Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đề số 12: Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.73 KB, 14 trang )

Muc luc

MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
NỘI DUNG ........................................................................................................... 1
I. Khái quát chung ............................................................................................ 1
1. Phá sản ........................................................................................................ 1
2. Thủ tục phá sản .......................................................................................... 2
3. Đơn yêu cầu và chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ..............3
II. Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản .............................................................................................. 4
1. Chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ........................................ 4
1.1. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .....................4
1.2. Chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ................ 8
2. Một số đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về chủ thể có quyền
và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. .....................................10
KẾT LUẬN .........................................................................................................12
Tài liệu tham khảo .............................................................................................13


Đề số 12: Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản.
MỞ ĐẦU
Trong quá trình hoạt động của một doanh nghiệp, hẳn nhiên sẽ có những bước
thăng trầm, có thể là thất bại, thua lỗ. Pháp luật từ lâu quy định nhiều “con
đường” mà doanh nghiệp có thể lựa chọn để giải quyết khó khăn, như bán
doanh nghiệp, sáp nhập vào doanh nghiệp khác, hay giải thể, tạm đình chỉ hoạt
động, phá sản…trong đó phá sản là cách giải quyết đặc biệt hơn cả. Một doanh
nghiệp bị phá sản, tức là bị rời khỏi thương trường. Vấn đề phá sản một doanh
nghiệp phải được giải quyết một cách thỏa đáng và hợp lý để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, người lao động và cho cả doanh nghiệp. Vì vậy,
pháp luật về phá sản đã ra đời, quy định rõ về điều kiện và thủ tục phá sản.


Trong đó, vấn đề chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được
quy định đầy đủ và tương đối chặt chẽ. Đó là cơ sở để thực hiện vai trò bảo vệ
chủ nợ, bảo vệ người lao động, bảo vệ doanh nghiệp của Luật Phá sản. Để làm
rõ hơn về chủ thể nộp đơn yêu cầu phá sản, em lựa chọn đề bài: “Bình luận các
quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”
I.

Khái quát chung

NỘI DUNG

1. Phá sản
Theo Luật Phá sản năm 2014 định nghĩa: “ Phá sản là tình trạng của doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết
định tuyên bố phá sản.”
Một doanh nghiệp cũng được coi như là một thực thể sống của xã hội, cùng với
quá trình hình thành, phát triển và suy vong. Giai đoạn suy vong của doanh
nghiệp người ta gọi là phá sản.

1


Thuật ngữ “phá sản” thường được sử dụng để chỉ những doanh nghiệp bị lâm
vào tình trạng hỗi loạn về tài chính và khơng có khả năng thanh tốn các khoản
nợ. Có nhiều mức độ phá sản khác nhau, bao gồm từ tình trạng bị mất khả năng
thanh tốn tạm thời cho đến những trường hợp chấm dứt sự hoạt động của
doanh nghiệp với tư cách một thực thể kinh doanh.
Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ
ngày đến hạn thanh toán.

Chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã
thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ khơng có bảo đảm,
chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm
Như vậy, phá sản luôn là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
Nó hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải
tự nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kể nền kinh tế đó phát triển ở các nước
trên Thế giới hay nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2. Thủ tục phá sản
Thủ tục phá sản là thứ tự, cách thức giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo
quy định của pháp luật phá sản.
Thủ tục phá sản là thủ tục do cơ quan tư pháp tiến hành. Đối tượng của hoạt
động tố tụng là các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các chủ nợ và con nợ theo
một cơ chế đặc biệt. Về bản chất thì thủ tục phá sản là giải quyết tồn bộ số nợ
của các chủ nợ đối với con nợ một cách tập thể. Ở nhiều trường hợp, thủ tục phá
sản cịn có thể mở ra cơ hội phục hồi hoath động sản xuất kinh doanh cho con
nợ, ngược lại cũng có thể chấm dứt sự tồn tại pháp lý của con nợ bị phá sản.
Thủ tục phá sản được nhà nước ghi nhận để bảo vệ lợi ích của nhiều chủ thế
khác nhau trong nền kinh tế, đó là:
2


