Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính,
trường Đai học kinh tế quốc dân đã giảng dạy em trong thời gian qua, đặc biệt
em xin cảm ơn thầy giáo, TS. Đàm Văn Huệ là người đã trực tiếp hướng dẫn
em trong suốt thời gian thực tập và làm chuyên đề tốt nghiệp. Nhờ sự hướng
dẫn và dìu dắt của thầy cô, em đã tích lũy được những kiến thức cơ bản đáng
quý, đồng thời qua thời gian thực tập và làm chuyên đề, em có điều kiện ứng
dụng kiến thức của mình vào thực tiễn, qua đó giúp em đúc kết được những
kinh nghiệm quý báu để tiếp tục bước trên con đường sự nghiệp sau này. Em
cũng xin chân thành cảm ơn các chị tại Phòng Kinh doanh ngoại tệ và Thanh
toán quốc tế nói riêng và các cô chú, anh chị tại Sở giao dịch Ngân hàng
Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam nói chung đã tạo điều kiện cho
em được thực tập tại đây và hoàn thành chuyên đề này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn
chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự
đóng góp và ủng hộ của thầy cô, anh chị và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn !
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định một đất nước muốn phát
triển một cách bền vững và nhanh chóng thì ngoài việc khai thác tối đa tiềm
năng trong nước, còn phải biết tận dụng “tinh hoa” của nhân loại về khoa học
kỹ thuật, về kinh tế, phát huy lợi thế của kinh tế trong nước thông qua xuất
nhập khẩu. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh
tế đang diễn ra với tốc độ rất mạnh mẽ khiến cho các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới luôn vận động trong một mối tương quan chặt chẽ. Không một
quốc gia nào muốn phát triển mà lại cho phép mình đứng ngoài “cuộc chơi”
chung này. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, sau khi gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới WTO (7/11/2006) và gần đây là thành viên không
thường trực của hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, vị thế và vai trò của Việt
Nam trên trường quốc tế đang ngày càng gia tăng. Đây là cơ hội rất lớn đối
với nền kinh tế nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng. Bởi vì hội
nhập kinh tế quốc tế làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao
động, công nghệ và kỹ thuật diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ hơn. Do đó, cũng
làm cho nhu cầu thanh toán quốc tế của nền kinh tế gia tăng.
Khi hoạt động giao thương, buôn bán giữa các quốc gia được diễn ra một
cách thông thoáng và thuận lợi thì hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân
hàng thương mại cũng có điều kiện để mở rộng và phát triển theo. Thông qua
hoạt động này, vị thế và uy tín của các ngân hàng sẽ được nâng cao không chỉ
trong nước mà còn trên thị trường quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động thanh toán quốc tế, tháng 5/1992, Nhà nước ta đã ban hành
Pháp lệnh cho phép các ngân hàng thương mại tham gia các quan hệ tín dụng
và hoạt động thanh toán quốc tế. Kể từ đó, hoạt động thanh toán quốc tế
không còn là độc quyền của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mà đã trở
thành hoạt động chung của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Ngân
hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam cũng nằm trong số đó.
Trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn Việt Nam, tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển cũng
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
như các hoạt động chính của ngân hàng, đặc biệt qua quá trình thực tập
chuyên đề tại Phòng Kinh doanh ngoại tệ và Thanh toán quốc tế, em nhận
thấy rằng trong những năm gần đây, ngân hàng đã đạt được những thành tích
đáng kể về hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và hoạt động trung
gian thanh toán. Tuy nhiên, trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, Ngân hàng
cũng đang còn một số vấn đề cần giải quyết. Với mục đích tìm hiểu kỹ hơn
những vấn đề lý thuyết về hoạt động thanh toán quốc tế và bước đầu vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, em đã chọn đề tài: ”Mở rộng hoạt động thanh toán
quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn
Việt Nam” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Phạm vi chuyên đề chỉ đi nghiên cứu sâu về hoạt động thanh toán quốc tế
của Ngân hàng trong những năm gần đây, từ đó đưa ra các điểm mạnh, điểm
yếu cũng như một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân
hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam trong lĩnh vực thanh toán
quốc tế.
