Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.2 KB, 61 trang )


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với nhu cầu đáp ứng mục tiêu kinh doanh,cơ cấu vốn,mua sắm trang thiêt bị,xây dựng
cơ sở hạ tầng và phát triển kinh doanh ngày một rộng hơn,nhiều và nhanh hơn. Bên
cạnh đó cùng với sự tăng trưởng của niền kinh tế,nhu cầu vốn đang là vấn đề cấp thiết
đối với tất cả các doanh nghiệp,cá nhân,tổ chức,…có hoạt động kinh doanh.
Do đó vai trò của các ngân hàng(NH), các tổ chức tín dụng-người trực tiếp cung cấp
nguồn vốn tới nền kinh tế ngày một quan trọng hơn,là một thành phần không thể thiếu
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường,có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị
trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công
ăn việc làm cho người lao động
Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam những năm gần đây đã có những bước
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình, mạng lưới, quy mô hoạt động và năng
lực tài chính, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Ngoài hệ thống
ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên
doanh,… Các nghiệp vụ cũng đổi mới, tiên tiến,hiện đại hóa và từng bước tiếp cận
với công nghệ hiện đại trên thế giới.Với hoạt động chính là tín dụng,dịch vụ đa dạng,
các ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể
vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Trong điều kiện hiện nay hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, chủ yếu nhất
trong toàn bộ các hoạt động của NHTM. Hoạt động đó đã tạo ra phần lớn tài sản trong
tổng tài sản của các NHTM và là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính của mỗi
NHTM dưới hình thức thu nhập từ lãi cho vay. Tuy nhiên hoạt động này luôn tiềm ẩn
nhiều rủi ro, có thể gây tổn thất lớn, dẫn đến mất khả năng thanh toán hay phá sản
ngân hàng. Chính vì vậy mà "chất lượng tín dụng" luôn là vấn đề "sống, còn" trong
hoạt động kinh doanh mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đặc biệt quan tâm trong suốt
quá trình tồn tại và phát triển
Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín
dụng,từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng vừa
mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài và được nhiều người quan tâm



Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tín dụng, cùng với những kiến thức đã học
tập và nghiên cứu tại trường và quá trình làm việc thực tế, tôi quyết định chọn đề tài
" Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn-chi nhánh Thăng Long" để làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu và làm rõ hơn cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của các
NHTM trong nền kinh tế thị trường.
- Khảo sát một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng chất lượng tín dụng của
NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn- Chi nhánh Thăng Long trong thời gian qua
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng tín dụng tại NH Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn- Chi nhánh Thăng Long trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các lý luận cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế
thị trường.
+ Thực trạng chất lượng tín dụng của NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn- Chi
nhánh Thăng Long
- Phạm vi nghiên cứu: các hoạt động tín dụng của NH Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn- Chi nhánh Thăng Long trong khoảng thời gian từ 2008 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp tổng hợp, kết hợp với các phương pháp thống kê, thu thập tài liệu
trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng tại ngân
hàng thương mại.


Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NH Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn- Chi nhánh Thăng Long
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NH Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn- Chi nhánh Thăng Long
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG-HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm,đặc điểm,vai trò,chức năng của tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ,hoạt động của NHTM là
tìm kiếm các khoản vốn(huy động vốn)để sử dụng nhằm thu lợi nhuận.Việc sử sụng
vốn chính là quá trình tạo nên các loại sản phẩm khác nhau của ngân hàng ,trong đó
cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất.Do đặc thù đó nên phần lớn
tài sản của ngân hàng là các loại tài sản chính gồm;các hợp đồng cho vay,hợp đồng
thuê,mua các chứng khoán,các loại tiền gửi…Mỗi loại tài sản được hình thành theo
các hình thức khác nhau,song đều tập trung đảm bảo sinh lời cho ngân hàng
Tín dụng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của các quan hệ hàng
hóa tiền tệ.Nó tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau ,ở bất kỳ phương
thức sản xuất nào,tín dụng cũng biểu hiện bên ngoài như là sự vay mượn,sử dụng vốn
lẫn nhau giữa các chủ thể trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất
định , là một loại quan hệ xã hội trước hết dựa vào lòng tin.Tín dụng phản ánh quan hệ
kinh tế giữa người đi vay và người cho vay ,giữa họ có mối quan hệ với nhau thông
qua sự vận động của vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức hàng hóa là tiền và
tiền tệ
Hoạt động tín dụng rất phong phú ,đa dạng với nhiều hình thức khác nhau như: tín
dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng và các hình

thức tín dụng kết hợp khác Do đó,quan hệ tín dụng có sự khác nhau về tính chất,đặc

điểm,nhưng tất cả đều dựa trên nguyên tắc hoàn trả
Tùy theo từng góc độ nghiên cứu mà ta hiểu nội dung của thuật ngữ “tín dụng” cho
phù hợp
Trong quan hệ tài chính và quan hệ trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hóa
tiền tệ, do tính chất vận động của các nguồn vốn hàng hóa, tiền tệ và sự độc lập tương
đối của tiền tệ, nên tất yếu nảy sinh mâu thuẫn tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn tiền
tệ. Để giải quyết căn bản mâu thuẫn đó tín dụng đã xuất hiện như là một hiện tượng tất
yếu khách quan. Biểu hiện bên ngoài của quan hệ tín dụng trước hết đó là sự chuyển
giao quyền sử dụng vốn theo thời hạn giữa chủ thể sở hữu chúng nhưng chưa có nhu
cầu sử dụng với chủ thể đang có nhu cầu sử dụng nhưng chưa có đủ khả năng tạo lập.
Hay nói một cách cụ thể hơn tín dụng được biểu hiện trước hết là sự vay, mượn tạm
thời một số vốn tài sản hàng hóa hay tiền tệ mà qua đó người đi vay có thể có được
quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định theo cam kết giữa các bên. Như vậy quan
hệ tín dụng là một quan hệ xã hội biểu hiện thông qua các liên hệ về kinh tế, trong đó
yếu tố lòng tin được xem như đặc trưng cơ bản nhất.
Vậy có thể hiểu: “Tín dụng ngân hàng là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát
sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo
nguyên tắc hoàn trả theo thời hạn.”
1.1.2. Đặc điểm chủ yếu của tín dụng ngân hàng
- Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tức là:
các ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay.
Khi huy động, các ngân hàng sử dụng các hình thức huy động khác nhau để thu hút
mọi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để tạo lập nguồn vốn kinh doanh, lúc này ngân hàng
đóng vai trò là người đi vay lớn nhất trong nền kinh tế.
- Huy động vốn và cho vay của NHTM đều chủ yếu thực hiện dưới hình thức tiền tệ:
trong quan hệ tín dụng ngân hàng, các ngân hàng bằng cơ chế thích hợp, huy động các
nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ cho vay của ngân hàng. Như
vậy, tiền ở đây là công cụ thực hiện tín dụng, đó là loại tiền tín dụng hay còn gọi là
công cụ lưu thông tín dụng ngân hàng.


