VỢ NHẶT
– Kim Lân
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tác giả
Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê quán: Phù Lưu, Từ
Sơn, Hà Bắc. Sở trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là xóm làng
quê với người dân cày Việt Nam. Viết rất hay về những thú chơi dân dã đồng quê
như chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi núi non bộ,… mà ông gọi là thú “phong
lưu đồng ruộng”.
Tác phẩm, 2 tập truyện ngắn: “Nên vợ nên chồng” (1955) và “Con chó xấu xí”
(1962).
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ
“Vợ nhặt” có tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư” - viết ngay sau Cách mạng tháng
Tám. Bản thảo chưa in, 1954 viết lại.
2. Chủ đề
Qua câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ, tác giả nói lên niềm cảm thông và
trân trọng hạnh phúc muộn mằn và niềm hy vọng về một sự đổi đời của người
nông dân năm đói Ất Dậu.
3. Tóm tắt
Cụ Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò chở thuê. Đã nhiều tuổi, thô kệch, có
tính vừa đi vừa nói lảm nhảm như kẻ dở hơi. Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ
con ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm ró. Trận đói kinh khủng đang diễn
ra, người chết đói như ngả rạ. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, hắn hò một
câu vượt dốc rất tình. Một cô gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười
tít. Lần thứ hai, Tráng gặp lại thị, trông khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi, áo quần tả
tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách móc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc
do Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tráng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ.
Xóm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán,
có phần lo ngại. Trong nhá nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nói chuyện với nàng dâu
mới. Lần đầu nhà Tráng có dầu thắp đèn… Tiếng ai hờ khóc người chết đói ngoài
xóm lọt vào. Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới quét dọn trong nhà
ngoài sân. Bữa cơm – cháo cám – đón nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể
chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung
sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù
như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật. Tráng nhớ lại lá
cờ đỏ bay phấp phới hôm nào…
4. Ý nghĩa nhan đề và ý nghĩa tình huống truyện
4.1.Giải thích ý nghĩ nhan đề “ Vợ nhặt”
Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. "Nhặt" đi với
những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có
thể "nhặt" ở bất kì đâu, bất kì lúc nào . Nhưng "vợ" lại là sự trân trọng. Người vợ
có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng
"nhặt" vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói
1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc
sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
4.2. Ý nghĩa tình huống truyện Vơ nhặt
Tràng là một nhân vật có ngoại hình xấu. Đã thế còn dở người. Lời ăn tiếng nói
của Tràng cũng cộc cằn, thô kệch như chính ngoại hình của anh ta. Gia cảnh của
Tràng cũng rất ái ngại. Nguy cơ "ế vợ" đã rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng
khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám. Trong lúc không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến
chuyện vợ con của anh ta thì đột nhiên Tràng có vợ. Trong hoàn cảnh đó, Tràng
"nhặt" được vợ là nhặt thêm một miệng ăn cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa
cho mình, đẩy mình đến gần hơn với cái chết.
Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước
mắt. Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, cùng bàn tán, phán đoán rồi cùng nghĩ: "biết có
nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?", cùng nín lặng. Bà cụ Tứ, mẹ
Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi "cúi đầu nín lặng" với
nỗi lo riêng mà rất chung: "Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói
khát này không?" . Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình:
"Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ". Thậm chí sáng
hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.
Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ lại vừa hợp lí. Qua đó, tác
phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.
5. Người và cảnh được nói đến trong truyện
5.1. Cảnh
Xóm ngụ cư một buổi chiều tàn và một buổi sáng.
Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Gió từ đồng thổi vào ngăn ngắt.
Dãy phố úp súp, tối om, không một ánh đèn. Dưới gốc đa, gốc gạo, bóng những
người đói đi lại dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu từng hồi thê
thiết. Mùi đống rấm khép lẹt tử khí. Tiếng hờ khóc tỉ tê của ai có người thân mới
chết đói…
Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư. Khắp các lều chợ, người đói xanh xám như
những bóng ma nằm ngổn ngang. Sáng nào cũng có ba bốn cái thây nằm còng
queo bên đường. Mùi ẩm thối của rác, mùi gây xác chết vẩn lên.
Buổi sáng sau ngày Tráng có vợ, tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ lượn vòng
trên nền trời như đám mây đen. Đó là những nét vẽ rất điển hình làm hiện lên
cảnh chết đói vô cùng thê thảm của xóm thôn Việt Nam cuối năm 1944, đầu năm
1945.
5.2. Nhân vật
a- Tràng:
đã lớn tuổi, nhà nghèo, thô kệch, dân ngụ cư, kéo xe bò thuê. Chỉ một câu
hò ỡm ờ, 4 bát bánh đúc, 2 hào dầu, mua một cái thúng mà nhặt được vợ. Tràng
vỗ vào túi tiền, nói một câu bồi: “Rích bố cu!” Thổ lộ với thị: “làm đếch gì có
vợ?”. Khoe hai hào dầu mới. Vươn cổ thổi tắt ngọn đèn. Cười khì khì… Đó là
những nét vẽ hóm hỉnh về anh cu Tràng. Khi nhặt được vợ, Tràng rất lo trước nạn
đói biết có nuôi nổi mình không lại còn đèo bòng, nhưng hắn đã chặc lưỡi một
cái: “Chặc, kệ!”. Sáng hôm sau nhặt được vợ, Tràng thấy cái gì cũng “thay đổi
mới mẻ khác lạ”. Trong lòng hắn tràn ngập “một nguồn vui sướng phấn chấn”.
Hắn nghĩ tới bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn ăn cháo cám, thần
mắt nhớ lại lá cờ đỏ và đoàn người đói đi phá kho thóc Nhật mà hắn mới gặp hôm
nào. Với Tràng, hạnh phúc muộn mằn đến bất ngờ, lòng anh chứa chan hy vọng
về một sự đổi đời.
b- Bà cụ Tứ:
Già nua. Goá bụa. Nghèo khổ. Chỉ có một mụn con trai thì thô kệch. Lo
chết đói. Bà hiền lành, phúc hậu khi nói chuyện với nàng dâu. Bà tủi thân về phận
nghèo hèn của hai mẹ con. Rất thương con và thương nàng dâu mới. Lo xa về cái
đói, nhưng vẫn tin tưởng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…” Bữa cháo cám mà bà
nói toàn chuyện vui mai sau. Nước mắt bà chảy ra vì vui, vì lo buồn, vì con bà đã
“có vợ được”. Bà cùng con dâu thu dọn nhà cửa, vườn tược… một sự đổi đời hé
lộ đầy hạnh phúc. Không còn “bủng beo u ám”, mặt bà đổi “rạng rỡ hẳn lên”…
Bà cụ Tứ là hiện thân của lòng mẹ.