- Bảo vệ hiểu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ
- Bảo vệ lợi ích của người mắc nợ, tạo cơ hội để người mắc nợ rút khỏi
thương trường một cách trật tự và để góp phần bảo vệ lợi ích của người lao
động.
3. Đơn yêu cầu và chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
* Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của trình tự giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là căn cứ để
Tịa án có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó

hay khơng? Đây là một loại văn bản trong đó thể hiện ý chí của chủ thể làm đơn
mong muốn Tòa án xem xét về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã
từ đó xem xét yêu cầu mở thủ tục phá sản.
* Chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Là những cá nhân có liên quan tới doanh nghiệp, hợp tác xã đang lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh tốn các khoản nợ có quyền u cầu mở thủ tục phá
sản.
Luật Phá sản năm 2014 phân các chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
thành hai nhóm:
- Nhóm có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: gồm Chủ nợ khơng
có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần; Người lao động, cơng đồn cơ
sở, cơng đồn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập cơng
đồn cơ sở; Cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ 20% số cổ phần phổ
thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng; Thành viên hợp tác
xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành viên của liên
hiệp hợp tác xã.
-

Nhóm có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: gồm Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã; Chủ doanh nghiệp tư
3


nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng
thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, chủ sở
hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh.
* Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản:
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nộp đơn mở thủ tục của các chủ thể sẽ
xuất hiện khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trang phá sản. Việc xác

định thời điểm mở thủ tục phá sản là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp và hợp tác xã. Thời điểm phù hợp nhất là
khi doanh nghiệp, hợp tác xã “ khơng cịn khả năng thanh toans được các khoản
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vào thời
điểm này sẽ có lợi cho cả con nợ, chủ nợ và người lao động.
II.

Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản

1. Chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
1.1.

Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

* Chủ nợ khơng có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần
Chủ thể đầu tiên có quyền nộp đơn mở thủ tục phá sản doanh nghiệp là các chủ
nợ không có đảm bảo hay có đảm bảo một phần. Chủ nợ của doanh nghiệp là
người cho doanh nghiệp vay tài sản thông qua một hợp đồng vay nợ. Theo Điều
4 Luật Phá sản 2014 thì có 3 loại chủ nợ của doanh nghiệp, đó là: chủ nợ có bảo
đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ khơng có đảm bảo đảm.
“Chủ nợ khơng có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh tốn khoản nợ khơng
được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ
ba.
4


Chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh
nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm

bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà
giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó.”
Về ngun tắc, các chủ nợ đều bình đẳng như nhau nhưng không phải tất cả các
chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản chỉ được pháp luật dành cho chủ nợ có bảo đảm một
phần và chủ nợ khơng có bảo đảm. Quy định này tạo điều kiện cho các chủ nợ
khơng có sự bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có cơ hội lựa chọn một
thủ tục thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh tốn. Cịn chủ nợ có bảo đảm ln được
ưu tiên thanh toán bằng tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc
người thứ ba nên việc quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là
không cần thiết.
Quy định này là không hợp lý, thủ tục phá sản là một phương thức đòi nợ đặc
biệt, việc khơng cho chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã
làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ hữu hiệu này của chủ nợ có bảo
đảm. Việc cho phép các chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
sẽ góp phần phát hiện sớm tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp,
hợp tác xã, nhờ đó phần nào có thể hạn chế thiệt hại của chủ thể khác nếu có rủi
ro xảy ra.
* Người lao động, cơng đồn cơ sở, cơng đồn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những
nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở

5


Người lao động là người đóng góp trực tiếp cơng sức của mình để duy trì hoạt
động của doanh nghiệp. Họ đem sức lao động của mình để trao đổi lấy tiền

