàng có tần suất bắt gặp đến 90%, mật
độ trung bình là 5,13 con/m
2
, lúc thấp
nhất là 4,73 con/m
2
, lúc cao nhất lên
đến 5,82 con/m
2
. Sâu non bọ bầu vàng
sống trong đất, đục vào rễ non, gốc
non làm thối gốc và có thể gây chết
cây.

Ruồi đục quả Bactrocera cucurbitae
xuất hiện và gây hại khi cây bí xanh
bắt đầu ra hoa và khi quả bí còn non,
vỏ quả mềm. Ruồi dùng ống đẻ trứng
chọc qua biểu bì bầu quả hoặc quả non
rồi đẻ trứng vào thịt quả bên trong.
Trứng nở ra giòi, đục phá bên trong
quả làm cho quả bị méo mó và tạo
thành những đường hầm cho vi sinh
vật xâm nhập gây thối hỏng quả bí từ
bên trong.
Bọ xít xanh Nezara viridula L. và
bọ xít đen Scotinophora liruda Burm.
đều châm quả hút nhựa quả non khi vỏ
quả chưa quá cứng, làm cho quả bị
méo mó, vỏ sần sùi. Loài ruồi đục lá
Liriomyza sativae Blanch. xuất hiện
sớm, gây hại nhiều và liên tục trên lá
non nhưng không quan trọng bằng hai
loài trên.
Thành phần bệnh hại bí xanh gồm 3
loài trong đó 2 loài phổ biến (bảng 2).
Trong vụ xuân xuất hiện nhiều bệnh
và bệnh gây hại nặng hơn so với vụ
đông. Bệnh héo xanh vi khuẩn là loại
bệnh hại quan trọng nhất, sau đó đến
bệnh phấn trắng. Trong vụ xuân, bệnh
héo xanh vi khuẩn gây chết tới 32,2 %
số cây. Sự xuất hiện bệnh vi khuẩn
liên quan đến chân đất, thường đất

vườn bị bệnh cao hơn đất ruộng. Bệnh
phấn trắng có tần suất bắt gặp rất cao,
thường đạt 100% và hại lá là chủ yếu.
Bệnh khảm virus có tần suất bắt gặp là
7 - 8%.
Bảng 1. Thành phần, mức độ phổ biến của sâu hại trên bí xanh
(Yên Châu, Sơn La, 2007-2008)
ST
T
Tên Việt Nam

Tên khoa học Họ
M
ức độ
phổ biến

1 Bọ bầu vàng Aulacophora femoralis chinensis
Weise
Chrysomelida
e
+++
2 Bọ ánh kim
xanh
Aulacophora sp. Chrysomelida
e
++
3
Bọ rùa 28 chấm

Epilachna vigintiotopunctata

Motsch
Coccinellidae

++
4 Bọ trĩ Thrips palmy Karny Thripidae +
5 Sâu khoang Spodoptera litura Fabr Noctuidae +
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
26

6 Sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner Noctuidae ++
7 Sâu róm đường
chỉ đỏ
Porthesia scintillanas Walk Noctuidae +
8 Bọ xít mướp Aspongopus fuscus Westwood Pentatomidae

+
9 Bọ xít xanh Nezara viridula Lin. Pentatomidae

+++
10

Bọ xít đen Scotinophora lurida Bur. Pentatomidae

+++
11

Rệp muội Aphis gossypii Glover Aphididae +
12

Ruồi đục quả Bactrocera cucurbitae Coquillett


Trypetidae +++
13

Ruồi đục quả B. dorsalis Hendel Trypetidae +
14

Ruồi đục lá Liriomyza sativae Blanchard Agromyzidae

+++
Ghi chú: (+): ít phổ biến (0-5%); (++): Phổ biến (5-25%); (+++): Rất phổ
biến (>25%)
(ký hiệu dựng chung cho các bảng)
Bảng 2. Thành phần bệnh hại trên bí xanh tại Yên Châu - Sơn La
Tên Việt Nam Tên Khoa học Vụ đông

Vụ xuân

Phấn trắng Erysiphe cichoracearum De Candolle ++ +++
Héo xanh vi
khuẩn
Pseudomonas solanacearum Smith ++ +++
Khảm lá bí Cucumber mosaic virus – CMV + +

