Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cừ ván thép docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.05 KB, 10 trang )




Cừ ván thép
Cừ ván thép (thuật ngữ tiếng anh là steel sheet pile) hay còn gọi là cọc ván
thép cừ thép, cừ Larssen, cọc bản, là một cấu kiện dạng tấm có các rãnh
khoá (me cừ) để hợp thành một tường chắn khép kín. Nhằm mục đích ngăn
nước và chắn đất trong hầu hết các trường hợp ứng dụng.
Ván cừ bao gồm các mặt cắt thu được bằng cách cán, kéo, gấp nếp – dập
hoặc được tạo hình dáng trong các máy lặn, hoặc bằng cách lắp ráp các bộ
phận đã được cán (ví dụ như bằng sự tán đinh, hàn, hoặc gấp nếp). Những
mặt cắt này có thể được gắn với nhau bằng cách được khoá liên động hoặc
thậm chí bằng cách mang các cạnh dọc được đặt cạnh nhau. Với mục đích
này, ít nhất trên các cạnh dọc, cả hai kiểu đều có các bộ phận nối (ví dụ như
rãnh, bích, khoá liên động).

Nhóm này bao gồm:
(1) Góc ván cừ hoặc các mẩu góc, là những mặt cắt dùng để tạo các góc; với
mục đích này thì sử dụng hoặc là các mặt cắt đã được rèn, hoặc những mặt
cắt đã được cắt dọc theo chiều dài của chúng, những bộ phận thu được bằng
cách đó sau đó được hàn hoặc tán đinh để tạo thành một góc.
(2) Các mặt cắt ván cừ lắp ráp với ba hoặc bốn cạnh để làm các vách ngăn.
(3) Các mặt cắt ván cừ mắc nối mà hình dạng của chúng cho phép chúng sẽ
được sử dụng để nối các dạng tấm cừ khác nhau.
(4) Các cột và đường ống ván cừ mà được dẫn tiếp đất theo cách như thế sao
cho chúng lắp ráp với nhau mà không được khoá liên động bằng lực. Các
đường ống ván cừ được làm gợn sóng (tạo nếp) trên hình dạng. Các cột ván
cừ được làm thành có hai mặt cắt được hàn với nhau.
Ván cừ thường được sử dụng để làm tường trên đất có cát, úng nước hoặc bị
chìm ngập cho các nhà máy cơ khí dân dụng như đập, đê hoặc mương.
Cừ ván thép đã được sử dụng cho mọi kết cấu công trình tạm (làm xong nhổ


lên) cũng như vĩnh cữu (đóng bỏ). Ngày nay, trong lĩnh vực xây dựng, cừ
ván thép được sử dụng ngày càng phổ biến. Từ các công trình thủy công như
cảng, bờ kè, cầu tàu, giếng kín, đê kè chắn sóng, công trình cải tạo dòng
chảy, công trình cầu, đường hầm đến các công trình dân dụng như bãi đậu xe
ngầm, tầng hầm nhà nhiều tầng, nhà công nghiệp, ngăn chống cho các hố
đào nền móng, xử lý nước thải, các đường vượt, hầm ngầm. Cọc ván thép
không chỉ được sử dụng trong các công trình tạm thời mà còn có thể được
xem như một loại vật liệu xây dựng, với những đặc tính riêng biệt, thích
dụng với một số bộ phận chịu lực trong các công trình xây dựng.
Về kích thước, cọc ván thép có bề rộng bản thay đổi từ 400mm đến 750mm.
Sử dụng cọc có bề rộng bản lớn thường đem lại hiệu quả kinh tế hơn so với
cọc có bề rộng bản nhỏ vì cần ít số lượng cọc hơn nếu tính trên cùng một độ
dài tường chắn. Hơn nữa, việc giảm số cọc sử dụng cũng có nghĩa là tiết
kiệm thời gian và chi phí cho khâu hạ cọc, đồng thời làm giảm lượng nước
ngầm chảy qua các rãnh khóa của cọc. Chiều dài cọc ván thép có thể được
chế tạo lên đến 30m tại xưởng, tuy nhiên chiều dài thực tế của cọc thường
được quyết định bởi điều kiện vận chuyển (thông thường từ 9 đến 15m),
riêng cọc dạng hộp gia công ngay tại công trường có thể lên đến 72m.
Lịch sử
Cọc ván thép được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1908 tại Mỹ trong dự án
Black Rock Harbour,tuy nhiên trước đó người Ý đã sử dụng tường cọc bản
bằng gỗ để làm tường vây khi thi công móng mố trụ cầu trong nước. Bên
cạnh gỗ và thép, cọc bản cũng có thể được chế tạo từ nhôm, từ bê tông ứng
lực trước. Tuy nhiên với những ưu điểm vượt trội, cọc ván thép vẫn chiếm tỉ
lệ cao trong nhu cầu sử dụng.
Cho đến nay cọc ván thép được sản xuất với nhiều hình dạng, kích thước
khác nhau với các đặc tính về khả năng chịu lực ngày càng được cải thiện.
Ngoài cọc ván thép có mặt cắt ngang dạng chữ U, Z thông thường còn có
loại mặt cắt ngang Omega (Ω), dạng tấm phẳng (straight web) cho các kết
cấu tường chắn tròn khép kín, dạng hộp (box pile) được cấu thành bởi 2 cọc