- Vốn tín dụng là bộ phận không thể thiếu trong quá trình vận động của mọi hoạt động
xã hội nói chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Tuy nhiên, do tính
độc lập tương đối của tiền tệ trong mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cho nên người ta
thường quan niệm vốn tín dụng ngân hàng có tính độc lập tương đối với quá trình tái
sản xuất xã hội. Bởi vì trong quá trình vận động, vốn tín dụng ngân hàng có thể tham
gia vào bất cứ một giai đoạn nào của chu kỳ vận động, song dường như đều dễ nhìn
thấy đó là ở giai đoạn đầu (dưới hình thức các nhu cầu chi phí bằng tiền) và giai đoạn
kết thúc (dưới hình thức các khoản thu nhập bằng tiền của quá trình tái sản xuất). Do
đó khi nền kinh tế ở trạng thái cân bằng (cân đối hàng hóa - tiền tệ) nguồn vốn tín
dụng vận động theo sự vận động của các nguồn vốn của quá trình tái sản xuất (T - H
hoặc H - T). Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức nhất định tất yếu nảy sinh
mâu thuẫn trong quá trình chu chuyển vốn là nhu cầu vốn bằng tiền không tương thích
với nhu cầu hàng hóa trong trao đổi. Khi đó với chức năng "trung gian tín dụng" và
với các công cụ huy động vốn, cho vay, thanh toán để góp phần đưa nền kinh tế về
trạng thái cân bằng theo các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trong từng giai đoạn.Cho
nên trong thực tế tín dụng ngân hàng thường được coi là một công cụ hữu hiệu để thúc
đẩy tăng trưởng, hoặc điều chỉnh, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
- Phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế
thị trường hầu như mọi quan hệ trao đổi đều có thể "tiền tệ hóa ", do vậy với công cụ
thực hiện chủ yếu là "quyền sử dụng tiền tệ" nên tín dụng ngân hàng có thể tham gia
vào mọi quan hệ xã hội. Có nghĩa là tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn nhu cầu sử
dụng tiền cho mọi đối tượng, mọi phạm vi, mọi khoảng thời gian của toàn xã hội. Tuy
nhiên sự thỏa mãn đó phải nằm trong sự điều chỉnh chung của nhà nước và sự ràng
buộc của pháp luật trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể của nền kinh tế
1.1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng
Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời thì quan hệ tín dụng cũng được hình thành và
phát triển . Nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì kéo theo thị trường tài chính tiền
tệ cũng phát triển một cách thích ứng. Trong nền kinh tế thị trường tiền tệ là một phạm
trù kinh tế, mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá là yếu tố cần thiết của quá trình


sản suất . Vậy tại sao quan hệ tín dụng lại cần thiết trong nền kinh tế thị trường, điều
này được lý giải ở trên những khía cạnh sau:
“+ Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
thường xuyên liên tục.
Trong nền kinh tế thi trường mỗi doanh nghiệp đều muốn được thể hiện và khẳng định
mình trên thương trường . Muốn thắng được đối thủ cạnh tranh đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp cần phải có được ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động; Khoa học công nghệ, trong
đó có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành nên hai yếu tố còn lại.Nhưng rõ ràng
là với số vốn tự có của mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ không thể đảm bảo
được tất cả các mối quan hệ kinh tế , chính vì thế mà trong nguồn vốn của doanh
nghiệp luôn tồn tại hai nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ sở hữu. Một nhóm “ tạm thời
thừa vốn “ và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời trong một thời gian nhất
định. Một nhóm “ tạm thời thiếu vốn “ và muốn tìm kiếm nguồn vốn nhàn rỗi khác để
đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều
được thoả mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách
thương xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng một cách tối đa.
+ Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một nguồn vốn
đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm,
chiến thắng trong cạnh tranh. Nhưng để có lượng vốn đầu lớn như vậy thì chỉ có quan
hệ tín dụng với đáp ứng được điều đó bởi quan hệ tín dụng sẽ tập trung huy động mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu đó.
+ Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân cư.
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua quan hệ tín
dụng mà những người có thu nhập thấp những người tàn tật đã có được nhà ở,
phương tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phương thức vay trả góp.
+ Thứ tư. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín dụng lại quyết
định đến cơ cấu đầu tư. Nhà nước thông qua hoạt động của các Ngân hàng thương
mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu kinh tế”