c- Vợ của Tràng
Không quê quán. Không người thân thương. Không tên tuổi. Sắp chết đói: áo
quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn
thấy hai con mắt. Giữa trận đói, chẳng có cheo cưới gì, chị đã thành vợ nhặt của
Tràng. Thật chua chát, “Cái giá” của người con gái chỉ có 4 bát bánh đúc, 2 hào
dầu, một cái thúng. Bữa cơm đầu tiên thị ăn ở nhà chồng là bát cháo cám! Nỗi
đau khổ, tủi nhục của thị cũng là của nhân dân ta một thời mà hơn 2 triệu đồng
bào ta đã chết đói. Trở thành vợ Tràng, thị thay đổi hẳn “hiền hậu đúng mực”…
5. Kết luận
Chất liệu cuộc sống được tái hiện một cách chân thực cảm động. Tình huống
truyện là nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của Kim Lân. Truyện giàu tính
nhân bản. Sau bóng tối của người dân cày lầm than là một rạng đông về hạnh
phúc và ấm no đang dần đến. Cách suy nghĩ và tình thương của lòng mẹ là những
nét vẽ cảm động, đặc sắc nhất của truyện ngắn “Vợ nhặt” này. “Vợ nhặt” còn có
giá trị hiện thực sâu sắc: tố cáo tội ác của Pháp Nhật vơ vét thóc lúa của nhân dân
ta, thủ phạm gây ra nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945, làm hơn 2 triệu đồng
bào ta bị chết đói./.
B. CÁC ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1: Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để làm sáng tỏ ý kiến sau:
“Dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng những người dân xóm ngụ cư vẫn yêu
thương và khao khát hạnh phúc”.
I. Đặt vấn đề
KL là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên
thủy” của cuộc sống nông thôn. Bằng tình cảm, tâm hồn của một con người vốn là
con đẻ của đồng ruộng, sau cách mạng KL có nhiều truyện ngắn hay viết về mảng
đề tài này, tiêu biểu là tác phẩm “Vợ nhặt”.
Ở truyện ngắn này, KL đã có những khám phá mới mẻ về người lao động:
dù bị….hp.
II. Giải quyết vấn đề
Giới thiệu tác phẩm:
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”, xuất bản năm
1962, tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư”. Sau này tác phẩm được KL viết lại và
đổi tên.
- Toàn bộ câu chuyện xoay quanh tình huống: anh cu Tràng dân xóm ngụ cư
nhặt được vợ trong những ngày tối sầm vì đói khát.
Qua đó nhà văn muốn thể hiện cái nhìn chân thực về cuộc sống và số
phận của người nông dân trong nạn đói 1945 và vẻ đẹp sâu sắc trong tâm hồn
họ.
1. Hoàn cảnh khốn cùng
- Bức tranh ngày đói được dựng lên bằng: hình ảnh, âm thanh, mùi vị.
•Câu chuyện mở ra trong không khí thê thảm của người đói. Cái đói đã hiện
ra ở những hình ảnh ghê rợn thảm thương: bóng người xanh xám như bóng ma.
Cái đói làm cho con đường về làng trở nên khẳng khiu, lũ trẻ ngồi ủ rũ dưới
những xó tường không buồn nhúc nhích.
•Âm thanh của tiếng quạ kêu cứ gào lên từng hồi thê thiết, càng khiến bức
tranh ngày đói trở nên ảm đạm.
•Bao trùm lên toàn bộ bức tranh ngày đói là mùi thối của rác rưởi và mùi
gây của xác người.
Tất cả những âm thanh, hình ảnh, mùi vị đó gợi lên bầu không khí chết
chóc của cõi âm, cõi địa ngục. Qua những trang văn của KL ta như được trải
lòng cùng nỗi đau của cả dân tộc.
- Không chỉ dừng lại ở bức tranh chung, cái đói thực sự lan đến từng gia
đình, đe dọa từng sinh mạng.
•Trong những ngày đói, miếng ăn trở thành vấn đề cấp thiết. Tất cả mọi
người đều lo lắng cho sự tồn tại, giằng co giữa sự sống và cái chết. Ranh giới ấy
thật mong manh. Cái đói đã đẩy người lao động đến bước đường cùng: giá trị con
người trở nên rẻ rúng đến thảm hại. Người ta có thể nhặt được vợ như nhặt bất kì
cái rơm cái rác vương trên đường. Tràng chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy lời
tầm phào, tầm phơ mà lấy được vợ.
Cái đói đã đẩy người vợ nhặt đến bước đường cùng, làm xấu đi cả nhân
hình, nhân tính. Vì đói mà thị tả tơi, gầy sọp hẳn đi đến Tràng cũng không nhận
ra. Vì đói mà thị trơ tráo bám lấy Tràng, gạ gẫm miếng ăn dù mới quen biết. Và
thị đã không ngần ngại theo Tràng về nhà khi anh ta nói đùa “có về với tớ thì ra
khuôn hàng lên xe cùng về”.
Thân phận con người đã đẩy xuống hạng bèo bọt.
•Cái đói còn hiện ra thảm hại trong gia đình Tràng: đêm tân hôn diễn ra
trong tiếng hờ khóc tỉ tê, mùi đốt…Bữa ăn đón dâu mới chỉ có nùm rau chuối thái
rối, một đĩa muối ăn với cháo…Mọi người ăn mà không dám nhìn nhau trong khi
ngoài đường tiếng trống thúc thuế vẫn cứ dồn dập. Thật ai oán, xót xa.
Qua những trang văn của KL ta hiểu nỗi khốn cùng của người nông dân
trong nạn đói 1945 và càng hiểu hơn tội ác của thực dân P và phát xít Nhật đã
bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay gây lên thảm cảnh đau đớn. Đó cũng là giá trị
hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.
2. Nhưng nét đặc sắc của tác phẩm là tác giả đã phát hiện ra vẻ đẹp trong
tâm hồn con người “dù bị…”
Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của từng nhân vật từ sau khi Tràng
nhặt được vợ
2.1. Tràng
- Tràng là người nông dân nghèo, là thành phần dân xóm ngụ cư, cái đói và
miếng ăn vẫn là sự đe dọa thường xuyên đối với con người này. Thế mà bỗng
dưng giữa ngày đói T lại nhặt được vợ, khiến anh không khỏi lo lắng. Mới đầu
anh cũng chợn nghĩ “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng”. Nhưng ngay sau đó T lại tặc lưỡi “chặc! kệ”. Nghe có
vẻ tầm phơ, tầm phào nhưng thực là khát vọng hạnh phúc vốn sẵn có trong tâm
hồn mà chính T cũng không ý thức hết.
- Sau sự quyết định táo bạo ấy là cách xử sự đầy ân tình của T đối với vợ:
đưa vợ vào hàng cơm chén một bữa no nê, mua cho thị một cái thúng con và sẵn
sàng tiêu hoang vì hạnh phúc của mình: bỏ ta 2 hào mua dầu thắp sáng, không hề
có một thái độ khinh thị mà đầy trân trọng. Ở đây có sự đồng cảm, tương thân,
tương ái.
- Tâm trạng trên đường về nhà:
•Niềm khao khát hạnh phúc đã có sức biến đổi từ một anh cu T thô kệch
vụng về, trở thành người đàn ông thực sự với những cảm xúc và cảm giác tinh tế.
•Niềm vui đã theo bước chân T về xóm ngụ cư. Khác với vẻ mệt mỏi hàng
ngày hôm nay trên nét mặt T có “vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười
một mình và hai con mắt sáng lên lấp lánh”.