U hoặc 4 cọc Z hàn với nhau. Tùy theo mức độ tải trọng tác dụng mà tường
chắn có thể chỉ dùng cọc ván thép hoặc kết hợp sử dụng cọc ván thép với
cọc ống thép (steel pipe pile) hoặc cọc thép hình H (King pile) nhằm tăng
khả năng chịu mômen uốn.
Lịch sử của việc sản xuất cọc ván thép.
Công nghệ cọc ván thép ở Nhật Bản được bắt đầu từ việc sử dụng cọc ván
thép trong các công trình tường chắn đất của toà nhà Misui năm 1930. Sau
đó để khôi phục sau hoả hoạn trong trận động đất “Great Kanto” năm 1923,
một số lượng lớn cọc ván thép từ các nước trên thế giới đã được nhập vào để
khôi phục các công trình cảng, sông một cách nhanh chóng, mở ra một thời
kỳ mới của công nghệ cọc ván thép. Nhân dịp này từ sau năm 1925, hàng
năm có từ 3 đến 4 vạn tấn cọc ván thép được nhập vào. Khối lượng cọc ván
thép nhập vào tiếp tục tăng nhanh đến năm thứ 5 năm SHOWA nhưng đến
năm 1931 do ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế lớn mà khối lượng
cọc ván thép nhập vào giảm đi mạnh mẽ.
Mặt khác với sự hỗ trợ của chính sách ngăn chặn việc nhập khẩu do sự suy
thoái của nền kinh tế và việc cải thiện trao đổi thu chi, từ năm 1929 công ty
thép Yahata của Chính phủ đã thành công trong việc quốc sản hoá cọc ván
thép và năm 1931 lần đầu tiên cán và bán ra được 2500tấn cọc ván thép hệ
Lakawana, từ đó trở đi việc nhập khẩu cọc ván thép gần như là không có. Do
nhận thấy những ưu điểm nổi bật của cọc ván thép, năm 1931 Nhật Bản bắt
đầu sản xuất trong nước tại Hãng “Public Yahata Steel”. Sự phát triển công
nghệ và sử dụng cọc ván thép sau đó rất nhanh chóng không những ở Nhật
Bản mà còn ở nhiều nước khác, ở nhiều loại công trình khác nhau: công
trình giao thông, công trình cảng, bến tàu, công trình sông,…
Hiện nay, hình dạng cọc ván thép được sản xuất ra là hình chữ U hay hình
đường thẳng, ngoài ra nó còn có dạng hình chữ H.
Lịch sử lý thuyết tính toán
Từ năm 1940 đến những năm 50, ở nước ngoài, thành quả nghiên cứu thực
tế và lý thuyết của Terzaghi hay Rowe về cơ bản đã được xác lập trong thời