1.1.4. Chức năng của tín dụng ngân hàng

Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
- Huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức cho vay.
- Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thước đo để tiến hành quản lý doanh nghiệp với
các mục tiêu: Sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
1.1.5.Phân loại tín dụng ngân hàng
Có thể nói chung hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay,
chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính….
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên số tiêu thức nhất
định.Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho quản lý lập một quy trình tín
dụng thích hợp,giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Trong quá trình phân loại có thể dùng nhiều tiêu thức ,Ứng với mỗi tiêu thức khác
nhau người ta phân loại cho vay khác nhau, ta có thể dựa trên những tiêu thức sau:
 Theo kỳ hạn nợ.
 Theo mục đích sử dụng vốn.
 Theo hình thức đảm bảo tiền vay.
 Theo phương pháp hoàn trả .
 Theo loại hình tiền tệ.
1.1.5.1. Theo kỳ hạn nợ cho vay của Ngân hàng thương mại được phân làm ba loại:
Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
 Cho vay ngắn hạn.
Là loại cho vay có kỳ hạn dưới 1 năm và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu
động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Khoản cho
vay ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho các hoạt động sau:
-Cho vay mua hàng dự trữ.
Từ trước tới nay, ngân hàng thường cho các hãng vay ngắn hạn bổ xung tạm thời vốn
hoạt động. Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng
dự trữ như nguyên liệu thô Các khoản cho vay như vậy tận dụng được chu kỳ tiền

mặt thông thường trong một hãng kinh doanh như sau:
+Tiền mặt được chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành phẩm hoặc thành

phẩm
+Hàng hóa được dự trữ để bán
+Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán chịu) và được dùng
để trả các khoản vay ngân hàng
-Cho vay vốn lưu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo dài từ
vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lưu động thường được dùng để mua hàng dự
trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm gần giống với các
khoản cho vay tự thanh toán như đã đề cập ở trên.
- Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng thương mại là
cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà ở, các toà nhà văn phòng, trung tâm
thương mai, các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng công trình kéo dài
nhưng các khoản cho vay lại mang tính tạm thời nhằm đáp ứng các khoản chi tiêu xây
dựng và cần thiết cho công trình. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi công
thường vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác, để lấy tiền thanh toán cho
các khoản vay xây dựng ngắn hạn.
- Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Những người kinh doanh chứng khoán Chính phủ và chứng khoán tư nhân thường
cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu tư
chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này được bán hoặc đến hạn thanh
toán. Các ngân hàng lớn nhất thường sẵn sàng cho vay đối với người kinh doanh
chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lượng cao, thường được đảm bảo
bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ hoặc khoản
vay có kỳ hạn rất ngắn, chỉ là vay qua đêm hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể
nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị
trường tín dụng trở nên căng thẳng.

- Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ dùng gia
đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản phải thu

mà người bán những hàng hoá này sẽ nhận được sau khi họ ký hợp đồng bán trả góp.
Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng các yêu
cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất thay đổi tuỳ
theo chất lượng tín dụng người vay vốn, chất lượng của vật thế chấp và thời hạn của
mỗi khoản vay.
- Cho vay trên tài sản.
Trong những năm gần đây, những khoản cho vay trên tài sản là khoản tín dụng được
đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của hãng được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt
trong tương lai. Tài sản chủ yếu được dùng để bảo đảm cho các khoản vay bao gồm
các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay
theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu, hoặc trên
giá trị hàng tồn kho. Khi thu hồi được các khoản phải thu hoặc bán được hàng doanh
nghiệp sẽ chuyển một phần tiền mặt thu về tới ngân hàng để trả nợ tiền vay.
 Cho vay trung hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để
đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ mở rộng sản
xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn
nhanh.
 Cho vay dài hạn.
Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên, loại cho vay này chủ yếu để đáp ứng nhu
cầu dài hạn như: Xây dựng nhà ở, các thiết bị phương tiện vân tải có quy mô lớn, xây
dựng các xí nghiệp mới. Loại cho vay này tài trợ cho các loại:
+ Cho vay kỳ hạn mua thiết bị và các tài sản cố định khác.
+ Cho vay luôn chuyển.
+ Cho vay theo dự án.
+ Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty.

1.1.5.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay.
Hoạt động cho vay bao gồm:

 Cho vay tiêu dùng:
Là loại cho đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm nhà cửa, xe và
các loại hàng hoá tiêu dùng khác. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã xuất hiện ở nước ta
nhưng áp dụng còn rất hạn chế bởi mức sống trung bình của người dân chưa cao, việc
thanh toán bằng thẻ đang được chú trọng nhưng chưa thực sự phát triển, hiểu biết của
người dân về loại hình tín dụng này chưa nhiều.
 Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Là hoạt động cho vay đối với các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Hoạt động cho vay này đã xuất hiện từ rất sớm và rất phát triển trên thế
giới, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
1.1.5.3. Theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Trong cho vay, để giảm thiểu rủi ro, tổn thất có thể xảy ra cho Ngân hàng đối với
những khách hàng không thực hiện đúng cam kết thoả thuận trong hợp đồng tín dụng
giữa Ngân hàng và khách hàng, ngân hàng thường yêu cầu các khoản cho vay phải có
bảo đảm. Việc bảo đảm đối với khoản vay là rất cần thiết bởi một mặt với doanh
nghiệp sẽ phải có ý thức hơn trong kinh doanh và trả món nợ, mặt khác đối vơi ngân
hàng việc có bảo đảm đối với các khoản vay của doanh nghiệp tạo nên tâm lý yên tâm
hơn và giảm rủi ro. Có nhiều loại bảo đảm và do đó cũng có nhiều loại cho vay theo
hình thức bảo đảm khác nhau như cho vay cầm cố, cho vay thế chấp, cho vay bảo
lãnh
Theo hình thức này ta có thể phân loại cho vay thành cho vay có bảo đảm và không có
bảo đảm.
 Cho vay có bảo đảm.
Là một loại hình tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
có sự bảo lãnh của bên thứ 3.
 Cho vay không có bảo đảm.
Là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh mà dựa trên

uy tín của chính khách hàng hay người ta còn gọi là tín chấp. Khách hàng được ngân
hàng cho vay theo hình thức này thường là những khách hàng truyền thống của ngân
hàng có uy tín và độ tin cậy cao.