• Niềm hạnh phúc mới khiến T trở nên lãng mạn. Giữa không khí vắng vẻ,
thoải mái T cũng “định nói với thị một vài câu rõ tình tứ”. Và trong chốc lát “T
hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát
ghê gớm đang đe dọa…chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.
Niềm hạnh phúc đã hiện hình ở người đàn ông thô tháp mộc mạc này “một cái gì
mới mẻ, lạ lắm…sống lưng”.
- Tâm trạng trong buổi sáng hôm sau:
•Buổi sáng thức dậy, T được sống trong những suy nghĩ, cảm xúc rất mới
mẻ. T thấy “trong người êm ái, lửng lơ như từ giấc mơ đi ra”.
•Những cảnh vật quen thuộc hàng ngày mà hôm nay T thấy thân thiết lạ và
trở nên thấm thía cảm động: bà cụ Tứ thì lúi húi giẫy cỏ, vợ hắn quét lại cái sân,
tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt. Âm thanh của tiếng chổi gieo vào lòng hắn cảm
giác bình yên, ấm cúng “bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà
của hắn lạ lùng”. Những suy nghĩ đó chứng tỏ T ý thức đầy đủ trách nhiệm chăm
lo cho gia đình.
- Hình ảnh Việt Minh
Trong bữa cơm ngày đói, giữa những miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn
bứ trong cổ họng” T thoáng thấy hiện lên hình ảnh lá cờ trên đê Sộp và đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật. Hai tiếng Việt Minh vang lên cùng với hình ảnh
lá cờ đỏ sao vàng bám riết tâm trí T, đồng thời là niềm nuối tiếc vấn vơ.
Cách kết thúc khẳng định: con người như T dù bị đẩy đến bước đường
cùng vẫn kháo khát hướng tới tương lai, khao khát hạnh phúc. Ý tưởng của nhà
văn thể hiện qua nhân vật thật sâu sắc.
2.2. Bà cụ Tứ
- Thấm thía nỗi trớ trêu của số kiếp
Bà cụ Tứ đánh giá, nhìn nhận việc T lấy vợ từ góc độ và tâm trạng khác. Là
người đã từng trải, trước lời thông báo của T, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà đã cố
kìm nén nỗi lòng mình nhưng “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng
nước mắt”. Đó là những giọt nước mắt đầy ai oán xót thương cho số kiếp đứa con
cho cảnh gia đình nghèo hèn của mình. Chính vì vậy, bà không tránh khỏi nỗi âu
lo: “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?”.
- Cùng với nỗi lo âu là cảm giác thương xót, cảm thông cho người đàn bà
mới về làm dâu mình “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy
con mình. Mà con mình mới được có vợ”. “Mừng lòng” chứ không phải “bằng
lòng” bởi dù cảnh gia đình nghèo khổ nhưng mơ ước về sự sum họp hạnh phúc
luôn thường trực trong tâm thức người mẹ nghèo này.
Cử chỉ của bà cụ Tứ khiến ta cảm động về sự cưu mang đùm bọc của người
lao động theo đúng tinh thần lá lành đùm lá rách.
- Cảm động hơn nữa là người mẹ già không nguôi khao khát hạnh phúc.
Người mẹ gần đất xa trời này lại là người chan chứa nhiều nhất những hi vọng,
nói nhiều nhất đến tương lai. Trước việc T có vợ người mẹ nghèo không khỏi xót
xa, tủi cực bởi người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn lên làm
nổi…còn con mình thì…Nhưng nỗi xót xa ấy nhanh chóng qua đi để lại trong tâm
trí người mẹ nghèo vẫn là niềm khát khao hạnh phúc, hướng về sự sống, tương lai
của con mình.
Bà đã an ủi con mình bằng triết lí, bằng niềm tin của người nghèo: “ai giàu
ba họ, ai khó ba đời”. Đó là niềm tin rất đáng trân trọng bởi nó nảy nở trong hoàn
cảnh khốn cùng.
- Đặc biệt vào buổi sáng hôm sau người mẹ ấy đã có những thay đổi mới
mẻ. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn, “cái mặt bủng beo u ám” hàng ngày của
bà hôm nay “rực rỡ hẳn lên”.
•Trong bữa cơm ngày đói chỉ có lùm chuối thái rối, ít muối ăn với cháo
nhưng bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Hình ảnh đàn gà
sinh sôi nảy nở cũng là biểu hiện của niềm tin, khát vọng hạnh phúc trong tâm
hồn người mẹ nghèo.
•Trong hoàn cảnh khốn cùng vì đói nghèo người mẹ nghèo không nghĩ tới
csi chết mà hướng về sự sống, tương lai.
2.3. Chị vợ nhặt
- Thị chính là nạn nhân của cái đói. Cái đói làm thị xấu đi cả nhân hình, nhân
tính. Vì đói mà thị hạ mình xuống, chấp nhận cái tiếng vợ nhặt, vợ theo. Nhưng
ngay trong hành động tưởng liều lĩnh ấy nghĩ kĩ đó cũng là biểu hiện của niềm
khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Việc theo T về làm vợ, vừa để chạy trốn cái
đói nhưng đồng thời cũng là hành động đi tìm sự sống, đi tìm hạnh phúc cho
mình.
- KL đã rất tinh tế khi điểm vào câu chuyện vài biểu hiện thất vọng về hoàn
cảnh của T cũng chẳng khác gì mình: “thị cố nén một tiếng thở dài”.
- Nhưng ở người đàn bà này vẫn thường trực một niềm khát khao sống, khát
khao hạnh phúc nên dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh. Thị có sự thay đổi hẳn. Trên
đường về nhà thị đi sau T ba, bốn bước, đầu hơi cúi, nón rách che đi nửa mặt
“rón rén, e thẹn”. Những chi tiết về cử chỉ, ngoại hình cho thấy rõ tâm trạng của
một cô dâu mới khi về nhà chồng.
•Không còn đâu người đàn bà chao chát, chỏng lỏn T gặp hôm trước, khi đã
là nàng dâu thị trở nên là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, nền nã, ra vào thu
vén nhà cửa… Sự thay đổi ấy chính là thái độ vun đắp cho hạnh phúc gia đình.
- Trong bữa cơm “hai con mắt thị tối sầm lại” khi nhìn thấy bát cháo cám
nhưng “thị điềm nhiên và vào miệng”. Câu hỏi về tiếng trống thúc thuế, thái độ
ngạc nhiên khi thấy ở đây vẫn đóng thuế và câu chuyện nửa chừng về những
người TN, Bắc Giang cho thấy đã có một luồng gió thổi vào tâm hồn thị. Cũng
như T, thị đang nghĩ về ngày mai tươi sáng.
2.4. Dân xóm ngụ cư
- Cùng với gia đình T, dân xóm ngụ cư cũng là hình ảnh bổ sung làm rõ hơn
cho chủ đề tác phẩm. Đang sống âm thầm lặng lẽ trong cái đói, người dân xóm
ngụ cư chợt xôn xao bừng sáng hẳn lên trước việc T đón vợ về. Dường như “có
cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Luồng
gió mát ấy chính là ý thức về sự sống, niềm khao khát hạnh phúc vẫn thường trực
trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư.