Chuyên đề được kết cấu theo 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và
Phần kết luận. Phần nội dung được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế của Ngân hàng
thương mại. Chương này tập trung tìm hiểu những vấn đề chung về mặt lý
thuyết của hoạt động thanh toán quốc tế cũng như vai trò của ngân hàng
thương mại.
Chưong 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân
hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam. Chương này đi vào phân
tích tình hình hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam, những kết quả đạt được và những
khó khăn, từ đó tìm ra nguyên nhân.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao
dịch Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Việt Nam. Trên cơ sở lý
thuyết ở chương 1 và những nhận định ở chương 2, chương 3 đưa ra một số
giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động này.
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM
1.1.1 KHÁI NIỆM VỀ NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các ngân hàng. Ngân hàng có thể được định nghĩa theo nhiều cách, tùy theo
cách tiếp cận trên các giác độ khác nhau. Giáo trình Quản trị kinh doanh ngân
hàng của GS. Peter S.Rose định nghĩa ngân hàng trên phương diện các dịch
vụ mà ngân hàng cung cấp : “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất_ đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Theo “Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi” của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành ngày 15/6/2004 thì Ngân hàng thương mại được
định nghĩa như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan...
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính
sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Tuy nhiên, lĩnh vực ngân hàng cho dù có được nhìn nhận dưới góc độ nào
đi chăng nữa cũng đều đi đến một nhận định cuối cùng đó là Ngân hàng là
một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất, có vai trò chủ đạo trong
hệ thống tài chính và trong nền kinh tế của một quốc gia. Điều này thể hiện
qua một số chức năng chính của ngân hàng như sau:
Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, có sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là
chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người cần bổ sung vốn; (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức
là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ
và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Tiền – vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán.
Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận
nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất
định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp
nhận. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim
loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy.
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng
hóa và dịch vụ . Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi
phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh
toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh
toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các
ngân hàng còn thực hiên thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán
qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó càng
được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính
thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia
mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc
tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng , biến
ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ
đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2 CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và
doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định
các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách
có hiệu quả. Một ngân hàng hiện đại thường cung cấp cho doanh nghiệp và
công chúng các dịch vụ sau:
1.1.2.1 Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng được thực hiện đầu tiên là trao đổi
(mua bán) ngoại tệ _ một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy
một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ . Trong thị trường tài chính ngày nay,
mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì
những giao dịch như vậy có độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ
chuyên môn cao.
1.1.2.2 Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các
khoản tiền gửi ( thanh toán và tiền gửi của khách hàng ). Ngân hàng mở dịch
vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.
Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân
hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiền
tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi
suất gấp đôi hay gấp ba lần lãi suất tiết kiệm
1.1.2.3 Cho vay
Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với những người bán ( người bán chuyển các khoản phải thu
cho ngân hàng để lấy tiền trước ). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người mua),
giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi
ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh
tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng
như là một khách hàng tiềm năng. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín
dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng
nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt
là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói
chung là cao song lại lãi lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào
đất.
1.1.2.4 Thanh toán
Khi doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng , họ nhận thấy ngân hàng không
chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh
toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là
người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy
chi trả cho khách ( còn được gọi là séc ), khách hàng mang giấy đến ngân
hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt ( an
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí ) đã góp phần rút ngắn thời
gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở
rộng chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, không chỉ
trong nước mà trên toàn thế giới, cùng với đó là sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, công nghệ ngân hàng hiện đại càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc
kinh doanh, giao thương buôn bán của các doanh nhân.
1.1.2.5 Hoạt động khác
Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho
khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ
biên nhận ( giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành ). Do khả năng chi trả
bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng
như tiền _ dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của
ngân hàng phát hành. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày
nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong
việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý
ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty
kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các
chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền
mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là
cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với
các khoản vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không
muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc
quyền trao đổi lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Ngày nay, Chính
phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện
với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nân ngân hàng có uy tín
trong bản lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo
lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho
khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê ( thay vì bán ) các thiết bị. Rất nhiều
ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết
bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua
thiết bị và cho khách hàng thuê.