1.1.5.4. Theo phương thức hoàn trả.
Theo phương thức này ta có thể phân loại cho vay thành hai loại
 Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn, gốc và lãi theo
định kỳ, trả dần trong suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng. Kỳ hạn hoàn trả có thể hàng
tháng, hàng quý , nửa năm hoặc một năm.
 Cho vay trả một lần: Là loại cho vay trả một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
1.1.5.5. Theo loại hình tiền tệ.Bao gồm
 Cho vay bằng ngoại tệ.
 Cho vay bằng nội tệ.
 Cho vay bằng vàng.”
1

1.2. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay,thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán
Bởi NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên tất yếu cũng phải quan tâm đến
chất lượng sản phẩm của mình, đặc biệt là chất lượng tín dụng.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng trong nền kinh
tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì thế vấn đề chất
lượng tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với tất cả các Ngân hàng. Tuy vậy
để đưa ra một khái niêm đúng về chất lượng tín dụng không phải là dễ, bởi lẽ mỗi khái
niệm đưa ra đòi hỏi phải chỉ ra nó xuất phát từ đâu trên quan điểm nào. Như ta đã biết
mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về chất lượng tín dụng.
 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của khách hàng.

Khách hàng là đối tượng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ tín
dụng vì nó là một nguồn tài trợ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu của họ
là tối đa hoá giá trị tài sản của mình hay nói cụ thể hơn là tối đa hoá giá trị sử dụng của
khoản vốn vay. Chính vì thế với khách hàng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
 !!"!   

hàng cái họ quan tâm đầu tiên là lãi suất, kỳ hạn, quy mô, phương thức giải ngân và
phương thức thu nợ của khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp có thoả mãn nhu cầu
của họ hay không, làm sao để các thủ tục được giải quyết một cách nhanh gọn, tiết
kiệm thời gian và chi phí hợp lý. Nếu tất cả các yếu tố này đều đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng thì khoản tín dụng đó được coi là có chất lượng tốt và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của khách hàng thì chất lượng tín dụng là: Sự thoả mãn nhu cầu
của họ về khoản tín dụng trên các phương diện, lãi suất, quy mô, thời hạn, phương
thức giải ngân, phương thức thu nợ
 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng.
Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế Ngân hàng cũng phải hoạt
động kinh doanh làm sao để đem lại càng nhiều thu nhập cho chủ sở hữu thì càng tốt.
Nhưng điều rất khác của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp khác là Ngân hàng
thương mại là đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với 3 nghiệp vụ cơ bản:
Nhận gửi, cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận hay mối quan hệ giữa an toàn và khả năng sinh
lời là mối quan hệ biện chứng. Mối quan tâm hàng đầu của tất cả các nhà đầu tư là
phải cân nhắc giữa mức độ an toàn và khả năng sinh lời. Về nguyên tắc đánh đổi giữa
rủi ro và lợi nhuận thì mức độ rủi ro của lĩnh vực đầu tư càng cao thì sẽ có khả năng
sinh lợi càng cao và ngược lại.
Do đó theo quan điểm của Ngân hàng chất lượng tín dụng được hiểu là: Chất lượng tín
dụng là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động tín
dụng Ngân hàng.
 Chất lượng tín dụng theo quan điểm của xã hội.
Thông qua các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp cho các chủ thể kinh tế trong

nền kinh tế, các hoạt động như tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển theo chiều
sâu sẽ được tiến hành và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy đứng trên
quan điểm của xã hội để đánh giá chất lượng tín dụng thì chất lượng tín dụng là: Sự
đáp ứng cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà các khoản tín dụng của Ngân hàng
đem lại.

1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại.
Một trong những rủi ro đáng sợ đối với Ngân hàng là rủi ro tín dụng và nó cũng là một
trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán của Ngân
hàng, bằng chứng là đã xảy ra những cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới Có thể
nói bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng có thể lâm và tình trạng đó, vì thế vấn
đề nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ đối là cần thiết đối với Ngân hàng, với
khách hàng mà còn đối với toàn xã hội nữa.
 Về phía Ngân hàng:
Ngân hàng thương mại giống như các nhà kinh doanh: bỏ vốn của mình ra và mong
muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như vậy đảm bảo chất lượng cho các khoản
vay và cho vay bản thân nó đối với Ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt
đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay không còn là cái bóng của
Ngân hàng Trung Ương mà đã và đang dần trở thành một chủ thể kinh doanh độc lập,
tự kiếm lợi nhuận lời ăn lỗ chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng, với Ngân hàng
Trung Ương. Do vậy mà Ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các
khoản vay.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một nền kinh
tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi tư tưởng bao
cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc làm ăn của các
doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng cao chất lượng tín
dụng Ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các doanh nghiệp mà Ngân
hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, có
như thế thì Ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ của mình như dịch vụ tư
vấn giúp doanh nghiệp tránh khỏi được những rủi ro không đáng có.

Như vậy, có thể thấy mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu cần
thiết cho mỗi Ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho Ngân hàng duy
trì hoạt động mà còn giúp Ngân hàng phát triển. Nếu đi ngược lại mục tiêu trên, Ngân
hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình.
 Về phía nhà đầu tư:

Khách hàng của Ngân hàng có hai loại: Người gửi tiền và người vay tiền. Người gửi
tiền thì họ quan tâm đến khả năng thanh toán của Ngân hàng mà khả năng thanh toán
của Ngân hàng lại có mối quan hệ mật thiết với chất lượng của các khoản tín dụng vì
vậy đối với họ nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến những khoản tiền gửi của họ vào Ngân hàng. Người vay tiền là người trực tiếp
sử dụng giá trị sử dụng của các khoản vốn vay Ngân hàng, mà đối với họ chất lượng
tín dụng chính là sự thoả mãn của họ về khoản tín dụng đó. Cuối cùng phải làm sao
cho khoản tín dụng đó đem lại lợi nhuận cho họ để họ có thể trang trải chi phí và có
lãi. Bởi thế bản thân người vay tiền coi vấn đề chất lượng tín dụng là vấn đề cần thiết
và ngày càng phải được nâng cao.
 Về phía toàn xã hội
Nếu xét trên quan điểm toàn xã hội thì vấn đề chất lượng tín dụng cũng là vấn đề cần
thiết. Bởi một đồng vốn của Ngân hàng cho vay nó là đầu mối trong tất cả các mối
quan hệ kinh tế, nếu người sử dụng vốn đó hiệu quả thì cũng đồng nghĩa với việc nó
co hiệu quả đối với Ngân hàng và xã hội bởi nó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế, đóng góp phát triển các công trình phúc lợi xã hội. Hơn nữa sự sụp đổ của hệ thống
Ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nó có thể làm cho nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái trầm trọng và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ xã hội. Do đó vấn
đề nâng cao chất lượng tín dụng cũng được cả xã hội quan tâm.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu định tính.
Có thể nói thước đo chất lượng tín dụng của một ngân hàng chính là sự hài lòng của
khách hàng, đồng thời ngân hàng cũng phải đảm bảo hài hoà với an toàn và đạt hiệu
quả tín dụng cao nhất.

