Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

phân tích nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.35 KB, 82 trang )

Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
1
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
GIỚI THIỆU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1 Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ nhờ sự chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng, mức độ tăng trưởng GDP đạt ở mức
cao, lạm phát tiếp tục giảm … Bên cạnh đó, cùng với sự mở cửa nền kinh tế, các
quan hệ thương mại quốc tế gia tăng đi đôi với hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa cũng ngày một phát triển.
Do hoạt động xuất nhập khẩu gia tăng nhanh chóng nên nhu cầu bảo hiểm đối
với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng ngày càng lớn. Mặt khác, nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó, sự trao đổi, buôn
bán hàng hóa xuất nhập khẩu vẫn được thực hiện chủ yếu bằng đường biển
(khoảng 80% lượng hàng hóa) do những ưu điểm của loại hình vận chuyển này.
Vì thế, việc phát triển và hoàn thiện các vấn để về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một yếu tố quan trọng đối với các
doanh nghiệp bảo hiểm trong điều kiện thị trường trong nước và quốc tế có sự
cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đã được ra đời, triển khai từ rất
sớm và phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay vẫn
còn nhiều khó khăn và nhiều vấn đề cần phải giải quyết đặc biệt là vấn đề hiệu
quả kinh doanh của nghiệp vụ.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex chi nhánh
Cần Thơ, được sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn và các cán bộ trong công
ty, em đã chọn đề tài “Phân tích nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu


vận chuyển bằng đường biển tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” để làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.



Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
2
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở lý thuyết chung phân tích hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển của công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex chi nhánh Cần Thơ (PJICO Cần Thơ) để đánh giá được thực trạng kết
quả đạt được, những thuận lợi, khó khăn, cơ hội của công ty Petrolimex trong
những năm qua. Phân tích các yếu tố tác động chủ yếu đến hiệu quả kinh doanh,
từ đó đề ra các giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty
một cách an toàn và bền vững
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Mục tiêu 1: Đánh giá sơ lược tình hình hoạt động kinh doanh của PJICO
Cần Thơ từ năm 2009 đến 2012.
- Mục tiêu 2: Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của PJICO Cần Thơ
qua 4 năm 2009 – 2012.
- Mục tiêu 3: Đưa ra đề xuất hoặc giải pháp phát triển cho nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trong thời gian tới.
1.3 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Không gian: Đề tài được thực hiện tại công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex chi nhánh Cần Thơ. Số liệu thứ cấp do phòng kế toán cung cấp.
- Thời gian: Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ bảo

hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của PJICO Cần Thơ
qua 4 năm, từ năm 2009 đến năm 2012.
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm của công ty PJICO rất đa dạng nhưng do
hạn chế về thời gian, và kinh nghiệm thực tế nên đề tài chỉ nghiên cứu về nghiệp
vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trong 4 năm
gần đây.




Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
3
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
1.3.2 Lược khảo tài liệu
(1) Bùi Đăng Khoa, “Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo
hiểm Petrolimex”. Đề tài nêu lên một số vấn đề và giải pháp tích cực nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển.
(2) Lương Minh Tuyết, “Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng
hóa tại Bảo Minh Hà Nội”. Đề tài phân tích tình hình khai thác và triển khai
kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa tại Công ty Bảo Minh Hà Nội, từ đó
đưa ra giải pháp và phương hướng, chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh nghiệp vụ.
(3) Phạm Hiện Hồng vũ, “Hiệu quả kinh doanh tại công ty cổ phần bảo
hiểm Petrolimex” Đề tài lý luận chung về hiệu quả kinh doanh và phân tích hiệu
quả kinh doanh, đánh giá thực trạng hoạt động của công ty PJICO qua đó đề ra
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty PJICO và định hướng

kế hoạch phát triển tới năm 2015.
(4) Trần thu hồng “Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác
giải quyết khiếu nại trong bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex (PJICO)” Đề tài nêu lên những lý thuyết cơ bản về việc giải quyết
khiếu nại trong bảo hiểm phi nhân thọ, thực trạng giải quyết khiếu nại các nghiệp
vụ bảo hiểm phi nhân thọ tại PJICO. Qua đó nêu ra một số kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng công tác giải quyết các khiếu nại các nghiệp vụ bảo hiểm tại
PIJICO.






Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
4
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1 Khái niệm về bảo hiểm
Trong thực tế cuộc sống hàng ngày, thuật ngữ “Bảo hiểm” thường được sử
dụng rộng rãi. Theo các nhà nghiên cứu lý thuyết bảo hiểm cho rằng có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về bảo hiểm tuỳ theo giác độ phân tích và quan điểm của
mỗi người.
- Về phương diện pháp lí: Bảo hiểm là một hợp đồng được ký kết, trong đó
bên (người bảo hiểm) đồng ý nhận một số tiền được tính tóan trước (gọi là phí
bảo hiểm) để bồi thường cho người khác (người được bảo hiểm) về những tổn
thất người ấy phải gánh chịu do hậu quả của những sự cố gây ra.