kỳ này về lý thuyết. Ở Nhật Bản cũng vậy, trải qua một thời gian dài trưởng
thành từ năm 1950 đến những năm 70, công nghệ cọc ván thép đã phát triển
vượt bậc cả về chất lượng và số lượng. Gần đây nó cũng được áp dụng trong
việc giảm tiếng ồn, giảm rung lắc và cũng được áp dụng trong các công trình
ở các thành phố. Cọc ván thép ở Nhật Bản, trải qua hơn 70 năm, đến nay
Nhật Bản trở thành nước có sản lượng cọc ván thép rất lớn trên thế giới, nó
được xuất khẩu sang các nước khác nhiều hơn là ở Nhật Bản. Trong bài này
tác giả sẽ trình bày về sự biến đổi về mặt vật liệu và thi công cuả công nghệ
ván cọc thép ở Nhật Bản cũng như các công nghệ sử dụng cọc ván thép.
Ưu điểm
Có thể liệt kê một số ưu điểm nổi bật của cọc ván thép như sau:
- Khả năng chịu ứng suất động khá cao (cả trong quá trình thi công lẫn trong
quá trình sử dụng).
- Khả năng chịu lực lớn trong khi trọng lượng khá bé.
- Cọc ván thép có thể nối dễ dàng bằng mối nối hàn hoặc bulông nhằm gia
tăng chiều dài.
- Cọc ván thép có thể sử dụng nhiều lần, do đó có hiệu quả về mặt kinh tế.
Nhược điểm
Nhược điểm của cọc ván thép là tính bị ăn mòn trong môi trường làm việc
(khi sử dụng cọc ván thép trong các công trình vĩnh cữu). Tuy nhiên nhược
điểm này hiện nay hoàn toàn có thể khắc phục bằng các phương pháp bảo vệ
như sơn phủ chống ăn mòn, mạ kẽm, chống ăn mòn điện hóa hoặc có thể sử
dụng loại cọc ván thép được chế tạo từ loại thép đặc biệt có tính chống ăn
mòn cao. Ngoài ra, mức độ ăn mòn của cọc ván thép theo thời gian trong các
môi trường khác nhau cũng đã được nghiên cứu và ghi nhận lại. Theo đó,
tùy thuộc vào thời gian phục vụ của công trình được quy định trước, người
thiết kế có thể chọn được loại cọc ván thép với độ dày phù hợp đã xét đến sự
ăn mòn này.
Chế tạo
Cừ ván thép là một cấu kiện xây dựng dạng tấm (ván) được cán (nóng hoặc

nguội) với hệ rãnh khoá liên động (me cừ) ở phần rìa cừ. Rãnh khoá liên
động cho phép các cây cừ độc lập liên kết với nhau hình thành một một
tường chắn khép kín năn chống đất và nước. Cọc ván thép được sản xuất dễ
dàng cho việc vận chuyển, trong nhiều trường hợp mang lại hiệu quả cho
chủ đầu tư một giải pháp nhanh chóng, dài lâu với tuổi thọ vật liệu cao.
Hiện nay cọc ván thép được chế tạo theo hai phương pháp khác nhau:
phương pháp cán nóng và phương pháp dập nguội. Trong phương pháp cán
nóng, một khối thép nóng chảy ban đầu (có dạng như khối lập phương) sẽ
được di chuyển qua một loạt các máy cán để dần dần trở thành dạng cọc ván
thép, phương pháp này cũng giống như phương pháp chế tạo thép hình hay
thép tấm thông thường. Cọc ván thép được chế tạo theo phương pháp này có
dạng mặt cắt ngang rất linh hoạt, độ dày bản cánh và bụng có thể giống hoặc
khác nhau, các vị trí góc có thể dày lên để chống hiện tượng tập trung ứng
suât, rãnh khóa được chế tạo kín khít để hạn chế đến mức thấp nhất khả năng
cho nước chảy qua. Dĩ nhiên với các ưu điểm nổi bật, giá thành của loại cọc
này thông thường cũng lớn. Trong phương pháp dập nguội, một cuộn thép
tấm sẽ được kéo qua một dây chuyền bao gồm nhiều trục cán được sắp xếp
liên tục nhau, mỗi trục cán có chứa các con lăn có thể thay đổi vị trí, nắn
thép tấm từ hình dạng phẳng ban đầu thành dạng gấp khúc như cọc ván thép.
Cọc ván thép được chế tạo theo phương pháp này phải được kiểm tra
nghiêm ngặt khả năng chịu lực cũng như khe hở của rãnh khóa trước khi
xuất xưởng. Giá thành của loại cọc này thông thường rẻ hơn so với phương
pháp cán nóng.
Với khả năng chịu tải trọng động cao, dễ thấy cọc ván thép rất phù hợp cho
các công trình cảng, cầu tàu, đê đập, ngoài áp lực đất còn chịu lực tác dụng
của sóng biển cũng như lực va đập của tàu thuyền khi cặp mạn. Trên thế giới
đã có rất nhiều công trình cảng được thiết kế trong đó cọc ván thép (thường
kết hợp với hệ tường neo và thanh neo) đóng vai trò làm tường chắn, đất
được lấp đầy bên trong và bên trên là kết cấu nền cảng bê tông cốt thép với
móng cọc ống thép hoặc cọc bê tông cốt thép ứng suất trước bên dưới.