Các chỉ tiêu định tính - những chỉ tiêu hết sức quan trọng có tính chất quyết định đối
với chất lượng và độ an toàn, hiệu quả của tín dụng ngân hàng:
Để đánh giá chất lượng tín dụng của một đơn vị được qui định trong Văn bản
3653/NHCS-TDNN ngày 19/11/2012 , một số chỉ tiêu định tính sau đây :
-Triển khai các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng.
-Tổ chức, điều hành hoạt động tín dụng.

-Công tác lập kế hoạch tín dụng (tháng/quí/năm): cụ thể/chi tiết không?
Hoạt động kiểm tra, đối chiếu:
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá tình hinh, quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng của Ngân
hàng.
Khi cho vay vốn Ngân hàng phải tuân thủ 3 nguyên tăc đó là:
-Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
-Vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương.
-Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết.
Ba nguyên tắc tín dụng trên hình thành một quy luật nội tại của tín dụng. Trên thực tế
cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc ấy, hoặc một trong ba nguyên tắc ấy bị coi nhẹ,
hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này xem nhẹ nguyên tăc kia sẽ dẫn đến tình trạng
khách hàng mất khả năng thanh toán, phá sản, đổ bể một dự án, một doanh nghiệp,
một Ngân hàng. Khi nói đến chất lượng tín dụng chúng ta phải xem xét đến chất lượng
tuân thủ nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc trên.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng.
Theo văn bản 3653/NHCS-TDNN ngày 19/11/2012 của Tổng giám đốc NHCSXH về
việc xây dựng Phương án, Đề án củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng. Một số chỉ
tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng gồm:
Tỷ lệ nợ quá hạn.
Tổng dư nợ = Tổng doanh số cho vay - Tổng doanh số thu nợ
Tỷ lệ nợ Nợ quá hạn
= *100%
quá hạn Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này cho biết khối lượng tiền của ngân hàng cung ứng ra nền kinh tế tại một
thời điểm. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng còn kém hiệu
quả, chưa có khả năng mở rộng khách hàng. Tuy nhiên tổng dư nợ cao quá cũng chưa
hẳn tốt
Theo quy định của NHNN Việt Nam thì các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư
nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém, nhỏ hơn 5% thì ngân hàng đó được
đánh giá là ngân hàng có hoạt động tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao

Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại tại một
thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quí hoặc cuối năm.
Trên thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề , có khả năng
mất vốn lớn, có nghĩa là tính an toàn thấp.Chỉ tiêu này thường được sử dụng khi phân
tích đánh giá chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại. Phân tích chất lượng
thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn cần chú ý như sau:
-Nợ quá hạn theo nguyên nhân.
-Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế có tài sản thế chấp hay không có tài sản thế chấp,
có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi.
-Nợ quá hạn theo thời gian: Nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn trên 180 ngày.
Giải quyết nợ quá hạn là môt quan tâm thường trực của tất cả các Ngân hàng thương
mại và có nhiều vấn đề cần phải làm, song việc quan trọng nhất là chất lượng cho vay.
Hiệu suất sử dụng
vốn vay
=
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Hiệu suất sử dụng vốn vay.
Chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được bao nhiêu trên một đồng vốn huy động.
Do Ngân hàng phải trả lãi cho các khoản tiền mà Ngân hàng đi vay nên Ngân hàng cần
tận dụng hết sức các khoản vốn huy động để tạo ra lợi nhuận bù đắp chi phí và có lãi.
Mục đích của Ngân hàng là làm sao tạo ra được nhiều khoản tín dụng lành mạnh và có

hiệu quả, góp phần mở rộng và tăng cường sự ổn định hoạt động của Ngân hàng.
Tỷ lệ sử dụng vốn Sai mục đích =
Số tiền vay sử dụng sai mục đích
Tổng số tiền dư nợ
Một trong những nguyên tắc vay vốn Ngân hàng là phải sử dụng vốn đúng mục đích
như đã thoả thuận. Nếu như sử dụng vốn sai mục đích thì điều đó chứng tỏ có hành vi
lừa dối Ngân hàng và khoản cho vay này có nguy cơ mất khả năng hoàn trả cao. Tỷ lệ
sử dụng vốn sai mục đích càng cao thì chất lượng cho vay bị đánh giá càng thấp và
ngược laị.
Các Chỉ tiêu lợi nhuận.

Như đã đề cập, lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy lợi nhuận tăng hàng năm, điều đó chứng tỏ chất
lượng cho vay đã được tăng lên hoặc Ngân hàng thương mại đã mở rộng công tác cho
vay. còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Chính sách thu nhập, chi phí của Chính phủ,
chính sách lãi suất, chính sách khách hàng Chất lượng tín dụng không thể nói là tốt
nếu lợi nhuận thu được từ nguồn này là thấp.Ta có 2 chỉ tiêu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng trung dài hạn của ngân
hàng, cho biết một đồng dư nợ cho vay trung, dài hạn mang lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Tỷ lệ cao tức lợi nhuận tín dụng trung dài hạn lớn, chất lượng cao.
(2) =
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng lợi nhuận từ hoạt động ngân hàng
Chỉ tiêu này cho biết mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng trung dài hạn vào toàn
bộ kết quả sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Tỷ lệ cao phản ánh chất lượng tín dụng
khả quan nhưng đồng nghĩa với việc ngân hàng chấp nhận đối mặt với nguy cơ rủi ro
tiềm tàng.
- Ngoài ra lượng khách hàng trung dài hạn có hiệu quả tăng chứng tỏ ngân hàng đã
làm tốt công tác nâng cao chất lượng tín dụng, thu hút khách hàng hiện tại và tiềm
năng chính là một lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng.