- Đứng về phía người được bảo hiểm: Bảo hiểm được định nghĩa là phương
tiện để người được bảo hiểm chỉ phải gánh chịu một phí tổn nhỏ và nhất định
thay vì phải gánh chịu một tổn thất lớn, nhưng chưa chắc xảy ra, qua một số sắp
xếp để một số người may mắn không bị tổn thất giúp đỡ, bù đấp cho số ít người
không may nắm bị tổn thất.
- Đứng trên giác độ kinh tế: bảo hiểm là một hệ thống các giải pháp kinh tế
huy động sự đóng góp các tổ chức, cá nhân một số tiền nhất định dưới dạng phí
bảo hiểm hình thành quỹ bảo hiểm nhằm chi trả hay bù đắp cho các đối tượng
đóng góp khi có sự cố xảy ra để đảm bảo cho đời sống được thường xuyên và
liên tục.
- Về phía nhà kinh doanh bảo hiểm: bảo hiểm là một hệ thống trong đó một
số đông người đồng ý đóng góp một khoản tiền nhỏ cho Công ty bảo hiểm hình
thành một quỹ bảo hiểm để đổi lấy một sự an toàn và chia sẽ chi phí cho một tổn
thất mà có khả năng một cá nhân trong số họ phải gánh chịu đơn lẻ. Nhiệm vụ
của các nhà bảo hiểm là nhận lấy rủi ro, phân tán tổn thất có thể xảy ra và quản lý
tốt quỹ bảo hiểm. Như vậy bản chất sâu xa của bảo hiểm là phục vụ tích cực cho
mục tiêu an toàn của nền kinh tế xã hội, biểu hiện các mối quan hệ kinh tế và xã
hội phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái
giá trị, thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm tập trung.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
5
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
2.1.2 Tổng quan về bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
2.1.2.1 Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
* Trên thế giới
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng với

sự phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Khoảng thế kỷ V trước công nguyên,
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển người ta biết tránh
tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán chuyên chở trên nhiều
thuyền khác nhau. Đây có thể nói là hình thức sơ khai của bảo hiểm hàng hoá.
Đến thế kỷ thứ XII thương mại và giao lưu hàng hoá bằng đường biển giữa các
nước phát triển. Nhiều tổn thất lớn xảy ra trên biển vì khối lượng và giá trị của
hàng hoá ngày càng tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cướp biển gây ra làm
cho giới thương nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng
dẫn tới phá sản họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp
phải rủi ro gây ra tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu hành
trình may mắn thành công thì ngoài vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản
tiền lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao và nặng nề này có thể coi là hình thức
ban đầu của phí bảo hiểm. Năm 1182 ở Lomborde - Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm
hàng hoá đã ra đời, trong đó người bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực
hiện nội dung đã ghi trong đơn. Từ đó hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm đã ra
đời với tư cách như là một nghề riêng độc lập. Năm 1468 tại Venise nước Ý đạo
luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã ra đời. Sự phát triển của thương mại hàng
hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của bảo hiểm hàng hải và hàng
loạt các thể lệ, công ước, hiệp ước quốc tế liên quan đến thương mại và hàng hải
như: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của Lloyd's 1776 và Luật bảo hiểm của Anh năm
1906 (MiA - Marine insurance Act 1906), công ước Brucxen năm 1924, Hague
Visby 1986, Hămbua năm 1978, Incoterms 1953,1980,1990,2000 Các điều
khoản về bảo hiểm hàng hải cũng ra đời và ngày càng hoàn thiện. Nói về bảo
hiểm hàng hải không thể không nói tới nước Anh và Lloyd's. Nước Anh là một
trong những nước có sự phát triển hiện đại về thương mại và hàng hải lớn nhất
trên thế giới. Có thể nói lịch sử phát triển của ngành hàng hải và thương mại thế
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
6
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy

giới gắn liền với sự phát triển của nước Anh, thế kỷ XVII nước Anh đã có nền
ngoại thương phát triển với đội tàu buôn mạnh nhất thế giới và trở thành trung
tâm thương mại và hàng hải của thế giới. Do đó nước Anh cũng là nước sớm có
những nguyên tắc, thể lệ hàng hải và bảo hiểm hàng hải. Năm 1779, các hội viên
của Lloyd's đã thu thập tất cả các nguyên tắc bảo hiểm hàng hải và quy thành một
hợp đồng chung gọi là hợp đồng Lloyd's. Hợp đồng này đã được Quốc hội Anh
thông qua và được sử dụng ở nhiều nước cho đến 1982.Từ ngày 1/1/1982, đơn
bảo hiểm hàng hải mẫu mới đã được Hiệp hội bảo hiểm London thông qua và
được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. Không chỉ riêng bảo
hiểm hàng hải, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, các loại
hình bảo hiểm cũng phát triển hết sức mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, văn hoá và giao lưu quốc tế.
* Tại Việt Nam
Thời kỳ đầu, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài
chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng công
ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt). Công ty Bảo hiểm Việt Nam được
thành lập ngày 17/12/1964 theo Quyết định số 179/CP và chính thức đi vào hoạt
động ngày 15/1/1965. Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu cho công ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trường
hợp mua theo giá FOB, CF và bán theo giá CIF với mục đích là học hỏi kinh
nghiệm. Từ năm 1965 - 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm đối
ngoại trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo Việt có
quan hệ tái bảo hiểm với Liên Xô (cũ), Ba Lan, Triều Tiên. Trước đó Bảo Việt
chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với Trung Quốc. Từ năm 1975 - 1992 Bảo Việt đã
triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và mở rộng phạm vi hoạt động. Từ chỗ chỉ có
quan hệ tái bảo hiểm với một số nước xã hội chủ nghĩa cũ thì trong thời kỳ này
Bảo Việt đã có quan hệ đại lý, giám định, tái bảo hiểm với hơn 40 nước trên thế
giới. Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt động, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc
chung về Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Gần đây, để phù hợp
với sự phát triển thương mại và ngành hàng hải của đất nước, Bộ Tài chính đã

