Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.9 KB, 4 trang )
Những bài thuốc hay từ sa
nhân
- Sa nhân thuộc họ gừng, có nhiều loại, Đông y thường sử dụng chủ yếu là hai loài
sa nhân tím và sa nhân trắng vì có giá trị dược liệu cao. Cây mọc hoang ở các tỉnh
trung du và miền núi, thường gặp thành vạt lớn ở chỗ ẩm mát, nhiều mùn như
thung lũng, ven suối, bờ nương rẫy. Đặc điểm chung là loại cây thảo, sống lâu
năm. Lá mọc so le thành hai dãy, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt, lưỡi hẹ mỏng,
nhìn qua gần giống cây riềng. Thân rễ mảnh, mọc bò lan, các rễ đan vào nhau
thành mạng lưới rất chắc. Mùa ra hoa khoảng tháng 5 – 6, quả hình cầu hoặc hình
bầu dục, có gai mềm, hạt hình nhiều cạnh, mùa quả tháng 7 – 8.
Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là quả thu hái vào mùa hè thu. Quả sa nhân chín
trong thời gian ngắn khoảng 20 ngày, quả vừa chín màu đỏ hay tím, nhân hạt to
mẩy là những quả bóp thấy cay nhiều và nóng, khi tươi hơi chua. Nếu hái quá
muộn, chỉ cần để quá 5 – 7 ngày, quả bóc ra đã mềm, nhấm thấy ngọt, chất cay đã
hết, đó là sa nhân đường, kém giá trị hơn vì ít tinh dầu, khó bảo quản, dễ bị ẩm
mốc. Nhưng nếu hái sớm quá, quả còn non, bóc ra hạt vẫn còn non trắng hay hơi
vàng, nhấm thấy cay nhưng không chua, cũng kém giá trị. Để đạt chất lượng dược
liệu quả sa nhân hái đúng tuổi phải đựơc chế biến ngay, tránh quả bị thối hỏng, khi
hái để cả chùm quả, hoặc phơi sấy trong 5 ngày đêm là được.
Sa nhân là thuốc có vị cay, tính ấm, đi vào 2 kinh tỳ và vị có tác dụng hành khí,
hóa thấp, kiện tỳ, ôn trung chỉ tả, an thai. Chủ trị các chứng tỳ vị ứ trệ do thấp trở,
tỳ hàn tiết tả (tiêu chảy do tạng tỳ bị lạnh)…
Sa nhân
Một số bài thuốc sử dụng sa nhân
Chữa lạnh bụng, đầy hơi, tiểu tiện không thông ở phụ nữ có thai: Sa nhân 100g tán
nhỏ, vỏ quýt, vỏ vối, vỏ rụt, thanh bì, thần khúc, mạch nha mối thứ 2g tán nhỏ, rây