lương thông qua hợp đồng lao động với doanh nghiệp. Có thể nhận thấy, khi
một doanh nghiệp bị mất khả năng thanh tốn, khơng dễ gì để doanh nghiệp đó
có thể giải quyết các khoản nợ, bao gồm cả nợ lương của người lao động. Người
lao động hầu như khơng có gì bảo đảm khi bị nợ lương, trong khi sức lao động
của họ thì đã đóng góp cho doanh nghiệp. Hơn nữa, tiền lương còn là nguồn thu
nhập chính của họ, thậm chí của cả gia đình họ. Ngồi lương, người lao động
cịn có thể nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp nợ 3 tháng trở
lên bao gồm trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, quyền lợi khác
theo ký kết hợp đồng lao động và thỏa ước lao động lao động tập thể đã ký. Vì
vậy, sẽ là hợp lý khi quy định cho người lao động có thể tự nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản.
Việc cho người lao động có thể tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là một
bước tiến của Luật Phá sản 2014 so với Luật Phá sản 2004. Luật Phá sản 2014
quy định bên cạnh cơng đồn cơ sở, quyền được nộp đơn yêu cầu phá sản còn
được trao cho người lao động và cơng đồn cơng đồn cấp trên trực tiếp cơ sở,
trong trường hợp cơng đồn cơ sở chưa thành lập. Hơn nữa, nó cịn cho phép
người lao động khơng cần phải nộp lệ phí khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản. Quy định của Luật Phá sản 2014 đã bảo vệ quyền và lợi chính đáng của
người lao động, những người đã tham gia đóng góp trực tiếp sức lực của mình
vào hoạt động của cơng ty.
Tuy nhiên, trên một khía cạnh khác, việc người lao động có thể được trực tiếp
nộp đơn u cầu cũng ít nhiều gây khó khăn cho doanh nghiệp, hợp tác xã, dễ
xảy ra tình trạng đơn yêu cầu không trung thực, vi phạm quy định tại Khoản 4
Điều 19 Luật Phá sản 2014.
* Cổ đơng, nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong
thời gian liên tục ít nhất 06 tháng
6


Cổ đơng là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần. Để

phù hợp với các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, đồng thời bảo vệ lợi ích
của các cổ đơng trong cơng ty cổ phần, đặc biệt là nhóm cổ đơng lớn, Luật Phá
sản 2014 quy định cổ đông cổ đông hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ 20% số cổ
phần phổ thơng trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán.
Lý do Luật Phá sản 2014 quy định cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng phải đáp ứng
điều sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên và phải sở hữu liên tục ít nhất
06 tháng mới được nộp đơn yêu cầu phá sản là nhằm tránh việc các cổ đơng nộp
đơn tùy tiện, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Các nhà lập pháp cho rằng, những
cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng nắm đã đạt đủ điều kiện nêu trên có trách nhiệm
cao hơn và nắm rõ hơn hoạt động của công ty. Tuy nhiên, Luật Phá sản 2014
cũng cho phép cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ
thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán trong trường hợp Điều
lệ công ty quy định.
* Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã
thành viên của liên hiệp hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau
đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức
lập ra. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của
pháp luật. Liên hiệp hợp tác xã là tập hợp những hợp tác xã liên kết tự nguyện
với nhau. Như vậy, thành viên của hợp tác xã cũng là những người có đóng góp
xây dựng hợp tác xã đó. Vì vậy, khi hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, họ cũng là những người có quyền được nộp đơn u cầu tịa án mở
thủ tục phá sản. Nếu như ở Luật Phá sản 2004, đại diện hợp pháp của hợp tác xã
7



có nghĩa vụ nộp đơn u cầu phá sản, thì ở Luật Phá sản 2014, đây trở thành
một quyền, và quyền đó được trao cho các thành viên hợp tác xã, đại diện của
hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã. Đây là một điểm mới của pháp
luật về phá sản hiện hành, giúp bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của các xã viên.
Tuy nhiên, cách quy định như vậy trong Luật Phá sản 2014 cũng gặp phải
những hạn chế như việc các xã viên nộp đơn yêu cầu phá sản một cách tùy tiện,
gây khó khăn cho hoạt động của hợp tác xã.
1.2.

Chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

* Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã
“Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho
doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật.”. Luật quy định việc người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn là một
nghĩa vụ bắt buộc mà không phải là quyền, không thể lựa chọn có thực hiện hay
khơng. Đây là một quy định hợp lý, là phù hợp với quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014. Vì nó đã gắn nghĩa vụ với những người đại diện hợp pháp, người
“thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp”,
những người có trách nhiệm hơn cả trong hoạt động của cơng ty nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của những người có liên quan. Quy định này trong
pháp Luật Phá sản hiện hành là một điểm kế thừa từ Khoản 1 Điều15 Luật Phá
sản 2004.
* Người quản lí doanh nghiệp
Không phải tất cả những người quản lý doanh nghiệp đều có nghĩa vụ nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng

8


thanh toán. Theo quy định của Luật Phá sản 2014, chỉ có Chủ doanh nghiệp tư
nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành
viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên hợp danh của công ty hợp danh
mới phải thực hiện việc này. Đây là những vị trí, chức danh quan trọng trong
cơng ty, doanh nghiệp. Những người này thường là những người có chịu trách
nhiệm cao nhất trong hoạt động của công ty. Trong doanh nghiệp tư nhân, chỉ
có một cá nhân duy nhất làm chủ và cá nhân đó chịu trách nhiệm bằng tồn bộ
tài sản của mìn. Cịn cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh
nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở
hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Hai chủ thể
nêu trên này đều là chủ duy nhất của doanh nghiệp, đương nhiên các họ phải có
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, trong trường hợp chủ
sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một tổ chức, pháp luật
vẫn chưa có quy định rõ cá nhân nào có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản.
Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên
của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là những người có trách
nhiệm và quyền hạn rất lớn trong hoạt đông của công ty. Việc pháp luật quy
định chủ thể này có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là hợp lý. Tuy
nhiên pháp luật không cho phép thành viên của công ty Trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên được thực hiện công việc này mà chỉ có Chủ tịch hội đồng
thành viên mới có thể thực hiện. Xét về góc độ chủ sở hữu, thành viên của cơng
ty cũng là những người đã góp vốn vào cơng ty, họ gắn quyền lợi của mình vào
cơng ty. Sẽ là bất hợp lý, khi công ty lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
tốn mà những thành viên này không được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

để bảo vệ quyền lợi của mình. Đây là một thiếu sót, bất cập lớn đã tồn tại từ
9


Luật Phá sản 2004 và cho tới nay Luật Phá sản 2014 vẫn chưa khắc phục được.
Thiếu đi quy định này, vai trò bảo vệ các chủ nợ và những người có lợi ích
chính đáng của pháp Luật Phá sản sẽ giảm đi đáng kể.
Theo quy định tại Điều 172 Luật Doanh nghiệp 2014, công ty hợp danh là
doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngồi các thành
viên hợp danh có thể có các thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh là thành
viên bắt buộc của công ty, họ phải là cá nhân có trình độ chun mơn và uy tín
nghề nghiệp đồng thời phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của cơng ty. Hơn nữa, theo Điều 176 Luật Doanh nghiệp, thành
viên hợp danh của cơng ty hợp danh có quyền trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động kinh doanh của công ty, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của
công ty, do đó tình hình tài chính của cơng ty ln được họ nắm bắt đầu tiên. Vì
vậy, họ phải thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi cơng ty
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn là hồn tồn hợp lý.
2. Một số đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về chủ thể có quyền
và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thứ nhất là bổ sung thêm quy định cho phép chủ nợ có bảo đảm, thành viên của
công ty Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản trong trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh tốn. Bên cạnh đó, pháp luật cần bổ sung quy định để bảo đảm
quyền lợi cho chủ nợ có bảo đảm trong giao dịch bảo đảm với bên thứ ba. Hiện
nay, Luật Phá sản năm 2014 mới chỉ quy định về việc xử lý tài sản có bảo đảm
trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã dùng tài sản của mình đảm bảo với
chủ nợ. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã được bên thứ ba dùng tài sản để
đảm bảo với chủ nợ thì chưa có quy định về việc xử lý tài sản đó. Trong khi
Luật cơng nhận tư cách chủ nợ có đảm bảo khi khoản nợ của một chủ nợ được

bảo đảm với bên thứ ba. Rõ ràng, Luật Phá sản năm 2014 hiện nay đang thiếu
quy định cụ thể về việc giải quyết các nội dung liên quan đến việc xử lý tài sản
10