Trong bức tranh bi thảm ngày đói những người dân xóm ngụ cư không
nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống. Vẻ đẹp lành mạnh khỏe khoắn ấy trong
tâm hồn người lao động mà KL phát hiện ra hôm nay có gì đó thật gần gũi với
tâm hồn người lao động trong ca dao:
Một cái trứng ung…
Còn da lông mọc, còn trồi nảy cây”
Niềm khao khát sống, niềm tin vào tương lai đã tạo sức mạnh để người lao
động vượt qua thử thách. Phát hiện ra vẻ đẹp này trong tâm hồn người lao động
tác phẩm của KL mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
III. Kết thúc vấn đề
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo KL đã tái hiện thành công diễn biến tâm
trạng của người dân xóm ngụ cư quanh việc T nhặt được vợ.
Đi sâu vào khám phá diễn biến ấy người đọc hiểu hơn vẻ đẹp trong tâm hồn
người lao động. Dù ở hoàn cảnh khốn cùng họ vấn nghĩ đến sự sống tương lai.
Phát hiện ra vẻ đẹp đó, nhà văn đã tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Qua tác phẩm
giúp ta có niềm tin vào cuộc sống, tương lai.
Đề 2: Một trong những nét hấp dẫn của truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây
dựng được tình huống truyện độc đáo.
Hãy phân tích tác phẩm làm sáng tỏ.
I. Đặt vấn đề
- Giới thiệu nhà văn KL.
- Giới thiệu tác phẩm “Vợ nhặt”.
Để thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm KL đã có những sáng tạo trong nghệ
thuật viết truyện: một trong những sáng tạo đó là tạo ra tình huống truyện độc
đáo hấp dẫn, làm nên sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm.
II. Giải quyết vấn đề
1. Vai trò của tình huống
- Trong nghệ thuật viết truyện ngắn sáng tạo tình huống là một khâu then
chốt. Tình huống truyện là những sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn
sáng tạo tổ chức sắp xếp để từ đó bản chất của nhân vật được bộc lộ rõ nét, tư
tưởng của tác giả được thể hiện trọn vẹn. Nói như Nguyễn Minh Châu “tình
huống truyện được ví như lát cắt trên thân cây từ đó có thể thấy được đời thảo
mộc”.
- Việc tạo tình huống là rất quan trọng, nó “giống như tạo tứ cho một bài
thơ” (Nguyễn Đăng Mạnh).
- Tài năng sáng tạo của nhà văn được thể hiện trước hết ở việc tạo tình
huống truyện. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” KL đã sáng tạo một tình huống
truyện độc đáo: tình huống anh cu T nhặt được vợ giữa những ngày tối sầm vì đói
khát chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy câu tầm phơ, tầm phào.
2. Tình huống lạ và độc đáo
- Đây là một tình huống lạ và độc đáo vì nó đã làm đảo lộn các giá trị: T vốn
là một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân xóm ngụ cư. Với lai lịch ấy T khó
lòng kiếm được vợ. Thế nhưng bỗng dưng T lại nhặt được vợ một cách dễ dàng
như một chàng tố số đào hoa. Từ chỗ ế ấm, T trở thành sang trọng, vô giá.
- Càng lạ hơn bởi sự có vợ của T lại diễn ra trong cảnh đói quay đói quắt,
mạng sống còn khó khăn nói chi đến chuyện đèo bòng. Chuyện có vợ của chàng
trở thành ngược đời. Vì thế chưa ở đâu, địa vị người vợ trở nên thê thảm đến thế,
và cũng chưa bao giờ hạnh phúc trở nên mạo hiểm mong manh đến thế.
- Cảnh nên vợ nên chồng của T lại càng lạ lùng có một không hai, thiếu tất
cả nhưng cuối cùng lại đủ cả: không có một nghi lễ tối thiếu, không có một sự
chuẩn bị, không có một chút hình thức dẫu chỉ là lời nói suông như trong đám
cưới Dần nhưng lại có rất nhiều sự trân trọng nhau, sự gắn bó kết nứa nên đôi.
Như thế là họ đã có tất cả.
- Khai thác tình huống độc đáo, mạch truyện cư thế phát triển một cách hấp
dẫn tự nhiên, tâm lí và tình cảm của nhân vật được bộc lộ rõ nét và cũng từ đó mà
sáng lên tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
3. Tác dụng
a). Tình huống lạ lùng đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người cả T
- Việc T dẫn người đàn bà về khiến người dân xóm ngụ cư xôn xao, trẻ con
có dịp trêu ghẹo “chông vợ hài”, người lớn vừa tò mò, vừa ái ngại, người ta xì
xào bàn tán, người ta lo lắng cho T: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về.
Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”.
- Không chỉ có dân xóm ngụ cư mà bà cụ Tứ- mẹ T cũng ngạc nhiên. Người
mẹ nào chẳng mong con mình có vợ. Nhưng việc T có vợ khiến bà cụ Tứ cảm
thấy đó là điều không tưởng. Bà không tin ở mắt mình “tự dưng bà lão thấy mắt
mình nhoèn ra”. Nghe tiếng người đàn bà chào, bà không tin ở tai mình, trong óc
bà vang lên một loạt những câu hỏi.
- Ngay cả T người trong cuộc cũng không hết ngỡ ngàng trước việc mình có
vợ thâm chí đến tận sáng hôm sau việc hắn có vợ vẫn khiến hắn ngỡ ngàng như
không phải.
b). Qua tình huống truyện, chủ đề tư tưởng của tác phẩm được bộc lộ rõ:
những con người bị hoàn cảnh đẩy đến mức khốn cùng nhưng họ không nghĩ đến
cái chết mà nghĩ đến sự sống
- phân tích diễn biến tâm trạng của T, bà cụ Tứ, vợ nhặt (đề 1)
c). Qua tình huống đã làm nổi bật tư tưởng chủ đề
- Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, con người dù bị đẩy vào hoàn cảnh
khốn cùng vẫn khát khao sống, khát vọng về sự sống đã chiến thắng.
- Câu chuyện mở ra trong bóng chiều chạng vạng, khi đôi trai gái dắt nhau
về xóm ngụ cư. Họ đi trong sự bao vây của cái chết. Những bóng người đói…,
tiếng quạ…mùi gây…thậm chí ngay cả khi lên giường ngủ vẫn còn tiếng khóc tỉ
tê.
- Nhưng “sự sống chẳng bao giờ chán nản”, câu chuyện khép lại bằng cảnh
buổi sáng đẹp trời. Gia đình T lao vào cuộc sống mới: họ cùng nhau thu vén nhà
cửa cho quang đãng, sạch sẽ, tươm tất hơn. Những con người này không định
sống tạm bợ mà muốn sống lâu dài, đàng hoàng. Cái sống đã tuyên chiến với cái
chết.
Truyện vợ nhặt có thể xem là một bài ca sự sống.