ban hành quy tắc chung mới - Quy tắc chung 1990 (QTC-1990) cùng với Luật
Hàng hải Việt Nam. Quy tắc chung này là cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh các
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
7
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
vấn đề về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ,
xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn đầu
tư nước ngoài thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một đòi
hỏi thiết thực. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách trên, Nghị định 100/CP của chính
phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành ngày 18/12/1993 đã tạo
điều kiện cho nhiều công ty bảo hiểm ra đời và phát triển. Hiện nay với sự góp
mặt của 10 công ty bảo hiểm gốc trong cả nước, thị trường bảo hiểm Việt Nam
đã bắt đầu phát triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền thống mà các nhà
bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến lược, sách
lược giành thắng lợi trong cạnh tranh.
2.1.3 Khái niệm, sự cần thiết, vai trò của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển
2.1.3.1 Khái niệm
Ta có thể định nghĩa: Bảo hiểm chính là một sự cam kết bồi thường của
người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối
tượng bảo hiểm do những rủi ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện người được
bảo hiểm góp cho người bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Trong
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thì người được bảo hiểm có thể là
người mua hoặc người bán tuỳ theo điều kiện thương mại và điều kiện cơ sở giao
hàng quy định trong hợp đồng mua bán mà hai bên đã thoả thuận với nhau. Đối
tượng bảo hiểm ở đây chính là hàng hoá đã được mua bảo hiểm.
2.1.3.2 Sự cần thiết

Ngành bảo hiểm đã ra đời do có sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con
người không thể khống chế được. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có các
khoản bù đắp thiệt hại kịp thời của các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro
mang tính thảm hoạ gây ra tổn thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất nhiều
khó khăn về tài chính trong việc khắc phục hậu quả do các rủi ro đó gây ra. Vì
vậy, sự ra đời và việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển trở thành một nhu cầu rất cần thiết và nó có những tác
dụng sau:
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
8
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cường
bảo quản kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế
quốc dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CF, xuất theo giá CIF, CIP
sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nước với nước ngoài.
Nhờ có hoạt động bảo hiểm trong nước các chủ hàng không phải mua bảo
hiểm ở nước ngoài, nói cách khác là không phải xuất khẩu vô hình. Thứ ba, khi
các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ được bồi thường một số tiền nhất định
giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi bồi thường của các
công ty hàng năm là rất lớn hiếm khoảng 60%-80% doanh thu phí bảo hiểm.
Thứ tư, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành
Nguyên tắc thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hoá
xuất nhập khẩu gặp rủi ro gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ được công ty bảo
hiểm giúp đỡ về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có
liên quan.
2.1.3.3 Vai trò
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được

chuyên chở là rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét :
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều
quốc gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp
áp tải được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm
cho hàng hoá. Ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người
được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá
do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ,
mất cắp, cướp biển, bão, lốc, sóng thần vượt quá sự kiểm soát của con người.
Hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt
ở những nước quần đảo như Anh, Singapore, Nhật, Hồng Kông do đó phải
tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
9
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Ba là, theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn
thất của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường
biển, rất nhiểu rủi ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các
công ước quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người
chuyên chở (Hague, Hague Visby, Hamburg ).Vì vậy các nhà kinh doanh phải
tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị cao,
những vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt
hại do các rủi ro có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
trở thành một nhu cầu cần thiết.
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó
việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển đã trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương.

Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong
thương mại quốc tế.
2.1.4 Một số vấn đề chung về phân tích hoạt động kinh doanh
2.1.4.1 Khái niệm phân tích hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là hoạt động bao gồm tất cả các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tuân thủ
theo các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa và chịu ảnh hưởng bởi sự tác
động của các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Phân tích hoạt động
kinh doanh là việc đi sâu nghiên cứu theo yêu cầu của hoạt động quản lý kinh
doanh căn cứ vào tài liệu hạch toán và các thông tin kinh tế. Bằng những phương
pháp riêng kết hợp với những phương pháp kĩ thuật khác nhằm đến việc phân
tích, đánh giá tình hình kinh doanh để thấy được chất lượng hoạt động, nguồn
năng lực sản xuất tiềm tàng. Trên cơ sở đó đề ra các phương án và giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp.




Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
10
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
2.1.4.2 Vai trò của phân tích hoạt động kinh doanh
* Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ để phát triển những khả năng
tiềm ẩn trong kinh doanh và còn là công cụ để cải tiến cơ chế quản lý trong kinh
doanh.
Bất kì hoạt động kinh doanh trong các điều kiện khác nhau như thế nào đi
nữa cũng còn những tiềm ẩn, còn những khả năng tiềm tàng chưa được phát hiện,
chỉ thông qua phân tích hoạt động doanh nghiệp mới phát hiện được. Từ đó ta sẽ

có cách khai thác để mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, thông qua phân tích hoạt
động doanh nghiệp ta mới thấy rõ những nguyên nhân và nguồn gốc của các vấn
đề phát sinh từ đó có những giải pháp thích hợp cải tiến trong hoạt động quản lý
để mang lại hiệu quả cao hơn.
* Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ cung cấp thông tin cho các
nhà quản trị doanh nghiệp để điều hành hoạt động kinh doanh.
Trong điều kiện hoạt động kinh doanh đơn giản với quy mô nhỏ, nhu cầu
thông tin cho các nhà quản lý chưa nhiều thì quá trình phân tích cũng được tiến
hành đơn giản, có thể được thực hiện ngay trong công tác hạch toán. Khi hoạt
động kinh doanh ngày càng phát triển với quy mô lớn, nhu cầu thông tin cho các
nhà quản lý ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp. Những thông tin có giá trị và
thích hợp cần thiết này thường không có sẵn trong các báo cáo tài chính hoặc
trong bất cứ tài liệu nào ở doanh nghiệp. Để có được những thông tin này phải
thông qua quá trình phân
tích, vì vậy phân tích hoạt động kinh doanh hình thành và phát triển không
ngừng.
* Phân tích hoạt động kinh doanh là cơ sở quan trọng để có thể đề ra các
quyết định kinh doanh.
Thông qua các tài liệu phân tích cho phép các nhà doanh nghiệp nhận thức
đúng đắn về khả năng, mặt mạnh cũng như mặt yếu của doanh nghiệp mình. Dựa
vào cơ sở đó để doanh nghiệp đưa ra các quyết định chính xác cho các mục tiêu,
hiến lược kinh doanh. Do đó, người ta xem phân tích như là một hoạt động thực
tiễn, bởi vì phân tích hoạt động kinh doanh luôn đi trước quyết định và là cơ sở
cho các quyết định kinh doanh. Phân tích hoạt động kinh doanh như một ngành
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
11
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
khoa học, nó nghiên cứu các phương pháp có hệ thống và tìm ra các giải pháp áp
dụng chúng vào mỗi doanh nghiệp.