bảo đảm trong trường hợp khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã được bảo
đảm bằng tài sản của bên thứ ba.
Thứ hai là đặt ra thêm các điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp được
thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, tránh việc họ thực hiện
quyền một cách bừa bãi, gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ ba, Luật Phá sản năm 2014 cần có hướng dẫn cụ thể về cơ chế người lao
động cử đại diện. Luật Phá sản năm 2014 hồn tồn khơng đề cập đến cơ chế cụ
thể rõ ràng về việc người lao động cử đại diện, điều đó làm người lao động khó
định hướng trong việc ủy quyền cho chủ thể tham gia hội nghị chủ nợ. Trong
khi đó, khoản 1 Điều 14 Luật Phá sản năm 2004 có quy định cụ thể về việc
người lao động cử đại diện: “Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau
khi được quá nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành
bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy
mơ lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diên cho người lao động được cử hợp
pháp phải được quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc
tán thành”.
Thứ tư, cần có sự đồng bộ giữa Luật Phá sản năm 2014 và Luật Thi hành án dân
sự năm 2014 về quyền yêu cầu định giá lại của chủ nợ. Theo Luật Phá sản năm
2014, chỉ có chấp hành viên mới có quyền yêu cầu định giá lại, chủ nợ khơng có
quyền u cầu định giá lại tài sản. Tuy nhiên, theo Luật Thi hành án dân sự năm
2014, chủ nợ (với tư cách là người được thi hành án) có quyền yêu cầu việc
định giá lại tài sản. Để không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được thi hành án, tác giả thiết nghĩ, Luật Phá sản năm 2014 cần bổ sung
quyền được yêu cầu định giá lại tài sản của chủ nợ.
Thứ năm, việc giải quyết các vụ việc phá sản có tính chất phức tạp, liên quan

đến nhiều khía cạnh pháp lý khác nhau, nhiều chủ thể khác nhau, do đó, để hiểu
và áp dụng đúng, thống nhất pháp luật phá sản thì cần nâng cao năng lực, trình
11


độ của đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật phá sản như: Các thẩm phán, quản tài
viên… Tòa án nhân dân tối cao cần định kỳ tổ chức các hội thảo chuyên đề,
khóa đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ của thẩm phán, thư ký
Tịa án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; cần có kế hoạch đào tạo
thẩm phán chuyên trách về án kinh tế nói chung và giải quyết các vụ việc phá
sản nói riêng. Cần xây dựng chương trình đạo tạo và cấp chứng chỉ quản tài
viên. Ngoài ra, cần xây dựng một lộ trình để quy định cả sự tham gia của cơ
quan quản lý chuyên ngành như Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước… trong việc yêu cầu mở thủ tục phá sản. Vì đây là những cơ quan
quản lý hoạt động của doanh nghiệp, nên họ sẽ nắm bắt được những nguy cơ có
thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn và u cầu giải thể
trước khi lợi ích của các bên liên quan bị ảnh hưởng nặng nề. Bên cạnh đó cũng
cần tích cực tun truyền phổ biến pháp luật phá sản rộng rãi đến người dân và
doanh nghiệp, hợp tác xã trong cả nước.
KẾT LUẬN
Luật Phá sản 2014 ra đời là một bước tiến lớn của hoạt động lập pháp Việt
Nam. Bên cạnh những điểm kế thừa từ Luật Phá sản 2004, quy định về chủ thể
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong Luật mới cũng có những phát triển
nhất định. Các chủ thể này một mặt được mở rộng hơn, giúp việc bảo vệ quyền
lợi chính đáng của họ được bảo đảm hơn theo đúng tinh thần của pháp Luật Phá
sản. Tuy nhiên, vẫn cịn đó những hạn chế cần phải khắc phục, u cầu cần có
một lộ trình nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung chuyên sâu và toàn diện.

12



1.
2.
3.
4.

Tài liệu tham khảo

Giáo trình Luật Thương mại phần 1, Đại học Luật Hà Nội, 2020
Luật Doanh nghiệp năm 2020
Luật Phá sản năm 2014
ThS. Nguyễn Ngọc Anh (Khoa Pháp luật Kinh tế, Đại học Luật Hà Nội) Thực tiễn thi hành liên quan đến các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật phá sản cịn có những bất cập, cần hoàn thiện, 2018.
/>5. ThS. Trương Thị Quỳnh Trâm, Hoàn thiện các quy định của Luật Phá sản
năm 2014, 2019.
/>
13



×