Các chỉ tiêu khác :
-Tỷ lệ nợ xấu
-Vòng quay vốn tín dụng
-Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
-Khả năng sinh lời của vốn vay
-Giá trị hiện tại ròng (NPV)
-Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR)
-Chỉ tiêu phân tích độ nhạy cảm của dự án
-Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

(1)
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Dư nợ tín dụng bình quân

Vì vậy mỗi chỉ tiêu đưa ra phải được xem xét trong mối quan hệ với tất cả các chỉ tiêu
khác, có như vậy mới đánh giá được chất lượng tín dụng và có phương án để nâng cao
chất lượng tín dụng.
2
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
1.3.1. Nhân tố khách quan.
1.3.1.1. Môi trường kinh tế xã hội.
Nói đến môi trường kinh tế xã hội là nói đến tổng thể nền kinh tế quốc gia và thế giới.
Như ta đã biết mọi thành phần kinh tế đều hoạt động trong xã hội. Vì thế môi trường
kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của Ngân hàng.
Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một nền kinh
tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín
dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với sự phát
triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Nhiều Ngân hàng thương

mại do nóng vội mở rộng đầu tư, nâng cao dư nợ, đẩy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vượt
quá mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đều phải trả giá cho sự nóng vội.
1.3.1.2. Môi trường pháp lý.chính trị
Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn ổn định và phát triển thì cũng cần có một hành lang
pháp lý thích hợp, hành lang pháp lý chính là bàn tay hữu hình của Nhà nước tác động
vào nền kinh tế nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, chế độ của
mình. Hoạt động Ngân hàng là một trong những hoạt động kinh tế trong tổng thể nền
kinh tế vì vậy nó cũng chịu ảnh hưởng của hệ thống Pháp luật nhất là Luật các tổ chức
tín dụng. Nói đến môi trường pháp lý là nói đến tính đồng bộ của hệ thống pháp luật,
tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình
chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể hiện tín dụng của ngành đúng với Luật Ngân hàng, phù
hợp với thực tiễn là một điều quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
"!  !#"!!! "!"! 
  !! 

Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật, tuy nhiên vẫn còn có nhiều bất cập chưa sát với
thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín dụng
Ngân hàng nói riêng.
1.3.1.3. Các yếu tố khách quan đến từ tự nhiên:Thiên tai,bão lũ,dịch họa……
Các yếu tố trên tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng song lại là mối lo ngại
tới toàn bộ khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng,do đó nó ảnh hưởng lớn tới
chất lượng dịch vụ của ngân hàng và ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng trong thời
gian vay vốn
Đây là nhân tố gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng cũng như
chất lượng của nền kinh tế. Việt Nam là đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên
tai hỏa hoạn, bệnh dịch thường xuyên xảy ra. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng lớn đến
một số ngành, đặc biệt là những ngành có liên quan đến nông nghiệp, thủy sản, hàng
hải,… Vì thế, việc đầu tư vào những ngành có thể dẫn đến những rủi ro do môi trường
tự nhiên gây ra, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng ngân hàng.

1.3.2. Nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Các nhân tố từ chính ngân hàng
Phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
-Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ của Ngân hàng trong cơ chế thị
trường có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng món vay của Ngân hàng.
Thực tế cho thấy rằng, nếu Ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh, nhạy, sáng tạo trong
công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của Ngân hàng thì Ngân hàng đó có thể đứng
vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín dụng gian
dối trong thẩm định tín dụng của Ngân hàng đánh giá sai tài sản thế chấp, lơ là sự
giám sát đối với các doanh nghiệp để Ngân hàng gặp rủi ro.
Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch hoạ, cơ chế chính sách, khách
hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ thì bản thân Ngân hàng phải chịu trách nhiệm
chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm. Trong đó vai trò của cán bộ tín
dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các món vay, bởi họ chính là người trực
tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề suất cho vay và theo dõi quản lý thu nợ của khách hàng.

Chính vì vậy cán bộ tín dụng là người, nguồn lực quan trọng nhất của các Ngân hàng
khi tìm nguyên nhân nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi được.
- Chính sách tín dụng của ngân hàng:Chính sách tín dụng của ngân hàng là một hệ
thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được
các mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ. Nếu chính sách tín dụng đúng đắn, phù
hợp sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng quy mô cho vay, đảm bảo được khả năng
sinh lời trên cơ sở tuân thủ pháp luật và có thể phân tán được rủi ro
- Quy trình tín dụng bao gồm cả thủ tục và các quy chế vay vốn:quy trình này được bắt
đầu từ khi ngân hàng thẩm định cho vay đến khi giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng
vốn vay và thu hồi nợ. Trong đó thẩm định cho vay là khâu quan trọng, quyết định đến
chất lượng tín dụng và là định hướng rủi ro trong cho vay. Việc thẩm định phải được
tiến hành một cách kỹ lưỡng và phải tuân thủ chặt chẽ những quy định, và đưa ra
quyết định đúng đắn trong cho vay nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro, đảm bảo tính
ổn định của khoản vay.

Trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay thì ngân hàng phải thường xuyên kiểm
tra xem nguồn vốn của mình có được sử dụng đúng mục đích không, rà soát và kịp
thời phát hiện những sai phạm, có biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế rủi ro, góp phần
nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu nợ và khâu thanh lý nợ là khâu để ngân hàng tồn tại và phát triển được, đây là kết
quả cuối cùng của công tác cho vay, do đó cán bộ tín dụng phải tích cực trong công tác
thu hồi vốn và lãi tiền vay, hạn chế nợ quá hạn.
Việc ngân hàng có thông tin tín dụng tốt,hồ sơ tín dụng đầy đủ,làm tốt các bước của
quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng bảo toàn vốn, nâng cao được chất
lượng tín dụng.
- Kiểm soát nội bộ:Kiểm soát nội bộ giúp cho các lãnh đạo có được các thông tin về
tình hình cho vay của các cán bộ tín dụng có phù hợp với chủ trương, đường lối, chính
sách mà ngân hàng đưa ra hay không. Hoạt động này gồm những việc như: kiểm tra
các thủ tục về thẩm quyền điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền vay, thủ tục, hồ
sơ xin vay vốn, nhằm mục đích phát hiện ra các sai phạm trong quá trình cho vay, từ
đó giúp ban lãnh đạo đưa ra các quyết định để hạn chế rủi ro tín dụng. Hệ thống kiểm

soát nội bộ hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng
của mình.
- Công nghệ ngân hàng:Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, sự cạnh tranh ngày càng
diễn ra gay gắt hơn. Điều này càng thấy rõ hơn trong lĩnh vực Ngân hàng. Hàng loạt
các ngân hàng mới ra đời trong đó cần chú ý là sự gia nhập của các ngân hàng nước
ngoài, các ngân hàng liên doanh với quy mô và công nghệ hiện đại hơn thỏa mãn nhu
cầu ngày càng cao của khách hàng, do đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải
không ngừng cải thiện công nghệ. Với các trang thiết bị máy móc, phương tiện kĩ thuật
hiện đại sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, thông
tin thu thập nhanh và chính xác hơn, tiết kiệm chi phí, giúp ngân hàng kịp thời nắm
bắt những thông tin, diễn biến trên thị trường, dự báo về khả năng phát triển kinh tế xã
hội và hoạt động tín dụng nhằm đưa ra các quyết sách phù hợp với tình hình thực tế và
đem lại sự tiện ích cho khách hàng.

1.3.2.2. Các nhân tố từ phía khách hàng
-Năng lực của khách hàng bao gồm:năng lực tài chính,năng lực thị trường,năng lực
sản xuất….Năng lực của khách hàng là nhân tố quyết định đến việc khách hàng sử
dụng vốn vay có hiệu quả hay không,điều này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín
dụng
-Trong khi các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng và quản lý vốn của mình thì Ngân hàng
sử dụng vốn của mình dưới hình thức gián tiếp: Đó là giao vốn cho doanh nghiệp
không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát doanh
nghiệp vay vốn. Do vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng chịu nhiều chi phối từ bản
thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn.
-Mức độ chuyển biến về nhận thức quan điểm tâm lý của ban lãnh đạo doanh nghiệp
trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao? Họ có đầy đủ ý thức và trách nhiệm trả nợ
đối với khoản vay hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp trông chờ nguồn vốn được cấp
, được ưu đãi Trình độ quản trị điều hành ở mức độ nào? Đã đáp ứng được mức độ
nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở nên hưng thịnh phát triển
trong khi một doanh nghiệp khác làm ăn thua lỗ suy xụp . Sự khác biệt này có nguyên
nhân xuất phát từ trình độ, chất lượng quản lý.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên đây là những lý luận cơ bản về hiệu quả hoạt động tín dụng tại các NHTM
Qua nghiên cứu những nội dung trên đặc biệt là các chỉ tiêu ,nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng của các ngân hàng cho thấy :tùy theo sự phát triển,điều kiện kinh
tế xã hội và sự hoàn thiện của môi trường pháp lý của từng giai đoạn cũng như cơ sở
vật chất, kỹ thuật và trình độ của từng ngân hàng mà nhân tố này có ảnh hưởng khác
nhau tới chất lượng tín dụng.
Từ đó trang bị những kiến thức cơ bản,cơ sở lý luận cho việc nhìn nhận và đánh giá
đầy đủ ,chính xác về việc nâng cao hiệu quả tín dụng cho NHTM.Để nâng cao chất
lượng tín dụng hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro,tạo điều kiện cho sự thành công của
hoạt động tín dụng nói chung cũng như đi vào thực tế tại ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn-chi nhánh Thăng Long nói riêng.

CHƯƠNG 2
THỰC TRANG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN-CHI NHÁNH THĂNG LONG
2.KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN CHI NHÁNH THĂNG LONG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT
TRIỂN
2.1. Khái quát về ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh
Thăng Long
Tên đầy đủ: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh
Thăng Long
Tên giao dịch tiếng Anh: Agribank Thăng Long
Tên viết tắt: NHNo & PTNT Thăng Long
Agribank Thăng Long có trụ sở tại :số 4 đường Phạm Ngọc Thạch,quận Đống
Đa,HàNội
Tiền thân là sở giao dịch I (SGD I), một bộ phận của Trung tâm điều hành NHNo&P
TNT Việt Nam (NHNo&PTNT VN) và là một chi nhánh trong hệ thống

NHNo&PTNT VN
Sở giao dịch I NHNo&PTNT được thành lập theo quyết định số 15/TCCB
ngày 16/03/1991 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT VN với chức năng chủ
yếu là đầu mối để quản lý các ngành nông,lâm, ngư nghiệp và thực hiện thí điểm văn
bản, chủ trương của ngành trước khi áp dụng cho toàn hệ thống trực
tiếp thực hiện cho vay trên địa bàn Hà Nội, cho vay đối với các công ty
lớn về nông nghiệp như: Tổng công ty rau quả, công ty thức ăn gia súc
Ngày 01/04/1991, SGD I chính thức đi vào hoạt động. Lúc mới thành lập, SGD I
Chỉ có hai phòng ban: Phòng Tín dụng và Phòng Kế toán cùng một Tổ kho quỹ
Năm 1992, SGD I được sự ủy nhiệm của TGĐ NHNo&PTNT đã tiến
hành thêm nhiệm vụ mới đó là quản lý vốn, điều hòa vốn, thực hiện quyết toán
tài chính cho 23 tỉnh, thành phố phía Bắc (từ Hà Tĩnh trở ra). Từ cuối năm
1994, SGD I thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh vốn theo lệnh của SGD I và thực