III. Kết thúc vấn đề
KL đã xây dựng lên một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn của thiên
truyện. Qua đó thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Tác phẩm của KL chính là một bài ca về sự sống, là lời khích lệ động viên
con người phải biết hướng tới sự sống, tin tưởng ở tương lai.
Đề 3: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt”
I. Đặt vấn đề
- Giới thiệu nhà văn KL
- Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt:
•Xuất xứ.
•Nội dung chính.
•Giá trị nhân đạo sâu sắc tạo nên nét hấp dẫn cho tác phẩm.
II. Giải quyết vấn đề
1. Giải thích khái niệm nhân đạo
- Cảm hứng nhân đạo là cảm hứng truyền thống của văn học và con người
Việt Nam. Cốt lõi của tinh thần nhân đạo là tình yêu thương con người. Nó biểu
hiện ra ở thái độ cảm thông, chia sẻ với mọi nỗi khổ đau, bất hạnh của con người,
là sự trân trọng, là niềm tin ở những phẩm chất tốt đẹp của con người. Nó còn thể
hiện ở thái độ đồng tình và khao khát phấn đấu cho con người để sống sung
sướng, tự do trong hoàn cảnh xã hội có đấu tranh giai cấp. Lòng nhân đạo còn thể
hiện ở tinh thần hướng tới tương lai, chỉ ra được con đường giải thoát cho người
lao động.
- Trong tác phẩm “Vợ nhặt” tác giả lấy bối cảnh là nạn đói 1945 – một hoàn
cảnh xã hội điển hình nên càng thấm thía hơn tinh thần nhân đạo.
2. Sự thể hiện giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
a). Lòng nhân đạo thể hiện trước hiện ở thái độ cảm thông của mình với nỗi
khổ đau bất hạnh của con người trong xã hội cũ.
- Không hiểu về người nông dân, không có một thái độ trân trọng có lẽ KL
không thể tái hiện được bức tranh về hoàn cảnh bi đát khốn cùng của người nông
dân trong nạn đói thê thảm 1945 chân thực đến thế.
•Bức tranh chung của ngày đói thật thảm thương: hình ảnh, âm thanh, mùi
vị.
•Không chỉ dừng lại ở đó KL còn giúp ta hiểu hơn nỗi bế tắc, khổ đau của
từng gia đình, từng số phận, trong ngày đói
~ thân phận chị vợ nhặt (đề 1)
~ gia cảnh nhà T: một căn nhà dúm dó, đêm tân hôn, bữa ăn… (phân tích).
- Khai thác tình huống T nhặt được vợ nếu ở cây bút bình thường rất dễ trở
thành hài hước và nhân vật chắc chắn không khỏi dị dạng, méo mó. Nhưng điều
đó đã không xảy ra với ngòi bút Kim Lân. Trong những trang viết của ông có chút
rất riêng của nhà văn xứ Kinh Bắc nhưng đằng sau những chi tiết đó vẫn là một
tấm chân tình nồng hậu.
•Ta có thể cảm nhận được nỗi xót thương, sự cảm thông của nhà văn đối với
con người bị hoàn cảnh đẩy vào sự khốn cùng, bèo bọt trong từng trang văn của
KL. Có được sự cảm thông ấy bởi KL cũng đã từng sống cuộc sống của người lao
động đầy cơ cực như nhà văn nói: “ăn cháo cám thì tôi và bạn tôi đã từng ăn”.
b). Không chỉ dừng lại ở sự cảm thông chiều sâu của tinh thần nhân đạo còn
ở chỗ nhà văn đã phát hiện, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người lao
động, luôn tin tưởng ở bản chất lương thiện của người lao động: con người dù bị
đẩy đến đường cùng vẫn giữ được bản chất lương thiện.
- Vẻ đẹp tâm hồn:
•Tràng cho người đàn bà ăn.
•Mẹ T, bà cụ Tứ, chấp nhận người con dâu.
•Dân xóm ngụ cư.
- Bản chất lương thiện: phân tích hình ảnh chị vợ nhặt sau khi về nhà chồng.
Qua đây thể hiện cái nhìn đầy niềm tin của KL ở bản chất lương thiện
của con người: con người…Phát hiện ra điều đó, ngòi bút KL có tính nhân đạo
sâu sắc.
c). Điều đặc biệt KL còn thấy được bản chất sống khỏe khoắn trong tâm hồn
người lao động: dù bị cái đói, cái chết dồn đuổi đến bước đường cùng, họ vẫn
khao khát sống, khao khát hạnh phúc
- Tràng.
- Bà cụ Tứ.
- Dân xóm ngụ cư.
(đề 1)
d). KL đã thấy được tương lai của họ. Là nhà văn CM, KL không dừng lại ở
những hiện thực u ám, chi tiết kết thúc tác phẩm là một chi tiết giàu ý nghĩa của
thiên truyện.
- Trong bữa cơm đón nàng dâu mới dù chỉ có (…) nhưng câu chuyện của
người vợ nhặt lại nói đến những đoàn người đi cướp kho thóc của Nhật…Trong
óc T hiện ra hình ảnh của lá cờ đỏ sao vàng…Chi tiết này đã hé mở cho chúng ta
thấy con đường giải thoát của người lao động: con đường đến với cách mạng. Chỉ
ra con đường giải thoát cho người lao động tác phẩm của KL có giá trị nhân đạo
sâu sắc.
III. Kết thúc vấn đề
- Khẳng định giá trị nhân đạo – sức hấp dẫn, chiều sâu tư tưởng của tác
phẩm.
- Có được giá trị nhân đạo này bởi KL có sự gắn bó ân tình sâu nặng với
người nông dân.
Đề 4: Phân tích diễn biến tâm trạng của Tràng (bà cụ Tứ) từ sau khi
Tràng nhặt được vợ. Nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
I. Đặt vấn đề
- Giới thiệu nhà văn KL.
- Tác phẩm Vợ nhặt: qua câu chuyện T nhặt được vợ giữa những ngày đói
quay đói quắt đã tạo nên nét tâm lí đặc biệt cho mỗi nhân vật. Qua sự phát triển
tâm lí ấy ý đồ nghệ thuật của tác giả được thể hiện. Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ
được thể hiện khá thành công góp phần tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.
II. Giải quyết vấn đề
1. Giới thiệu nhân vật
- Xuất hiện ở phần sau truyện nhưng lại là nhân vật không thể thiết để làm
nên chủ đề tác phẩm. Bởi vậy nhân vật đã được Kl dành cho nhiều yêu thương
hơn cả.
- Thân phận: là một người mẹ nghèo cả đời khổ cực, lam lũ. Tài sản của
người mẹ đó chỉ là một căn nhà dúm dó, mảnh vườn mọc toàn cỏ dại.
2. Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng
- Giữa những ngày đói, bà cụ Tứ cũng giống mọi người, lần hồi kiếm miếng
ăn và không khổ lo vì sự ám ảnh của cái đói.
- Sẽ chẳng có gì đáng nói trong cuộc đời bà nếu không có một hoàn cảnh đặc
biệt làm nảy sinh tâm trạng phức tạp ở người mẹ nghèo: đó là việc Tràng bỗng
nhiên nhặt được vợ.