Tường cọc thép này cũng được ngàm vào bê tông giống như cọc ống. Hệ
tường neo thông thường cũng sử dụng cọc ván thép nhưng có kích thước và
chiều dài nhỏ hơn so với tường chính.
Ứng dụng
- Với các công trình đường bộ, hầm giao thông đi qua một số địa hình đồi
dốc phức tạp hay men theo bờ sông thì việc sử dụng cọc ván thép để ổn định
mái dốc hay làm bờ bao cũng tỏ ra khá hiệu quả.
- Trong các công trình dân dụng, cọc ván thép cũng có thể được sử dụng để
làm tường tầng hầm trong nhà nhiều tầng hoặc trong các bãi đỗ xe ngầm
thay cho tường bê tông cốt thép. Khi đó, tương tự như phương pháp thi công
topdown, chính cọc ván thép sẽ được hạ xuống trước hết để làm tường vây
chắn đất phục vụ thi công hố đào. Bản thân cọc ván thép sẽ được hàn thép
chờ ở mặt trong để có thể bám dính chắc chắn với bê tông của các dầm biên
được đổ sau này. Trên các rãnh khóa giữa các cọc ván thép sẽ được chèn
bitum để ngăn nước chảy vào tầng hầm hoặc có thể dùng đường hàn liên tục
để ngăn nước (trong trường hợp này nên dùng cọc bản rộng để hạn chế số
lượng các rãnh khóa). Trong thiết kế, cọc ván thép ngoài việc kiểm tra điều
kiện bền chịu tải trọng ngang còn phải kiểm tra điều kiện chống cháy để
chọn chiều dày phù hợp. Bề mặt của cọc ván thép bên trong được sơn phủ để
đáp ứng tính thẩm mỹ đồng thời cũng để bảo vệ chống ăn mòn cho cọc ván
thép.
- Cũng không quên nhắc lại lĩnh vực mà cọc ván thép được sử dụng nhiều
nhất đó là làm tường vây chắn đất hoặc nước khi thi công các hố đào tạm
thời. Ta có thể thấy cọc ván thép được sử dụng khắp mọi nơi: trong thi công
tầng hầm nhà dân dụng, nhà công nghiệp, thi công móng mố trụ cầu, hệ
thống cấp thoát nước ngầm, trạm bơm, bể chứa, kết cấu hạ tầng, thi công
van điều áp kênh mương,…tùy theo độ sâu của hố đào cũng như áp lực
ngang của đất và nước mà cọc ván thép có thể đứng độc lập (sơ đồ công-
xon) hay kết hợp với một hoặc nhiều hệ giằng thép hình (sơ đồ dầm liên
tục). Đa phần hệ giằng được chế tạo từ thép hình I nhằm thuận tiện trong thi

công. Kinh nghiệm chống nước chảy qua các rãnh khoá của cọc ván thép
trong các công trình tạm thời này là sử dụng hỗn hợp xi măng trộn đất sét,
vừa tiết kiệm chi phí lại đạt hiệu quả khá cao (gần như ngăn nước tuyệt đối).
- Rõ ràng cọc ván thép không chỉ đơn thuần là một loại phương tiện phục vụ
thi công các hố đào tạm thời mà còn có thể được xem như là một chủng loại
vật liệu xây dựng được sử dụng vĩnh cữu trong một số công trình xây dựng.
Sản phẩm cọc ván thép được cung cấp trên thị trường cũng rất đa dạng về
hình dáng, kích cỡ (bề rộng bản, độ cao, chiều dày) nên cũng khá thuận tiện
cho việc chọn lựa một sản phẩm phù hợp. Tất nhiên, ứng với một công trình
cụ thể luôn có nhiều giải pháp thiết kế khác nhau sử dụng các loại vật liệu
khác nhau. Và khi đó, việc chọn lựa nên hay không sử dụng cọc ván thép
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện địa hình địa chất, tình trạng
mực nước ngầm, giá thành, điều kiện thi công…Tuy nhiên một điều chắc
chắc là nhà đầu tư càng có nhiều thêm cơ hội chọn lựa sao cho đạt được mục
tiêu của mình.
Cấu tạo các loại cừ ván thép
Thi công
Thi công ép cừ ván thép (steel sheet pile) có rất nhiều biện pháp, nhưng có lẽ
ở VN, thường dùng nhất là ép bằng búa rung.Có 2 loại búa rung: loại dùng
điện (thi công với xe cẩu) và loại thuỷ lực gắn trên máy đào (excavator).Tần
số rung thường trong khoảng từ 20 đến 40 Hz. Lực ly tâm do búa tạo ra có
thể lên đến 4000 kN (tương đương 400 tấn).
Điều cần lưu ý khi thi công là sự cộng hưởng gây ra bởi tần số rung có thể
gây hại đến các công trình lân cận.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×