Ngoài các nghiệp vụ nói trên, các ngân hàng hiện đại ngày nay còn có thể
cung cấp các nghiệp vụ về tài chính sau:
- Dịch vụ ủy thác và tư vấn
- Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
- Các dịch vụ bảo hiểm
- Các dịch vụ đại lý
1.2 HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NHTM
1.2.1 Khái niệm về hoạt động thanh toán quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay, các mối quan hệ
kinh tế, chính trị thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ và kết quả là hình
thành nên các khoản thu và chi tiền tệ quốc tế giữa các đối tác ở các nước
khác nhau. Các mối quan hệ tiền tệ này ngày một phong phú, đa dạng với quy
mô ngày càng lớn. Chúng góp phần tạo nên tình trạng tài chính của mỗi
nước, có thể ở trạng thái bội thu hay bội chi. Trong các mối quan hệ quốc tế,
các đối tác ở các nước khác nhau, do vậy có sự khác nhau về ngôn ngữ, cách
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
xa nhau về địa lý nên việc thanh toán không thể tiến hành trực tiếp với nhau
mà phải thông qua các tổ chức trung gian, đó chính là các ngân hàng thương
mại cùng với mạng lưới hoạt động khắp nơi trên thế giới.
Thanh toán quốc tế đã ra đời từ lâu, nhưng nó mới chỉ phát triển mạnh mẽ
vào cuối thế kỷ 20 khi mà khối lượng mua bán, đầu tư quốc tế và chuyển tiền
quốc tế ngày càng gia tăng, từ đó làm cho khối lượng các giao dịch thanh toán
qua ngân hàng cũng tăng theo. Việc thanh toán qua ngân hàng làm gia tăng
việc sử dụng đồng tiền của các nước để chi trả lẫn nhau. Thanh toán quốc tế
đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của nền kinh tế của
các quốc gia hiện nay.
Thanh toán quốc tế có thể được định nghĩa từ theo nhiều quan điểm khác
nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể xem xét theo hai khái niệm sau đây:
Thứ nhất, theo Đinh Xuân Trình (Giáo trình Thanh toán quốc tế trong
ngoại thương_1996), “thanh toán quốc tế là việc thanh toán các nghiã vụ tiền
tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan
hệ khác giữa các tổ chức, các công ty và các chủ thể khác nhau của các
nước”.
Thứ hai, theo Trầm Thị Xuân Hương (Giáo trình Thanh toán quốc
tế_2006), “thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ
quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng trên thế giới nhằm phục vụ cho các mối
quan hệ trao đổi quốc tế phát sinh giữa các nước với nhau.”
Từ hai định nghĩa trên đây, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của
thanh toán quốc tế. Trước hết, thanh toán quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn
cầu, phục vụ các giao dịch thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế thông qua
mạng lưới ngân hàng thế giới.
Thanh toán quốc tế khác với thanh toán trong nước là ở đây nó liên quan
đến việc trao đổi tiền của quốc gia này lấy tiền của quốc gia khác. Vì vậy khi
ký kết các hợp đồng mua bán ngoại thương các bên phải thỏa thuận với nhau
lấy đồng tiền của nước nào là tiền tệ tính toán và thanh toán trong hợp đồng,
đồng thời phải tính toán thận trọng để lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi
ro khi tỷ giá hối đoái biến động.
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Tiền tệ trong thanh toán quốc tế thường không phải là tiền mặt mà nó tồn
tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện
chuyển tiền, hối phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ.
Thanh toán giữa các nước đều được tiến hành thông qua ngân hàng và
không dùng tiền mặt, nếu có thì chỉ trong những trường hợp riêng biệt. Do
vậy thanh toán quốc tế về bản chất chính là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế.
Chúng được hình thành và phát triển trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương và
các trao đổi tiền tệ quốc tế.
Thanh toán quốc tế được thực hiện dựa trên nền tảng pháp luật và tập
quán thương mại quốc tế, đồng thời nó cũng bị chi phối bởi luật pháp của các
quốc gia, bởi các chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương và chính sách
ngoại hối của các quốc gia tham gia trong thanh toán.