3. Diễn biến tâm trạng
a). Trong bóng chiều chạng vạng, nhìn thấy người đàn bà lạ xuất hiện trong
ngôi nhà của mình, nét tâm lí đầu tiên của bà là một thái độ hết sức ngạc nhiên.
- Điều này là hợp lí, bởi bà không thể nghĩ rằng con trai bà – Tràng – vừa
nghèo, vừa xấu lại là dân xóm ngụ cư sao có thể có được vợ một cách dễ dàng
như thế. Hơn nữa lại đang trong những ngày đói khát, lo miếng ăn còn chẳng
xong làm sao có thể nghĩ đến chuyện vợ con.
- Bà không tin ở mắt mình “tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.
Bà lão nhìn kĩ lần nữa nhưng vẫn chưa nhận ra người nào.
- Hàng loạt những câu hỏi xuất hiện liên tiếp “ai thế nhỉ?” “người đàn bà
nào lại đứng ngay đầu giường con mình thế kia?”, “thế là thế nào nhỉ?”. Những
câu hỏi thể hiện thái độ ngạc nhiên hết mức của người mẹ.
- Sau khi nghe T xác nhận “kìa nhà tôi nó chào u!”, “nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy a!”, lòng người mẹ nghèo hiểu ra bao cơ sự vừa ai oán, vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình: “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn lên làm nỗi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình
thì…”.
•Nỗi tủi phận khiến cho “kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt”.
•Càng tủi phận bà càng lo lắng: “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được con đói khát này không?”. Khác với T, nỗi lo của người trẻ tuổi chỉ
thoáng đế rồi đi rất nhanh, bà cụ Tứ lo cho con bằng nỗi lo của người mẹ nghèo
từng trải đã biết thế nào là đói khát. Bởi vậy nỗi lo càng trở nên đớn đau đến quặn
thắt.
•Nhưng rồi khi nhìn người con dâu đứng đó “tay vân vê tà áo rách bợt”
lòng người mẹ nghèo không khỏi xót thương: “người ta có gặp bước khó khăn,
đói khổ này người ta mới lấy đến con mình”. Tấm lòng người mẹ thật bao dung
nhân hậu: không chút coi thường, không một chút khinh rẻ chỉ còn lại là sự đồng
cảm, xót thương.
•Và cũng từ đây xuất hiện trong bà một cảm giác yên lòng “thôi thì bổn
phận bà là mẹ, bà chẳng lo lắng được cho con…May ra mà qua khỏi được cái tao
đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó…”. Một đoạn văn ngắn
nhưng chất chứa biết bao nỗi lòng tâm trạng phức tạp của người mẹ. Sau suy nghĩ
phức tạp giằng xé trong tâm hồn còn lại trong lòng người mẹ là tình yêu thương,
sự cảm thông. Bà đã nhẹ nhàng với nàng dâu: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên,
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói của bà phá đi bầu không khí dồn
nén khiến T “thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”.
- Từ đây tâm trạng của bà chuyển sang niềm vui và hi vọng:
•Bà an ủi, động viên con cũng chính là động viên mình bằng một niềm tin
rất chân thật: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông
trời cho khá…Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái
chúng mày về sau”. Câu nói với con nhưng là nói với chính lòng mình, khơi lên
niềm hi vọng từ triết lí dân gian tuy mơ hồ nhưng không phải không mạnh mẽ.
•Bà bàn với con việc thu xếp làm ăn mai sau:”kể có ra làm được dăm ba
mâm thì phải đấy…hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn
căn nhà…”. Từ việc đối xử với người con dâu cho đến việc sắp xếp lại nhà cửa…
Sự toan tính ấy cho thấy bà không chỉ nghĩ đến cái trước mặt mà nghĩ đến cả cuộc
sống lâu dài sau này.
Với khả năng đi sâu vào diễn biến tâm lí nhân vật, diễn tả thật xúc động
tâm trạng nhân vật, qua đó nhà văn giúp ta hình dung rõ hơn nghịch cảnh éo le
của người lao động. Càng ngẫm nghĩ ta càng thấy ai oán xót thương.
- Hạnh phúc mới mẻ của đứa con khiến người mẹ có nhiều đổi thay khác lạ:
bà dậy sớm cùng con thu vén nhà cửa…Và hôm nay “cái mặt bủng beo u ám của
bà rạng rỡ hẳn lên”.
- Cảm động hơn là hình ảnh người mẹ nhẹ nhàng bảo người con dâu dọn
cơm ăn. Bà đon đả múc cho con trai và con dâu bát cháo cám rồi pha trò động
viên con…Dường như bà cố gắng bằng tấm lòng người mẹ để bù đắp, để làm mất
đi cái phần tủi sầu, để hạnh phúc của con thêm phần trọn vẹn. Ta biết bên trong
cái vẻ mặt tươi cười ấy lòng mẹ đang thổn thức.
- Trong bữa cơm bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau
này. Hình ảnh đàn gà là biểu tượng của sự ấm no và sinh sôi nảy nở.
- Nhưng niềm vui của bà mẹ đã không trọn vẹn. Bởi vẫn còn đó miếng cháo
cám…vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập. Tội nghiệp thay cái niềm vui của
bà lão – cái niềm vui không cất cánh lên được.
Tác phẩm khép lại rồi mà hình ảnh người mẹ vẫn đọng lại trong tâm trí
chúng ta với biết bao sự cảm thông, yêu thương của một tấm lòng nhân hậu.
4. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
- Diễn tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, cử chỉ, nét mặt…
- Nhiều chỗ nhà văn trực tiếp diễn tả những cảm xúc tinh tế của nhân vật
“một cái gì lạ lắm, mơn man…”
III. Kết thúc vấn đề
- Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí bà cụ Tứ, KL đã “dựng lên hình ảnh
chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng
khiếp năm 1945”. Đó là người mẹ hết lòng yêu thương con, hi sinh tất cả vì con.
Những giọt nước mắt lấp lánh, niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt bủng beo của
người mẹ đã tỏa rạng căn nhà mù tối, niềm tin tưởng vào tương lai “sáng sủa”
hơn của con cháu đã xua đi không khí ảm đạm của ngày đói.
- Khẳng định tài năng của KL trong khả năng khai thác tâm lí nhân vật.
Đề 5: Phân tích nhân vật chị vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà
văn KL. Qua đó nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
I. Đặt vấn đề
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Câu thơ nói về những số phận, những kiếp người trong xã hội cũ, có gì đó
thật gần gũi với người vợ nhặt trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn KL. Sự
xuất hiện của nhân vật góp phần không nhỏ giúp KL thể hiện ý tưởng của mình
và cũng từ hình ảnh ấy để lại bao suy nghĩ ám ảnh trong lòng người đọc.