* Phân tích hoạt động kinh doanh là biện pháp quan trọng để phòng rủi ro
trong kinh doanh.
Một doanh nghiệp hoạt động đều bị ảnh hưởng bởi các điều kiện bên trong
và bên ngoài của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài việc phân tích các điều kiện bên
trong doanh nghiệp như về tài chính, lao động, vật tư,… doanh nghiệp còn quan
tâm phân tích các điều kiện tác động ở bên ngoài như khách hàng, thị trường, đối
thủ cạnh tranh… Trên cơ sở phân tích trên, doanh nghiệp dự đoán được các rủi ro
trong kinh doanh có thể xảy ra và có các phương án phòng ngừa trước khi chúng
xảy ra. Để có những dự đoán chính xác thì doanh nghiệp phải thường xuyên phân
tích hoạt động kinh doanh. Phân tích dựa trên các tài liệu có được thì doanh
nghiệp có thể dự đoán các điều kiện kinh doanh trong thời gian sắp tới, từ đó đề
ra các chiến lược kinh doanh thật phù hợp.
2.1.4.3 Đối tượng và mục đích của phân tích hoạt động kinh doanh
* Đối tượng:
Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình và kết quả hoạt
động kinh doanh cùng với sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng được biểu hiện
thông qua các chỉ tiêu kinh tế. Phân tích nhằm nghiên cứu quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Các kết quả do hoạt động kinh doanh mang lại, có
thể là kết quả của quá khứ hoặc các kết quả dự kiến có thể đạt được trong tương
lai. Dựa trên kết quả phân tích đó để ra các quyết định quản trị kịp thời trước mắt
- ngắn hạn hoặc xây dựng kế hoạch chiến lược - dài hạn. Kết quả hoạt động kinh
doanh mà phân tích nghiên cứu có thể là kết quả tổng hợp của nhiều quá trình
hình thành, do đó kết quả phải là riêng biệt và đạt được trong khoảng thời gian
nhất định. Các kết quả hoạt động kinh doanh phải được định hướng theo các mục
tiêu trong kinh doanh. Quá trình định hướng này phải được lượng hóa cụ thể
thành các chỉ tiêu kinh tế và phân tích cần hướng đến các kết quả của các chỉ tiêu
để đánh giá. Các chỉ tiêu kinh tế phải được xây dựng hoàn chỉnh và không ngừng
được hoàn thiện.
* Mục đích:
Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
12
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Mục đích cuối cùng của phân tích hoạt động kinh doanh là đúc kết quá trình
và kết quả hoạt động kinh doanh thành quy luật để nhận thức hiện tại và nhắm
đến tương lai cho tất cả các mặt hoạt động của một doanh nghiệp.
2.1.4.4 Nội dung của phân tích hoạt động kinh doanh
Nội dung của phân tích hoạt động kinh doanh là đánh giá các quá trình
hướng đến kết quả hoạt động kinh doanh với tác động của các yếu tố ảnh hưởng
được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế. Phân tích hoạt động kinh doanh
cần xác định các đặc trưng về mặt lượng của các giai đoạn, các quá trình kinh
doanh (số lượng, kết cấu, quan hệ, tỷ lệ…) nhằm xác định xu hướng và nhịp độ
phát triển, xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của các quá
trình kinh doanh, tính chất và trình độ chặt chẽ của mối lien hệ giữa kết quả kinh
doanh với các điều kiện sản xuất kinh doanh. Phân tích kinh doanh không chỉ
dừng lại ở việc đánh giá kết quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu kinh tế mà
còn đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh biểu hiện
trên các chỉ tiêu đó. Các nhân tố ảnh hưởng có thể là nhân tố chủ quan hoặc
khách quan.
2.1.5 Khái niệm doanh thu, chi phí, lợi nhuận
2.1.5.1 Doanh thu
Bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là một loại hình kinh doanh đặc biệt
nên phạm vi hoạt động kinh doanh của DNBH không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ
của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy, hoạt động của DNBH có thể
được xếp thành 3 loại:
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
- Hoạt động đầu tư tài chính.
- Hoạt động khác.
Theo đó, doanh thu của DNBH là doanh thu từ hoạt động bán sản phẩm bảo
hiểm và cung cấp dịch vụ, tiền lãi từ hoạt động đầu tư và các khoản thu nhập