1.2.2 Vai trò của ngân hàng trong thanh toán quốc tế
Trong quan hệ thương mại, quyền lợi của các bên thường không phải lúc
nào cũng đều thuận lợi như nhau, có những điều kiện tốt cho bên này thì lại
gây khó khăn, cản trở cho bên kia. Do đó, các bên thường xảy ra mâu thuẫn
với nhau, bên nào cũng muốn giành về mình phần thuận lợi hơn. Để giải
quyết mâu thuẫn đó cần phải có sự tham gia của các ngân hàng thương mại
đóng vai trò là trung gian thanh toán , tạo nên sự tin tưởng, thuận lợi cho cả
hai bên.
Mặt khác, tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu ít nhất là hai đối tác từ
hai quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, trong quá trình giao dịch sẽ gặp một số
khó khăn trở ngại như sự bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, mỗi quốc gia lại có
những luật lệ khác nhau về dân sự, chính sách kinh tế, quan hệ đối ngoại...Ở
mỗi nước lại có đồng tiền riêng của mình cũng như chế độ quản lý ngoại hối
riêng. Việc quyết định dùng đồng tiền nào để thanh toán cũng cần phải được
hai bên xem xét và đi đến thỏa thuận. Ngoài ra cũng cần phải kể đến sự xa
cách về địa lý, sự khác biệt về phong tục, tập quán thanh toán. Tất cả những
điểm khác biệt nêu trên thường gây ra trở ngại, khó khăn trong giao dịch,
thanh toán giữa nước này với nước khác. Chính vì vậy, từ xa xưa hoạt động
thanh toán quốc tế rất cần đến sự hỗ trợ của các ngân hàng. Ngày nay, cùng
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngân hàng thì vai trò của
các ngân hàng thương mại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Trước hết, các ngân hàng thương mại sẽ can thiệp, trợ giúp về mặt kỹ
thuật trong thanh toán quốc tế. Thương mại quốc tế là một hoạt động phức
tạp, đòi hỏi sử dụng các kỹ thuật đặc thù về thương mại quốc tế nhằm bảo vệ
quyền lợi của cả người mua và người bán, giúp cho hoạt động thương mại
được tiến hành thuận lợi.
Bằng các nghiệp vụ của mình, ngân hàng trở thành gạch nối giữa hai bên
mua và bán, tùy thuộc vào mức độ quen biết, tin tưởng khác nhau giữa người
mua và người bán, khối lượng và giá trị giao dịch của từng hợp đồng mà ngân
hàng sẽ lựa chọn các phương thức thanh toán khác nhau như chuyển tiền, nhờ
thu, tín dụng chứng từ... cho phù hợp.
Khác với thương mại nội địa, do thương mại quốc tế có sự tham gia của
các đối tác đến từ những quốc gia khác nhau, sử dụng những đồng tiền khác
nhau nên trong thanh toán quốc tế sẽ xuất hiện nhu cầu về ngoại tệ. Để giúp
khách hàng xử lý khoản ngoại tệ cần thiết trong ngoại thương, đồng thời hạn
chế rủi ro về tỷ giá hối đoái, ngân hàng sẽ hỗ trợ các nghiệp vụ như nghiệp vụ
giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi SWAP... để giúp khách hàng giao dịch trên thị
trường hối đoái.
Trong xu thế toàn cầu hóa các hoạt động mậu dịch và tài chính hiện nay,
hoạt động thanh toán quốc tế đòi hỏi ngoài việc phải phù hợp với luật pháp
của từng nước tham gia còn phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế về thanh
toán như Incoterm, UCP500 hay UCP 600…Thêm vào đó, những hàng rào về
ngôn ngữ, phong tục tập quán thanh toán cũng đòi hỏi các ngân hàng phải là
những chuyên gia trong lĩnh vực thương mại quốc tế, có khả năng cung cấp
những thông tin và lời khuyên, có kỹ năng soạn thảo hợp đồng quốc tế nhằm
đưa đến việc ký kết hợp đồng thành công, tránh tối đa những tranh cãi, bất
đồng có thể nảy sinh.