II. Giải quyết vấn đề
1. Giới thiệu tác phẩm
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” viết lại từ truyện “xóm ngụ cư” được in trong tập
“con chó xấu xí”. Tác phẩm kể về việc nhặt được vợ của anh cu T trong ngày đói
1945. Nhân vật Vợ nhặt là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm, là nhân vật
chiếm được sự quan tâm hiếu kì, tò mò của độc giả. Cũng ở nhân vật này KL đã
thể hiện được giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
2. Phân tích
a). Sự xuất hiện của nhân vật
- Người vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm, thị cùng với T về xóm ngụ
cư trong ánh chiều chạng vạng với vẻ “e thẹn, khép nép” tủi thân, tủi phận “cắp
cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che nửa
mặt”.
- Xuất hiện trên nền bức tranh ngày đói tiêu điều, xơ xác trong khung cảnh
chiều muộn, với những trận gió ngoài cánh đồng thổi về ngăn ngắt, “bóng những
người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Cái dáng vẻ lùi lũi, tội nghiệp kia
gợi lên cảm giác thân phận. Sự xuất hiện của thị như ngầm báo trước với độc giả
về một số phận kém may mắn, trong những ngày đói.
b). Đặc điểm nhân vật
- Số phận:
•Qua lời kể chuyện ta hình dung rõ hơn về lai lịch, số phận của người đàn
bà. Thị không có nghề nghiệp, tài sản gì đáng giá, ngay cả tên gọi cũng không.
Người đàn bà này tiêu biểu cho số phận của người lao độngbị cái đói đưa đẩy đến
bước đường cùng.
•Đã bấy lâu nay thị ngồi “vêu ra” lẫn vào với đám đàn bà, con gái chờ nhặt
hạt rơi, hạt vãi. Cái đói làm thị xấu đi cả ngoại hình lẫn tính cách.
- Ngoại hình:
•Không phải KL nhẫn tâm hay biếm họa gì khi khắc họa chân dung người
đàn bà ấy bằng những nét phác thảo thảm hại: “cái ngực gầy lép”, khuôn mặt
“lưỡi cày xám xịt”, “đôi mắt trũng sâu”, bộ quần áo rách như tổ đỉa.
Những nét ngoại hình ấy phản ánh một bi kịch: con người bị cái đói đẩy
đến bước đường cùng tơi tả đến mức chỉ cách mấy hôm mà T không nhận ra thị,
trông thị gầy sọp đi. Hình ảnh thảm thương của người vợ nhặt là bức tranh chân
thực về nạn đói năm 1945.
- Tính cách:
•Không chỉ bị xấu đi về ngoại hình, cái đói còn làm mất đi ở thị bản tính dịu
dàng, kín đáo vốn có ở người phụ nữ. Chẳng cần úp mở, thị bám nhằng nhẵng lấy
người đàn ông vừa quen, trơ trẽn gạ gẫm: “có ăn gì thì ăn chả ăn giàu”. Khi T
nói “muốn ăn gì thì ăn” tức thì “hai con mắt trũng hoáy của thị” “sáng lên”, thị
đon đả: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Những câu nói nửa đùa nửa thật nhưng
phần thật nhiều hơn khiến người ta chua chát xót xa. Sự thúc giục của dạ dày
khiến người ta quen đi sĩ diện, nhân cách. Và cử chỉ của thị mới thô tục làm sao:
“thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì”. Cái kiểu ăn như thế có lẽ rất lâu rồi thị không được ăn một
bữa cho ra bữa cơm.
•Chính sự dồn đẩy của cái đói khiến thị liều lĩnh ngay cả trong việc hệ trọng
nhất của đời mình, sẵn sàng theo T – người đàn ông vừa quen- chấp nhận thân
phận vợ nhặt, vợ theo dẫu rằng cùng hai tiếng vợ nhặt, vợ theo ấy là sự rẻ rúng
của người đàn bà, là sự đáng đu với số phận. Nhưng thị còn con đường nào khác
hơn giữa những ngày đói quay, đói quắt này.
•Không phải KL ít tình với người lao động, ông vẫn nói về người vợ nhặt
với tất cả sự cảm thông. Những nét vẽ chân thực trên đây chính là cách giúp
chúng ta hiểu hơn số phận cùng cực của người lao động đang bị cái đói dồn đến
bước đường cùng mà nhân vật vợ nhặt là hình ảnh tiêu biểu.
•Ngòi bút nhân đạo của KL với sự cảm thông, tình yêu thương sâu sắc với
nhân vật đã phát hiện bên trong con người vị hoàn cảnh đẩy đến khốn cùng vẫn là
bản chất tốt đẹp, niềm khao khát hạnh phúc, điều này được thể hiện qua sự thay
đổi diễn biến tâm trạng của nhân vật vợ nhặt, từ khi theo T về xóm ngụ cư.
~. Khi còn ở ngoài tỉnh, trên đường cùng T về xóm ngụ cư, người đàn bà
cảm thấy ngại ngùng trước cái nhìn của mọi người. Thị bước đi với dáng vẻ tủi
phận “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt. Hôm nay thị có vẻ rón rén, e thẹn. Trước những lời bàn tán xì xào của mọi
người xung quanh thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia.
~. Về đến nhà T nhìn cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại, thị không giấu nổi tiếng thở dài, “cái ngực gầy lép nhơ
hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Vẻ kín đáo được thể hiện qua dáng ngồi mớm
bên mép giường, mặt bần thần, hai tay ôm khư khư cái thúng. Những chi tiết ấy
chứng tỏ thị vẫn giữ được bản chất con nhà lành.
~. Buổi sáng hôm sau, thị dậy sớm… (đề 1).
Mô tả kĩ sự thay đổi của người đàn bà này từ khi có gia đình, nhà văn
muốn làm bật khát khao sống, khát khao hạnh phúc của nhân vật.
Nhận xét
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
•Nhân vật người vợ nhặt được KL khắc họa bằng bút pháp hiện thực. Có thể
nói đây là một điển hình khá thành công, tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân
trước nạn đói 1945.
•Để xây dựng nhân vật này nhà văn chú ý đến chi tiết ngoại hình, sự thay
đổi trong hành động, tính cách, góp phần khắc họa nhân vật một cách sống động,
chân thực.
•Hình ảnh người vợ nhặt xây dựng thành công tạo nên giá trị cho tác phẩm.
3. Ý nghĩa nhân vật
a). Giá trị hiện thực
- Xây dựng nhân vật vợ nhặt, KL thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình: qua
hình ảnh người vợ nhặt khắc họa số phận khốn cùng của người nông dân trong
cảnh đói 1945. Số phận khổ đau của họ bị đẩy đến bước đường cùng, bế tắc. Từ
đó nhà văn tố cáo thực dân Pháp, phát xít Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng đay.
b). Giá trị nhân đạo
- Nhà văn cảm thông, chia sẻ với những con người bị đẩy vào hoàn cảnh
khốn cảnh. Một câu chuyện được vợ, một người đàn bà tự nhiên theo về làm vợ
nếu ở một cây bút không gắn bó sâu sắc với người lao động thì rất dễ trở thành
một câu chuyện hài hước, một chân dung biếm họa…Nhưng điều đó đã không
xảy ra ở những trang viết của KL bởi như nhà văn nói: “Ăn cháo cám thì tôi và
bạn tôi đã từng.” Chính sự cảm thông chia sẻ ấy đã tạo nên tư tưởng nhân đạo sâu
sắc cho truyện ngắn của KL.