khác ngoài các hoạt động bán sản phẩm bảo hiểm và đầu tư. Tuy nhiên, bởi vì
loại hình của công ty tôi đang phân tích là công ty cổ phần và là đơn vị phụ thuộc
của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Petrolimex nên PJICO Cần Thơ chỉ hoạt
động kinh doanh bảo hiểm.
* Doanh thu kinh doanh bảo hiểm:
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
13
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Doanh thu kinh doanh bảo hiểm là toàn bộ các khoản tiền thu không bao
gồm thuế giá trị gia tăng (GTGT) từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm và cung cấp
dịch vụ bảo hiểm.
Doanh thu kinh doanh bảo hiểm bao gồm các khoản thu sau:
- Tiền thu phí bảo hiểm gốc là toàn bộ phí bảo hiểm thu từ các hợp đồng
bảo hiểm đã ký kết.
- Tiền thu nhận tái bảo hiểm là toàn bộ tiền phí nhận tái bảo hiểm thu từ các
hợp đồng tái bảo hiểm.
- Tiền thu nhượng tái bảo hiểm là toàn bộ các khoản tiền thu về hoa hồng
nhượng tái và các khoản thu khác từ hợp đồng tái bảo hiểm.
- Tiền thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ khác là các khoản tiền thu về dịch
vụ đại lý giám định, tư vấn, đại lý xét bồi thường và đòi với người thứ ba, xử lý
hàng đã bồi thường tổn thất toàn bộ.
2.1.5.2 Chi phí
Như đã phân tích ở trên thì DNBH phải bỏ ra những khoản chi phí cho ba
loại hoạt động là:
- Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
- Chi phí hoạt động tài chính.
- Chi phí hoạt động khác.
Theo tính chất hoạt động của PJICO Cần Thơ nên chỉ có chi phí hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.

* Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là toàn bộ các khoản chi tiền, khoản
trích nảy sinh trong quy trình hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm và
tái bảo hiểm của DNBH. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm: chi
phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp.
- Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm:
Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm là các khoản chi bằng tiền và khoản
trích để trực tiếp thực hiện sản xuất dịch vụ bảo hiểm, tái bảo hiểm trong kỳ kinh
doanh của DNBH.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
14
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Theo mục đích và công dụng của chi phí, chi phí trực tiếp kinh doanh bảo
hiểm bao gồm: chi bồi thường trong bảo hiểm phi nhân thọ, chi trả tiền bảo hiểm
trong bảo hiểm nhân thọ, chi giám định, chi hoa hồng, chi trích lập dự phòng kỹ
thuật, chi xử lý hàng bồi thường 100%, chi đòi người thứ ba, chi bồi thường trách
nhiệm nhận tái bảo hiểm và chi phí để phòng hạn chế tổn thất.
- Chi phí bán hàng trong bảo hiểm:
Chi phí bán hàng trong bảo hiểm là những khoản chi ra trong quá trình bán
các sản phẩm bảo hiểm. Chi phí bán hàng trong bảo hiểm bao gồm: chi phí nhân
viên bán hàng, chi quảng cáo thương mại hóa sản phẩm bảo hiểm, chi giao dịch,
chi khấu hao tài sản cố định dùng trong các bộ phận bán hàng, chi phí dịch vụ
mua ngoài khác. Đối với nhiều công ty, họ sẽ đưa chi phí bán hàng vào chung
với chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp:
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí cho việc quản lý điều
hành, quản lý kinh doanh chung, quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản

lý doanh nghiệp bao gồm: chi phí nhân viên quản lý; chi phí vật tư quản lý; chi
phí đồ dùng văn phòng; chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý; chi
trích dự phòng giảm giá hàng hóa tồn kho, nợ phải thu khó đòi; chi phí dịch vụ
mua ngoài; chi phí bằng tiền khác; thuế và các khoản phí, lệ phí, lãi vay,…
Tóm lại, chi phí của doanh nghiệp là tất cả những chi phí phát sinh gắn liền
với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, việc nhận định và phân loại chi
phí là rất cần thiết để tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, chi phí
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn đạt lợi nhuận cao thì
một trong những biện pháp chủ yếu là giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Do đó,
vấn đề được đặt ra là làm sao kiểm soát được các khoản chi phí. Cho nên các nhà
quản lý cần phải nhận diện, phân tích các hoạt động sinh ra chi phí để có thể
quản lý chi phí; từ đó có những quyết định đúng đắn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.5.3 Lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp, hiểu một cách
đơn giản là một khoản tiền dôi ra giữa tổng thu và tổng chi trong hoạt động của
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
15
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
doanh nghiệp hoặc có thể hiểu là phần dôi ra của một hoạt động sau khi đã trừ đi
mọi chi phí dùng cho hoạt động đó. Lợi nhuận kinh doanh của DNBH bao gồm
lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động tài chính và hoạt động
khác. Tuy nhiên, đối với PJICO Cần Thơ chỉ có một lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
* Lợi nhuận hoạt động kinh doanh bảo hiểm là số chênh lệch giữa doanh
thu bảo hiểm (doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm) với chi phí trực
tiếp kinh doanh bảo hiểm, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
trong kỳ kế toán.









Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh kết quả
kinh tế mà doanh nghiệp đạt được từ các hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận cũng
là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác, nhằm đánh giá hiệu quả của các
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá hiệu quả sử dụng các
yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các nhà quản
lý rất quan tâm đến chỉ tiêu này nhằm nâng cao hiệu quả lợi nhuận của doanh
nghiệp. Trong cơ chế thị trường phân tích các nhân tố bên trong và bên ngoài ảnh
hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận là cơ sở để đưa ra các quyết định nhanh chóng và
chính xác cho việc kinh doanh, để thích ứng với thị trường.
2.1.6 Phân tích các chỉ tiêu tài chính
2.1.6.1 Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
* Khả năng thanh toán hiện thời hay tỷ lệ lưu động (Rc – Current Ratio)