Ngày nay, sự tham gia của các ngân hàng thương mại không chỉ dừng lại
ở sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật mà còn cả về mặt tài chính. Các ngân hàng khi cần
thiết sẽ là người bảo lãnh thanh toán hoặc tài trợ cho các doanh nghiệp thực
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Chẳng hạn, với những hợp đồng ngoại thương
có giá trị lớn, khi vốn lưu động của khách hàng không đủ để thực hiện hợp
đồng, họ sẽ nhờ đến sự trợ giúp của ngân hàng thông qua việc tài trợ vốn hay
bảo lãnh thanh toán. Ngân hàng khi đó vừa là ngân hàng phục vụ người xuất
khẩu (hoặc nhập khẩu), vừa là ngân hàng tài trợ giúp thương vụ được thực
hiện. Ngược lại, trong quá trình tài trợ, muốn đảm bảo đồng vốn tài trợ được
sử dụng đúng mục đích, quản lý được nguồn thu, ngân hàng sẽ tham gia thanh
toán quốc tế với vai trò là ngân hàng thương lượng (Negotiating Bank), ngân
hàng nhờ thu (Collection Bank) hoặc ngân hàng phát hành ( Issuing Bank).
Có thể thấy rằng, ngày nay sự tham gia của các ngân hàng thương mại
trong hoạt động thanh toán quốc tế là một tất yếu và đang ngày càng đóng vai
trò quan trọng. Tuy nhiên, mức độ tham gia của các ngân hàng vào hoạt động
này rất khác nhau, tùy thuộc vào khả năng đáp ứng của mỗi ngân hàng đến
đâu. Để xem xét khả năng đáp ứng của mỗi ngân hàng đối với hoạt động
thanh toán quốc tế, chúng ta cần quan tâm tới “Các phương tiện thanh toán
quốc tế” và “Các phương thức thanh toán quốc tế”, những vấn đề này sẽ
được trình bày trong các phần sau đây.
1.2.3 Các phương tiện thanh toán quốc tế
Các phương tiện lưu thông tín dụng dùng làm phương tiện thanh toán
quốc tế được hình thành trên cơ sở sự phát triển của tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng. Phương tiện lưu thông này được hình thành thông qua các
hợp đồng mua bán hàng hóa và các nghiệp vụ Ngân hàng.
Để tiến hành các nghiệp vụ thanh toán quốc tế được thuận tiện, có hiệu
quả, các bên tham gia thanh toán phải lựa chọn và sử dụng một trong những
phương tiện thanh toán như Séc, Hối phiếu hay Kỳ phiếu. Việc lựa chọn
phương tiện thanh toán này hay phương tiện thanh toán khác phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau. Trước hết, cần xem xét mức độ thường xuyên hay
không thường xuyên của các mối quan hệ thương mại. Thứ hai, cần lưu ý đến
khối lượng thanh toán hay quy mô giao dịch lớn hay nhỏ cũng có ảnh hưởng
rất lớn đến việc lựa chọn phương tiện thanh toán nào để đảm bảo an toàn
nhất. Thứ ba, cần xem xét mức độ tín nhiệm giữa các bên tham gia cao hay
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
thấp. Thứ tư, cần tìm hiểu tập quán kinh doanh của mỗi nước để có sự lựa
chọn phương tiện thanh toán cho phù hợp. Sau đây là các phương tiện dùng
trong thanh toán quốc tế:
1.2.3.1 Hối phiếu ( Bill of Exchange )
+ Khái niệm và đặc tính của hối phiếu
Hối phiếu là phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc
tế. Hối phiếu là một bộ phận cấu thành quan trọng trong bộ chứng từ thanh
toán khi sử dụng phương thức thanh toán quốc tế như phương thức nhờ thu,
phương thức tín dụng chứng từ. Vì vậy, quá trình thiết lập, lưu thông và sử
dụng hối phiếu trong các nghiệp vụ có liên quan cần dựa trên những căn cứ
pháp lý cần thiết nhất định, nhằm hạn chế đến mức tối đa những bất đồng
cũng như những rủi ro có thể xảy ra đối với các bên.