- Trong khi miêu tả con người bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng bi đát như
thế KL vẫn thể hiện thái độ trân trọng, niềm tin sâu sắc ở con người – tin ở bản
chất lương thiện của con người. Bản chất lương thiện ấy dù bị hoàn cảnh vùi dập
vẫn không bị mất đi.
- Vút lên từ câu chuyện còn thể hiện sự đồng tình với những khát khao chính
đáng của con người, khát khao được sống, được yêu, được hạnh phúc.
III. Kết thúc vấn đề
- Tuy xuất hiện không nhiều nhưng nhân vật vợ nhặt có vai trò quan trọng
trong việc thể hiện chủ đề. Xây dựng nhân vật bằng bút pháp hiện thực sâu sắc,
nhà văn tỏ ra tinh tế trong việc lựa chọn những chi tiết miêu tả về ngoại hình.
Những củ chỉ, hành động, ngôn ngữ kể chuyện vừa dân dã vừa độc đáo góp phần
xây dựng hình tượng nhân vât thật độc đáo.
- Nhà văn đã đặt nhân vật trong một tình huống hết sức đặc biệt qua đó hình
tượng nhân vật trở nên sinh động hấp dẫn, góp phần tạo nên giá trị tác phẩm.
Đề 6: Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn
KL.
I. Đặt vấn đề.
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu
của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện
ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. ây là tác phẩm mà
Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất
Dậu ( 1945) của nước ta.
Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của
nhân vật Tràng: nghèo đói,bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng
hạnh phúc.Điều đó được thể hiện qua chính câu chuyện nhặt vợ của anh giữa
ngày đói.
II. Giải quyết vấn đề.
a.Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở
xóm ngụ cư, có mốt mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy, Tràng lại có
một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to rộng như
lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của
hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng,
hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng có một cảnh ngộ thật bất
hạnh và tội nghiệp.
b. Vậy mà, con người có thân phận thấp hèn ấy bỗng nhiên lại trở thành một
chú rể có thể coi là hạnh phúc : Tràng bỗng dưng có vợ.
- Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói
đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một
lạ mà thú vị - đùa mà thật , thật mà cứ như đùa.
b1.Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không
Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái
thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh
ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc như phóng
lao phải theo lao vậy.
à
Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên trong lại
là tất nhiên : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn
Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
b2 .Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : “
Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày,
quên cả đói khát đang đe doạ….Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở
người đàn ông ấy…”. Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà
văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ
ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên lấp lánh, miệng cười tủm
tỉm…
b3. Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”. Tràng thấy mình đổi khác “
trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.”.Tràng “ bỗng nhiên
thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà”; …Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”
à
Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ .
“Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa
lại căn nhà”.So với cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm, hành
động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi
thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng : từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán
đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.Tràng đã thật sự “phục sinh tâm
hồn”- đó chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Ở cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh những người nghèo đói
ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi
phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước
mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những
người như Tràng. => Qua nhân vật Tràng, Kim Lân đã bộc lộ được khả năng
miêu tả tâm lý nhân vật và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn
III. Kết thúc vấn đề.
- Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống
nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn
trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm : Những người đói, họ
không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.
- Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm
nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo : đó là vẻ
đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai
Đề 7: Nêu tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân,
từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực tại xã hội đương
thời.
I
. Đặt vấn đề :
- Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu
của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện
ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”.Đây là tác phẩm mà
Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất
Dậu ( 1945) của nước ta.
- Trong tác phẩm , Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện độc
đáo vừa thể hiện được giá trị tư tưởng , lại vừa thể hiện được giá trị nghệ thuật
của tác phẩm.
II. Giải quyết vấn đề
1/ Thế nào là tình huống? vai trò của tình huống trong một tác phẩm
truyện?
- Có thể hiểu, tình huống truyện chính là bối cảnh, hòan cảnh ( không gian,
thời gian, địa điểm…tạo nên câu chuyện).
- Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn : tình huống hành động; tình
huống tâm trạng; tình huống nhận thức.
Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của
nhân vật; tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc
của nhân vật; thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ”
chân lý của nhân vật. Tình huống càng độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác phẩm
hấp dẫn, ấn tượng, sâu sắc với người đọc.
2. Tình huống truyện của tác phẩm:
-Trước hết, Tràng là một là một người mồ côi cha, ở với mẹ già tại xóm ngụ
cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê .Tràng có một ngoại hình xấu xí ,
thô kệch. .Đã thế lại có phần dở người.Lời ăn tiếng nói cũng thô kệch như chính
ngoại hình của hắn.Có thể nói, nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy , gặp năm đói khủng
khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám .Trong lúc không một ai ( kể cả Tràng) nghĩ
đến chuyện dựng vợ , gả chồng thì đột nhiên Tràng có vợ, mà lại có vợ bằng cách
nhặt được.
- Trong hoàn cảnh ấy, ràng có vợ cũng là phải có thêm một miệng ăn và
cũng là đem thêm tai hoạ về cho mình và mẹ , đẩy mau mình và mẹ đến cái chết.
Như vậy , việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra
nước mắt.Chính điều này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên :
+ Đó là những người dân trong xóm ngụ cư : họ ngạc nhiên, bàn tán, phán
đoán rồi họ cùng nghĩ : “ biết có nuôi nổi nhau qua được cái thì này không?”
+ Còn bà cụ Tứ - mẹ Tràng- lại càng ngạc nhiên . Lúc đầu bà lão không
hiểu , rồi bà “ cúi đầu im lặng” với bao tâm sự vui- buồn lẫn lộn “ biết chúng có
nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
+ Nhất là, ngay chính bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của
mình. “ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ” .Thậm
chí , sáng hôm sau Tràng cảm thấy “ êm ái như từ giấc mơ đi ra”
Tóm lại, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vùa bất ngờ nhưng lại hợp
lý, tạo sức hấp dẫn và nhiều suy nghĩ cho người đọc.
2.Thái độ của nhà văn:
a/ Với người dân lao động:
- Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với
con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình.
+ Ông xót thương cho dân tộc trước thảm hoạ đói chết.
+ Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết ( gia đình,
nhan sắc, tính cách, tên tuổi …).
- Không những vậy , nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh
và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng;cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với
Tràng…
à
Có thể nói : + nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con
người lao động nghèo trước thảm hoạ đau thương , chết chóc.
+ Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt
đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ : một người mẹ giàu tình
thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống
à
đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
b/ Với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống truyện, nhà văn lên
án và tố cáo tội ác của Nhật –Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói nghèo,
chết chóc.Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm
như rác : vợ mà nhặt được .
III. Kết thúc vấn đề. :
- Có thể nói: Tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” thật độc đáo và có ý
nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật sâu sắc.Viết về nạn đói, nhưng Kim Lân
không dừng lại ở việc miêu tả bức tranh ảm đạm ấy , mà còn hướng người đọc
nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo : đó là lòng nhân hậu, sự cưu
mang và niềm tin vào tương lai của họ.