Nhìn chung, thành phần sâu bệnh
hại bí xanh ở Yên Châu không khác
nhiều so với thành phần sâu bệnh hại
trên bí xanh tại Đông Anh, Hà Nội.
Khác biệt dễ nhận thấy nhất là tần suất
bắt gặp của các loài sâu hại trong quá

trình điều tra ở Yên Châu thường cao
hơn. Tại Yên Châu có ốc sên, bọ xít
xanh và bọ xít đen bắt gặp khá phổ
biến trong khi đó ở Đông Anh thì
không thấy. Ngược lại, ở Đông Anh,
bọ phấn có mật độ cao hơn nhiều so
với ở Yên Châu. Hoặc như trên cùng
giống bớ Sặt, bệnh phấn trắng ở Đông
Anh có tần xuất bắt gặp ít hơn ở Yên
Châu.
2. Diễn biến mật độ của bọ bầu
vàng Aulacophora femoralis chinensis
Weise
Cả trưởng thành và sâu non của loài
bọ bầu vàng đều gây hại cây bí xanh.
Trưởng thành ăn khuyết, thủng lá.
Chúng có sức ăn khoẻ làm giảm đáng
kể diện tích quang hợp của cây. Sâu
non thì chỉ đục vào trong gốc hay thân
non có thể làm cây bị chết. Khi cây ở
giai đoạn 2 lá mầm đến 2 lá thật, tác
hại do chúng gây ra là rất nghiêm
trọng. Trong vụ đông, bọ bầu vàng
xuất hiện rất sớm, ngay khi bí xanh có
2 lá thật và có 1 đỉnh cao vào giữa đến
cuối tháng 9 (hình 1).
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
27



Hình 1. Diễn biến mật độ của trưởng
thành bọ bầu vàng Aulacophora
femoralis chinensis Weise tại Yên
Châu
vụ đông 2007

Trong các đợt điều tra vào tháng
8/2007, mật độ bọ bầu vàng đã tăng
nhanh đạt là 11 con/m
2
. Sau đó, mật
độ bắt đầu giảm vào ngày điều tra tiếp
theo trong tháng 9 là 10,5 con/m
2

vào cuối giai đoạn thu hoạch lần điều
tra cuối cùng ngày 3/11 mật độ chỉ còn
là 0,3 con/m
2
.
Trong vụ xuân 2008, khi cây còn
nhỏ, cây bí xanh bị chết do sâu non bọ
bầu vàng tấn công, chúng đục vào
trong gốc tương tự như cách thức gây
hại của một loài sâu đục thân làm cho
toàn bộ gốc bị hỏng và cây bị héo chết
dần do tắc đường vận chuyển nước và
dinh dưỡng.
Khi mật độ bọ bầu vàng trưởng
thành đạt đến đỉnh cao vào cuối tháng

2 đầu tháng 3/2008 (7,8 con/m
2
) thì
cũng là lúc mật độ của sâu non và
nhộng của bọ bầu tăng dần (hình 2) và
tại thời điểm này tỉ lệ cây bí xanh bị
hại khá cao.

Hình 2. Diễn biến mật độ bọ bầu vàng
tại Yên Châu - Sơn La trong vụ xuân
2008

3. Diễn biến mật độ của ruồi đục
quả Bactrocera cucurbitae Coquillett
Diễn biến mật độ ruồi đục quả vào bẫy
CuE có liên quan trực tiếp đến giai đoạn
cây bí xanh ra hoa và hình thành quả.
Ruồi đục quả bắt đầu xuất hiện trên ruộng
khi cây bắt đầu ra hoa hình thành quả non
với mật độ 2 con/ bẫy. Sau đó mật độ
tăng dần và đạt cao nhất 40 con/bẫy ở giai
đoạn chuẩn bị thu hoạch. Tiếp theo mật
độ của chúng giảm dần (hình 2).


Diễn biến mật độ bọ bầu vàng
4.4
7.8
7
7.7

6.7
6.5
5.3
4.8
3.2
3
5.3
3.7
3.6
4.2
2.2
2.6
2
4.6
3.6
5.2
3.7
1.5
2.9
2.4
1.6
1.1
1.8
1.61.5
0.9
0
1
2
3
4

5
6
7
8
9
30/1 4/2 9/2 14/2 19/2 24/2 29/2 5/3 10/3 15/3
Ngày
điều tra
Mật độ
(con/m2)
trưởng
thành
sâu non
nhộng
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
28

Hình 2. Diễn mật độ ruồi đục quả vào
bẫy CuE (con/bẫy) tại Yên Châu vụ
đông 2007

Có thể thấy mật độ ruồi đục quả vào
bẫy và mức độ gây hại tại Yên Châu -
Sơn La cao hơn rất nhiều so với ở
Đông Anh- Hà Nội. Nguyên nhân có
thể là do cây bí xanh địa phương trồng
rải rác, nên có nguồn lây nhiễm ban
đầu cao.
4. Hiệu quả của biện pháp bao
quả

Bao quả là biện pháp phòng ngừa
nhiều loài sâu hại, không chỉ làm
giảm đến mức tối đa sự gây hại của
sâu và bệnh hại mà trong nhiều
trường hợp còn tạo mẫu mã quả đẹp.
Kết quả thí nghiệm sử dụng túi nhỏ
bằng giấy xi măng để bao toàn bộ
quả được trình bày tại bảng 3, bảng 4
và hình 4.
Bảng 3. Kết quả của các công thức
bao quả vụ đông 2007
Công thức
Số vết
hại TB
(vết/qu
ả)
Tỉ lệ
quả bị
hại
(%)
Tỉ lệ
quả
thối
hỏng