Để thống nhất cách hiểu và sử dụng Hối phiếu có các văn bản mang tính
chất quốc tế như Công ước quốc tế ký năm 1930 tại Giơnevơ trong đó có luật
điều chỉnh về Hối phiếu (Uniform Law for Bill of Exchange – ULB), các
nước tham gia ký kết Công ước đã đi đến thống nhất dùng định nghĩa Hối
phiếu của Luật hối phiếu 1882 của nước Anh làm dẫn chiếu trong khái niệm
hối phiếu của luật ULB.
Theo đó: Hối phiếu là tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký
phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu, hoặc đến một
ngày cụ thể nhất định hoặc một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả
một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả
cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Trên cơ sở định nghĩa này chúng ta thấy hối phiếu có các đặc tính quan
trọng sau:
Thứ nhất, tính trừu tượng của hối phiếu thể hiện rằng trên hối phiếu
không cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức là nguyên nhân sinh ra việc
lập hối phiếu mà chỉ cần ghi số tiền phải trả và những nội dung có liên quan
đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng không bị ràng buộc do
nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu. Một khi được tách khỏi hợp đồng và nằm
trong tay người thứ ba thì hối phiếu trở thành một trái vụ độc lập, chứ không
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
phải là trái vụ sinh ra từ hợp đồng. Nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu
tượng.
Thứ hai, tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu thể hiện người trả tiền hối
phiếu phải trả theo đúng nội dung ghi trên phiếu và không được viện những lý
do riêng của mình đối với người phát phiếu, người ký hậu để từ chối việc trả
tiền, trừ trường hợp hối phiếu được lập trái với đạo luật chi phối nó. Ví dụ:
một người đặt hàng mua máy móc, sau khi ký hợp đồng đã chấp nhận trả tiền
vào tờ phiếu do người cung cấp hàng gửi đến, hối phiếu đó đã được chuyển
đến tay người thứ ba thì người đặt hàng bắt buộc phải trả tiền cho người cầm
phiếu này ngay cả trong trường hợp người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng
không giao hàng cho người mua.
Thứ ba, tính lưu thông của hối phiếu thể hiện hối phiếu có thể được
chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn của nó, bởi vì hối phiếu là
lệnh đòi tiền của một người này với người khác, hối phiếu có một trị giá tiền
nhất định, có một thời hạn nhất định, thời hạn này thường là ngắn và được
người trả tiền chấp nhận. Như vậy nhờ vào tính trừu tượng và tính bắt buộc
nghĩa vụ trả tiền mà hối phiếu có tính lưu thông.
+ Việc thành lập và lưu thông hối phiếu
Vì hối phiếu phải lưu hành nên nó phải có một hình thức nhất định để
người ta có thể dễ dàng phân biệt hối phiếu với các phương tiện thanh toán
khác. Hối phiếu thương mại là một văn bản xác nhận một trái vụ trả tiền có
tính chất thương mại, cho nên hối phiếu phải có một nội dung nhất định phù
hợp với luật lệ chi phối nó.
Thứ nhất, về mặt hình thức, hình thức của hối phiếu được quy định như
sau:
Hối phiếu phải làm thành văn bản. Hối phiếu nói, điện tín, điện thoại v.v đều
không có giá trị pháp lý.
Hình mẫu của hối phiếu ở Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước thống nhất
phát hành. Đối với các nước khác, hình mẫu của hối phiếu thương mại do tư
nhân tự định ra và tự phát hành. Hình mẫu của hối phiếu không quyết định giá
trị pháp lý của hối phiếu.
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Ngôn ngữ tạo lập hối phiếu là ngôn ngữ viết hoặc in sẵn, đánh máy sẵn, đánh
máy bằng một thứ tiếng nhất định và thống nhất. Tiếng Anh là tiếng thông
dụng của ngôn ngữ tạo lập hối phiếu. Một hối phiếu sẽ không có giá trị pháp
lý, nếu nó được tạo lập bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Những hối phiếu viết
bằng bút chì, bằng thứ mực dễ phai như mực đỏ đều trở thành vô giá trị.
Hối phiếu có thể lập thành một hay nhiều bản, mỗi bản đều đánh số thứ
tự, các bản đều có giá trị như nhau. Khi thanh toán, ngân hàng thường gửi hối
phiếu cho người trả tiền làm hai lần kế tiếp nhau đề phòng thất lạc, bản nào
đến trước thì sẽ được thanh toán trước, bản nào đến sau sẽ trở thành vô giá trị.