Lợi nhuận của
hoạt động kinh
doanh

Doanh thu bán
hàng thuần
Chi phí trực
tiếp kinh
doanh bảo
hi

ểm

Chi phí quản
lý doanh
nghiệp
=

-

Doanh thu
bán
hàng thuần
Doanh thu
bán hàng
Các khoản
làm giảm
doanh thu
=

-

-

Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
16
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Tỷ lệ này thể hiện cứ một đồng nợ ngắn hạn thì doanh nghiệp có bao
nhiêu đồng tài sản lưu động để đảm bảo thanh toán. Tỷ lệ này càng lớn thì khả
năng trả nơ ngắn hạn của doanh nghiệp càng cao. Nếu Rc < 1, điều này chứng tỏ

doanh nghiệp khó khăn trong việc thanh toán nợ. Tuy nhiên, nếu tỷ số này quá
lớn, chứng tỏ tiền đã tồn đọng nhiều ở tài sản lưu động , có nghĩa là doanh
nghiệp sử dụng vốn không hiệu quả. Nếu vốn tập trung nhiều ở khoản đầu tư
ngắn hạn thì có thể hợp lý. Nếu vốn tập trung ở khoản phải thu thì doanh nghiệp
đã bị chiếm dụng vốn. Đối với kinh doanh bảo hiểm, giá trị hàng tồn kho không
đáng kể, không ảnh hưởng gì đến tính thanh khoản của doanh nghiệp. Do đó tỷ lệ
Rc cũng chính la tỷ lệ thanh toán nhanh hay tỷ lệ linh hoạt (Rq – Quick Ratio).
* Tỷ lệ phải thu phải trả (R
t
)

Tỷ số này thể hiện việc chiếm dụng vốn hoặc bị chiếm dụng vốn của
doanh nghiệp. Nếu tỷ số này càng nhỏ, thể hiện phần doanh nghiệp chiếm dụng
vốn nhiều. Tuy nhiên, do đặc thù của kinh doanh bảo hiểm có các quỹ dự trữ
nghiệp vụ, đặc biệt là quỹ dự trữ dao động lớn được tích tụ nhiều năm nên càng
ngày càng lớn. Để xem xét tình trạng chiếm dụng vốn, ta phải loại trừ các quỹ dự
trữ nghiệp vụ.
* Tỷ số chiếm dụng vốn

Tỷ số này chủ yếu để đánh giá công nợ phí bảo hiểm từ khách hàng.
2.1.6.2 Chỉ tiêu về sử dụng vốn
* Tỷ suất đầu tư chung (R
l1
)

Tỷ suất này cho biết tỷ lệ vốn cố định và đầu tư dài hạn chiếm bao nhiêu
trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nếu tỷ lệ
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
17

SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
này lớn hơn 0,5 thể hiện khả năn linh hoạt trong thanh toán kém, doanh nghiệp
đã dồn quá nhiều cho TSCĐ và đầu tư dài hạn.
*Tỷ suất tự tài trợ

Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, tỷ suất này từ 0,5 trở lên thể hiện doanh nghiệp
đủ vốn tự tài trợ cho hoạt động của mình.
2.1.6.3 Phân tích chỉ tiêu sinh lợi
a. Lợi nhuận trên tài sản (ROA)
Chỉ tiêu sinh lợi được xác định bằng công thức

Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, nó phản ánh
cứ một đồng vốn chủ sở hữu dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra
được bao nhiêu đồng về lợi nhuận. Tỷ số này càng cao càng tốt.
c. Lợi nhuận trên tổng vốn sở hữu (ROE)
Tỷ số này đo lường hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của một doanh
nghiệp để tạo ra thu nhập và lãi cho các cổ đông cổ phần thường. nói các khác nó
đo lường thu thập trên một đồng vốn chủ sở hữu được đưa và sản xuất kinh
doanh, hay còn gọi là mức hoàn vốn đầu tư cho vốn chủ sở hữu.

Khi tính chỉ tiêu này cần lưu ý: Vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp chính là
giá trị ròng của doanh nghiệp, thường được xác định bằng giá trị thị trường hoặc
đơn giản lấy bằng giá trị sổ sách ( tổng tài sản trừ đi tổng nợ).





Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh

18
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
2.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Đề tài thực hiện phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ các biểu bảng báo
cáo tài chình hằng năm của PJICO Cần Thơ.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua 4 năm 2009 – 2012
+ Bảng báo cáo thông kê doanh số, bảng cân đối kế toán, vv
Đồng thời, thu thập một số thông tin từ tạp chí, từ nguồn internet của công
ty để phục vụ thêm cho việc phân tích.
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu
Phương pháp phân thích số liệu chủ yếu được sử dụng trong đề tài này là
phương pháp so sánh số tương đối và tuyệt đối qua các năm.
2.2.2.1 Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp xem xét một chỉ tiêu phân tích bằng cách dựa trên việc
so sánh với một chỉ tiêu cơ sở (chỉ tiêu gốc). Đây là phương pháp đơn giản và
được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động
của chỉ tiêu phân tích.
Mục tiêu sử dụng phương pháp so sánh:
- Ta so sánh theo chiều ngang các khoản mục liên qua tới doanh thu, chi
phí, lợi nhuận trong bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Theo chiều dọc
ta so sánh các khoảng mục trên doanh thu.
- Tổng hợp các kết quả phân tích được để tìm ra những hạn chế và đề ra
giải pháp khắc phục.
- Phương pháp so sánh số tuyệt đối: là hiệu số của chỉ tiêu kinh tế kỳ phân
tích và chỉ tiêu kinh tế kỳ cơ sở.
∆F = F
t
- F
0