CT1 (không
bao)
2,07 93,3 6,7
CT2 (mở bao
sau 10 ngày)

0,93 46,7 0
CT3 (mở bao
sau 15 ngày)
0,07 6,7 0
CT4 (mở bao
sau 20 ngày)
0 0 0
Bảng 4. Kết quả của các công thức bao
quả vụ xuân 2008
Công thức
Số vết
hại
trung
bình
(vết/quả
)
Tỉ lệ
quả bị
hại (%)

Tỉ lệ
quả
thối
hỏng
(%)
CT1 (không
bao)
6,19 95,24

28,57


CT2 (m
ở bao
sau 10 ngày)

0,90 57,14

9,52
CT3 (m
ở bao
sau 15 ngày)

0,14 14,29

4,76
CT4 (m
ở bao
sau 20 ngày)

0 0 4,76

Kết quả thấy ở công thức đối chứng
(CT 1) có tới 20/21 quả thí nghiệm có
vết đục (châm), có nghĩa là các côn
trùng chích hút đã tấn công mạnh ngay
từ khi quả bí xanh mới hình thành.

Hình 4. Hiệu quả của các công thức
bao quả vụ xuân 2008


Khi tiến hành bao ngăn ngừa sự gây
hại của ruồi và bọ xít ngay từ đầu và
bao với thời gian dài, vỏ quả bí càng
hoá cứng hơn càng làm cho ruồi đục
quả và bọ xít càng ít đục hay châm ít
kết quả nghiên cứu khoa học BVTV - Số 5/2008
29
hẳn. Trong các công thức thì công thức
mở bao quả 20 ngày sau khi bao là tốt
nhất, đạt tỷ lệ quả bị châm thấp nhất
(0,0%). Đây cũng là thời gian tối đa cần
bao quả, sau đó cần mở bao để quả bí
thực hiện chức năng dinh dưỡng bình
thường.
IV. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu tại Yên
Châu, Sơn La, chúng tôi có các kết
luận sau:
- Thành phần sâu bệnh hại bí xanh
Benincasa hispida Cogn ở Yên Châu -
Sơn La thường có tần suất bắt gặp cao
hơn ở Đông Anh - Hà Nội. Đã xác
định 14 loài sâu hại, trong đó bọ bầu
vàng Aulacophora femoralis chinensis
Weise và ruồi đục quả Bactrocera
cucurbitae Coquillett là 2 loài gây hại
quan trọng nhất. Có 3 loài bệnh hại,
trong đó bệnh héo xanh vi khuẩn,
Pseudomonas solanacearum Smith là
loài gây hại quan trọng nhất.

- Bọ bầu vàng xuất hiện từ đầu vụ
và đạt đỉnh cao khi cây bí xanh có
khối lượng thân lá nhiều nhất. Cả
trưởng thành và sâu non của bọ bầu
vàng đều gây hại, mức độ gây hại nặng
nhất là khi cây có 2 lá mầm đến 2 lá
thật
- Ruồi đục quả xuất hiện khi cây bí
xanh có hoa và đạt đỉnh cao khi bắt
đầu thu hoạch. Chúng có thể gây hại
100% số quả, làm cho quả cong queo,
giảm khối lượng và có thể bị thối.
- Công thức thí nghiệm bao quả trong
thời gian từ hoa tàn đến sau 20 ngày cho
kết quả tốt nhất, tỷ lệ hại thấp (0,0%),
khối lượng quả cao nhất và mẫu mã quả
đẹp nhất.

Tài liệu tham khảo
1. Trần Đình Chiến, Nguyễn Thị
Kim Oanh, Hà Quang Hùng, Lê Ngọc
Anh. 2008. Đánh giá thành phần và
mức độ gây hại rau của các loài côn
trùng sống trong đất tại Từ Liêm,
Đông Anh, Gia Lâm Hà Nội năm
2007. Hội nghị côn trùng học toàn
quốc lần thứ 6 năm 2008: 462-473
2. Vũ Thanh Hải, Nguyễn Văn
Đĩnh. (Đang in). Nghiên cứu một
số biện pháp kỹ thuật thích hợp có

trong bí xanh (Benincasa hispida
Cogn.) tại Yên Châu, Sơn La. Tạp
chí khoa học và Phát triển.
3. Lê Đức Khánh, Nguyễn Thị
Thanh Hiền, Trần Thanh Toàn, Vũ Thị
Thuỳ Trang, Đào Đăng Tựu, Phan
Minh Thông, Vũ Văn Thanh, Đặng
Đình Thắng. 2008. Ruồi hại quả và
biện pháp phòng trừ bằng bả protein.
Trong: Hội nghị côn trùng học toàn
quốc lần thứ 6, năm 2008: 584-591.



×