hiện kinh doanh tiền tệ trên địa bàn Hà Nội bằng cách huy động tiền nhàn rỗi
của dân cư, các tổ chức kinh tế bằng nội tệ, ngoại tệ sau đó cho vay để phát
triển sử dụng kinh doanh đối với mọi thành phần kinh tế sau này còn thực hiện thêm
các dịch vụ tư vấn đầu tư,bảo lãnh và chiết khấu các thương phiếu,các nghiệp vụ thanh
toán,nhận cầm cố,thế chấp tài sản,mua bán kinh doanh ngoại tệ,vàng bạc đá quý,tài trợ
xuất khẩu….
Từ ngày 14/4/2003, Sở giao dịch I đổi tên thành Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng
Long
Theo quyết định số 17/QĐ/HĐQTTCCB, ngày 12/02/2003 của Chủ tịch Hội đồng
Quản trị NHNo&PTNT Việt nam về việc chuyển và đổi tên
Sở giao dịch NHNo&PTNT I thành Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long
2.1.1. Cơ cấu tổ chức
Để tạo điều kiện phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình.Thực hiện tốt nhiệm vụ
mà NHNo&PTNT Việt Nam giao phó,NHNo&PTNT Thăng Long thực hiện phân chia
bộ máy tổ chức gọn nhẹ nhằm đạt hiệu quả công việc cao nhất.
Cơ cấu gồm 1 Giám Đốc,3 Phó giám đốc phụ trách chuyên môn trong đó có 1 Phó
giám đốc thường trực,11 phòng (tổ) chuyên môn nghiệp vụ, 9 chi nhánh cấp II, 2
$%&'()*
+,$-./"0-"1-
+,$-./"0-"2.3
+,$-./"0-"40
+5 670
+5 12"
+5 8.9
+5 :6:6;<
+5 
=*>;?
+5 :6;@
+5 4A.B-
*;

6CD
?E
*;6 FG
*;(9*H
*;I- 6JK
*;
*K'E
*;; DL:D1
*;; DL(M*N
*;=OI
*;+!(M+P

phòng giao dich trực thuộc chi nhánh cấp I, 6 phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh
cấp II.
Các phòng chuyên môn nghiệp vụ, chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh
Thăng Long thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước và của NHNo&PTNT Việt Nam. Việc phân định chức năng nhiệm vụ rõ ràng
giữa các phòng ban và sự mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch đã góp phần
rất lớn vào thành công của chi nhánh trong thời gian qua
Sơ đồ cơ cấu tổ chức hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức
2.1.2. Nhiệm vụ cơ bản các phòng ban quan trọng
 Phòng hành chính nhân sự :Tham mưu cho Giám đốc xây dựng chương trình công
tác hàng tháng, quý, thực thi pháp luật có liên quan đến an ninh trật tự,phòng cháy nổ
*-""
->
5 $Q
Phòng
TTQT
*-"5 $Q

*-"R
*-"
+5
$Q

tại cơ quan, lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến ngân hàng, đầu mối quan
hệ với cơ quan tư pháp tại địa bàn hoạt động, với khách hàng đến làm việc, quản lý
con dấu của chi nhánh, thực hiện chế độ tiền lương, bảo hiểm, quản lý lao động, quy
hoạch cán bộ, đề xuất cử cán bộ đi học tập….
 Phòng Kế toán – Ngân quỹ:Tham mưu cho Ban giám đốc về chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh doanh, tổ chức quản lý tài chính, kế toán, ngân quỹ trong Chi nhánh.
Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kế toán, ngân quĩ, hướng dẫn và kiểm tra chuyên đề
tài chính, kế toán – ngân quỹ đối với các đơn vị trực thuộc theo chỉ đạo của Ban giám
đốc Chi nhánh.
 Phòng vi tính,điện toán:thực hiện công tác tổng hợp, thống kê, và lưu trữ số liệu,
thông tin liên quan đến hoạt động của chi nhánh, xử lý các phát sinh liên quan đến
hạch toán kế toán, các nghiệp vụ tín dụng và các hoạt động khác, quản lý, bảo dưỡng
và sửa chữa máy móc trang thiết bị tin học…
 Phòng Tín dụng:Phòng Tín dụng là một đơn vị thuộc bộ máy chuyên môn tham mưu
cho Ban giám đốc NHNo & PTNN Thăng Long trong chỉ đạo, kiểm tra chuyên đề toàn
Chi nhánh và trực tiếp thực hiện tại hội sở các hoạt động tín dụng,bảo lãnh, mở rộng
thị trường, nghiên cứu cải tiến thủ tục cho vay, thế chấp tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng với mục tiêu phát triển kinh doanh an toàn, hiệu quả và lập các báo cáo về
công tác tín dụng
 Phòng kế hoạch:Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh được giao hàng tuần,tháng
có báo cáo và tổ chức đánh giá tình hình thực hiện thường xuyên chỉ đạo việc xây
dựng cũng như quyết đoán công tác nguồn vốn và kế hoạch để rút ra những vấn đề
trong cơ cấu nguồn vốn huy động cũng như trong công tác đầu tư tín dụng nhằm thực
hiện được kế hoạch kinh doanh TW giao
 Phòng thẩm định:Thẩm định các dự án vay vốn,bảo lãnh vượt quyền phán quyết cho

vay của giám đốc các chi nhánh hoặc những món vay do HĐQT,Tổng GĐ hoặc GĐ
chi nhánh quyết định.thu thập thông tin và thường xuyên tổ chức kiểm tra chuyên đề
công tác thấm định.Tiếp cận với các bộ ngành có liên quan đến đối tượng đầu tư nhằm
khai thác các dự án có hiệu quả ,tham mưu cho lãnh đạo trong việc làm đầu mối tài trợ
với các NHTM khác.
Tham mưu cho lãnh đạo trong việc xác định mức cho vay đới với các ngành kinh
tế,ngành hàng,doanh nghiệp để có phương án đầu tư đúng hướng,phòng ngừa và phân
tán rủi ro.

×