Trong đó: F
t
là chỉ tiêu kinh tế ở kỳ phân tích
F0 là chỉ tiêu kinh tế ở kỳ gốc
- Phương pháp so sánh số tương đối: là tỷ lệ phần trăm của chỉ tiêu kỳ
phân tích với chỉ tiêu gốc để thể hiện mức độ hoàn thành hoặc tỷ lệ số chênh lệch
tuyệt đối so với chỉ tiêu gốc để nói lên tốc độ tăng trưởng hay thể hiện chênh lệch
về tỷ trọng của từng bộ phận chiếm trong tổng số giữa kỳ phân tích với kỳ gốc
của chỉ tiêu phân tích, nó phản ánh xu hướng biến động bên trong của chỉ tiêu.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
19
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
∆F= (F
t
/F
0
)* 100
2.2.2.2. Phương pháp thay thế liên hoàn.
Phương pháp thay thế liên hoàn:
* Khái niệm:
Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp xác định mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu phân tích (đối tượng phân
tích) bằng cách cố định các nhân tố khác trong mỗi lần thay thế.
* Đặc điểm:
- Muốn xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó thì chỉ có nhân tố
đó được biến đổi, còn các nhân tố khác được cố định lại.
- Các nhân tố phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định, nhân tố số
lượng sắp trước, nhân tố chất lượng sắp sau. Xác định ảnh hưởng của nhân tố số

lượng trước, chất lượng sau.
- Lần lượt đem số thực tế vào thay cho số kế hoạch của từng nhân tố, lấy
kết quả thay thế lần sau so với kết quả thay thế lần trước sẽ được mức độ ảnh
hưởng của nhân tố vừa biến đổi, các lần thay thế hình thành một mối quan hệ liên
hoàn. Tổng đại số mức độ ảnh hưởng của các nhân tố phải bằng đúng đối tượng
phân tích.
Giả sử một chỉ tiêu kinh tế Q bao gồm có 4 nhân tố ảnh hưởng là a, b, c.
Các nhân tố này hình thành chỉ tiêu bằng 1 phương trình kinh tế như sau:
Q = a x b x c
Đặt Q
1
: kết quả kỳ phân tích, Q
1
= a
1
x b
1
x c
1
.
Q
0
: Chỉ tiêu kỳ kế hoạch, Q
0
= a
0
x b
0
x c
0

.
∆ Q
1
– Q
0
= ∆ Q: mức chênh lệch giữa thực hiện so với kế hoạch, là đối
tượng phân tích.
∆ Q =Q
1
– Q
0
= a
1
b
1
c
1
– a
0
b
0
c
0

Thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn:
● Thay thế bước 1 (cho nhân tố a): a
0
b
0
c

0
được thay thế bằng a
1
b
0
c
0

Mức độ ảnh hưởng của nhân tố “a” sẽ là: ∆ a = a
1
b
0
c
0
– a
0
b
0
c
0

● Thay thế bước 2 (cho nhân tố b): a
1
b
0
c
0
được thay thế bằng a
1
b

1
c
0

Mức độ ảnh hưởng của nhân tố “b” sẽ là: ∆ b = a
1
b
1
c
0
– a
1
b
0
c
0

● Thay thế bước 3 (cho nhân tố c): a
1
b
1
c
0
được thay thế bằng a
1
b
1
c
1


Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
20
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Mức độ ảnh hưởng của nhân tố “c” sẽ là: ∆ c = a
1
b
1
c
1
– a
1
b
1
c
0

Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, ta có:
∆ a + ∆ b + ∆ c = (a
1
b
0
c
0
– a
0
b
0
c
0

) + (a
1
b
1
c
0
– a
1
b
0
c
0
) + (a
1
b
1
c
1
– a
1
b
1
c
0
)
= a
1
b
1
c

1
– a
0
b
0
c
0
= ∆ Q: đối tượng phân tích
Trong đó: Nhân tố đã thay ở bước trước phải được giữ nguyên cho cácbước
thay thế sau.
























Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
21
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
CHƯƠNG 3

GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM
PETROLIMEX
CHI NHÁNH CẦN THƠ
3.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH

Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex được thành lập theo giấy phép số
1873/GP-UB ngày 08/06/1995 của Uỷ Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội và
chính thức hoạt động vào ngày 15 tháng 06 năm 1995, với tên giao dịch là
PJICO, là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam hoạt động trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm. Công ty được thành lập bởi các tập đoàn kinh tế lớn
của Nhà nước như:
- PETROLIMEX : Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam là tập đoàn kinh tế
lớn của Nhà Nước, là cổ đông chi phối của PJICO với tỷ lệ vốn góp là 51%.
- VIETCOMBANK : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là Ngân hàng
thương mại hàng đầu Việt Nam, có mạng lưới hoạt động khắp cả nước cũng như
nhiều Chi nhánh và Văn phòng đại diện tại nhiều nước trên thế giới, tỷ lệ vốn
góp là 10%.
- VINARE : Công ty tái bảo hiểm duy nhất của Việt Nam, có mối quan hệ
với hầu hết các nhà bảo hiểm, tái bảo hiểm hàng đầu thế giới, tỷ lệ vốn góp là
8%.
- VSC : Tổng Công ty thép Việt Nam là đơn vị đầu ngành về sản xuất và

kinh doanh thép, tỷ lệ vốn góp là 6%.
- MATEXIN (Công ty vật tư và thiết bị Toàn bộ), HANEL (Công ty điện
tử Hà Nội) cũng là những doanh nghiệp có uy tín trên thị trường Việt Nam. Vốn
điều lệ của Công ty hiện nay là 140 tỷ đồng Việt Nam. Bảo hiểm PJICO hiện có
mạng lưới phục vụ trên 61 tỉnh, thành phố trong cả nước. Chi nhánh PJICO Cần
Thơ là chi nhánh lớn của Công ty PJICO được thành lập theo Giấy phép số ngày
của và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 11 tháng 03 năm 1996 với chức
năng hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên phạm vi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
22
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
Sau 1 năm hoạt động PJICO Cần Thơ đã mở rộng thị trường, thành lập 05
Tổng đại lý lớn tại Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Đồng Tháp và
hàng trăm đại lý khắp các tỉnh miền Tây. Qua quá trình hoạt động PJICO Cần
Thơ ngày càng phát triển và được khách hàng tin tưởng hơn, hiên nay doanh thu
mỗi năm hơn hàng chục tỷ đồng. Các tổng đại lý cũng đã được nâng cấp thành
văn phòng và Chi nhánh hoạt động độc lập.
- Vị trí địa lý: Trụ sở Chi Nhánh Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex
Cần Thơ đặt tại số : 110 - đường Cách Mạng Tháng 8 - Phường Cái Khế - Quận
Ninh Kiều - Thành Phố Cần Thơ. Điện thoại: 0710. 3812170 –3826036 –
3826242 Fax: 0710.3826241
Là đơn vị nằm ở trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của khu vực. Với vị trí
địa lý này Chi Nhánh nằm trên tuyến đường quốc lộ 91, quốc lộ 1A một tuyến
đường quan trọng đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, thuận lợi về cả đường
thủy lẫn đường bộ.
3.2 CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ
Chi nhánh PJICO Cần Thơ thực hiện kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm
phi nhân thọ bao gồm:

* Các nghiệp vụ bảo hiểm Phi hàng hải:
+ Bảo hiểm xe cơ giới
- Bảo hiểm vật chất xe
- Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (đối với
người thứ ba và hành khách trên xe)
- Bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (đối
với người thứ ba và hành khách trên xe)
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá
trên xe.
- Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe và lái, phụ xe
+ Bảo hiểm con người
- Bảo hiểm kết hợp con người (ABC)
- Bảo hiểm học sinh-sinh viên, giáo viên
- Bảo hiểm tai nạn cho người lao động
- Bảo hiểm khách du lịch (trong nước và ngoài nước)
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
23
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
- Bảo hiểm Children Care (Bảo hiểm y tế dành cho trẻ em từ 1-16t)
- Bảo hiểm tai nạn thuyền viên
* Các nghiệp vụ bảo hiểm Hàng hải:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thủy gia dụng
- Bảo hiểm thân tàu thủy gia dụng- Bảo hiểm P&I (TNDS)
- Bảo hiểm Thân tàu biển (Hull)
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường sông, đường biển, đường
bộ.
* Các nghiệp vụ bảo hiểm Tài sản – Kỹ thuật – Trách nhiệm:
- Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng, lắp đặt
- Bảo hiểm máy móc, nồi hơi

- Bảo hiểm thiết bị điện tử
- Bảo hiểm công trình dân dụng đã hoàn thành
- Bảo hiểm máy móc, thiết bị cho thuê.
- Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
- Bảo hiểm hỗn hợp văn phòng
- Bảo hiểm trách nhiệm nhà thầu đóng tàu
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp

Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh
24
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
3.3 CƠ CẤU TỔ CHỨC ĐIỀU HÀNH VÀ CHỨC NĂNG CỬA TỪNG BỘ
PHẬN
3.3.1 Cơ cấu tổ chức điều hành

3.3.2 Chức năng của từng bộ phận
- Giám đốc chi nhánh : Là người chịu trách nhiệm trước Công ty, trước
pháp luật về hoạt động của chi nhánh, chịu trách nhiệm xây dựng chính sách,
chiến lược kế hoạch phát triển kinh doanh của Chi nhánh theo từng năm và từng
thời kỳ, trực tiếp chỉ đạo phòng kế toán và phân công công tác trong Ban lãnh
đạo Chi nhánh.
- Phó giám đốc : Là người trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh của 02
phòng nghiệp vụ Chi nhánh, ký các hợp đồng bảo hiểm và duyệt hồ sơ bồi
thường theo phân cấp của Giám đốc.
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Bùi Thị Kim Thanh

25
SVTH: Trần Nguyễn Thanh Thy
- Phòng Nghiệp vụ : Trực tiếp khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm, soạn thảo
và quản lý hợp đồng, cấp đơn bảo hiểm, giám định và bồi thường thiệt hại cho
khách hàng. Bên cạnh đó còn quản lý bộ phận đại lý. Trong đó:
+ Phòng Nghiệp Vụ 1 : Gồm 05 nhân viên, chịu trách nhiệm quản lý tất cả
các loại hình nghiệp vụ và các đại lý sau :
Xây dựng lắp đặt – Tài sản – Hoả hoạn
Hàng hoá (Hàng VCNĐ và xuất nhập khẩu )
Tàu sông – Tàu biển
Trực tiếp quản lý Tổng đại lý Bến Tre, Đồng Tháp và Hậu Giang và chịu
trách nhiệm hướng dẫn các loại hình nghiệp vụ trên cho tất cả các Tổng đại lý và
đại lý trong toàn Chi nhánh
+ Phòng Nghiệp Vụ II : Gồm 07 nhân viên, chịu trách nhiệm quản lý tất cả
các loại hình nghiệp vụ và các đại lý sau :
Bảo hiểm xe cơ giới
Bảo hiểm con người
Bảo hiểm Giáo viên – Học sinh
Trực tiếp quản lý Tổng đại lý Vĩnh Long, Trà Vinh và chịu trách nhiệm hướng
dẫn các loại hình nghiệp vụ trên cho tất cả các Tổng đại lý và đại lý trong toàn
Chi nhánh
- Phòng kế toán : Gồm 05 nhân viên chịu trách nhiệm về công tác quản lý
chứng từ, sổ sách kế toán của Chi nhánh, giúp Giám Đốc trong quản lý tài chính
theo đúng các chế độ chính sách tài chính của Nhà nước quy định và báo cáo về
Công ty, làm công tác tổ chức lao động và quản lý hệ thống đại lý.
- Phòng tổng hợp – thị trường : Gồm 07 nhân viên chịu trách nhiệm về công
tác quản lý Tổng đại lý, nhân sự và tất cả các nghiệp vụ báo tái BH.







×