Vì vậy trên hối phiếu thường ghi câu “Sau khi nhìn thấy bản thứ nhất của hối
phiếu này (bản thứ hai có cùng nội dung và ngày tháng không trả tiền ..” ở
bản số một của hối phiếu. Bản số hai lại ghi “Sau khi nhìn thấy bản thứ hai
của hối phiếu này (bản thứ nhất có cùng nội dung và ngày tháng không trả
tiền)..”. Hối phiếu không có bản phụ.
Thứ hai, về mặt nội dung, theo Luật Thống nhất về Hối phiếu ban hành
theo Công ước Geneve 1930 (Uniform Law for Bill of Exchange - ULB),
một hối phiếu phải bao gồm 8 nội dung bắt buộc sau đây:
1. Tiêu đề của hối phiếu: Chữ Hối phiếu là tiêu đề của một hối phiếu,
thiếu tiêu đề này, hối phiếu sẽ trở thành vô giá trị. Ngôn ngữ của tiêu đề phải
cùng ngôn ngữ của toàn bộ nội dung hối phiếu.
2. Địa điểm và ngày ký phát hối phiếu: thông thường địa chỉ của người lập
hối phiếu là địa điểm ký phát phiếu. Hối phiếu được ký phát ở đâu thì lấy địa
điểm ký phát ở đó. Một hối phiếu không ghi rõ địa điểm ký phát, người ta cho
phép lấy địa chỉ bên cạnh tên của người ký phát làm địa điểm ký phát hối
phiếu. Nếu trên hối phiếu thiếu cả địa chỉ của người phát hành thì hối phiếu
đó vô giá trị. Ngày tháng ký phát hối phiếu có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định kỳ hạn trả tiền của hối phiếu có kỳ hạn nếu hối phiếu ghi rằng: “Sau
X ngày kể từ ngày ký phát hối phiếu này”. Ngày ký phát hối phiếu còn liên
quan đến khả năng thanh toán của hối phiếu. Ví dụ, nếu ngày ký phát hối
phiếu xảy ra sau ngày người có nghĩa vụ trả tiền hối phiếu mất khả năng
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
thanh toán như bị phá sản, bị đưa ra tòa, bị chết v.v.. thì khả năng thanh toán
hối phiếu đó không còn nữa.
3. Mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện một số tiền cụ thể: hối phiếu là một
mệnh lệnh đòi tiền, không phải là một yêu cầu đòi tiền. Việc trả tiền là vô
điều kiện, có nghĩa là trong hối phiếu không được viện lý do nào khác, trừ lý
do hối phiếu trái với luật hối phiếu, để quyết định có trả tiền hay không. Số
tiền của hối phiếu là một số tiền nhất định, tức là một số tiền được ghi một
cách đơn giản và rõ ràng, người ta có thể nhìn qua để biết được số tiền phải
trả là bao nhiêu, không cần qua các nghiệp vụ tính toán nào dù là đơn giản. Số
tiền được ghi có thể vừa bằng số vừa bằng chữ hoặc hoàn toàn bằng số hay
hoàn toàn bằng chữ. Số tiền của hối phiếu phải nhất trí với nhau trong cách
ghi. Trường hợp có sự chênh lệch giữa số tiền bằng số và số tiền bằng chữ thì
người ta thường căn cứ vào số tiền ghi bằng chữ. Trường hợp có sự chênh
lệch giữa số tiền toàn ghi bằng số hay toàn ghi bằng chữ thì người ta căn cứ
vào số tiền nhỏ hơn.
4. Thời hạn trả tiền của hối phiếu gồm có 2 loại: thời hạn trả tiền ngay và
thời hạn trả tiền sau. Cách ghi thời hạn trả tiền ngay thường là: “Ngay sau khi
nhìn thấy bản thứ .. của hối phiếu này ..” hoặc “Sau khi nhìn thấy bản thứ ..
của hối phiếu này ..”. Cách ghi thời hạn trả tiền sau thường có 3 cách:
Nếu mốc thời gian tính từ ngày chấp nhận hối phiếu thì ghi: “X ngày sau khi
nhìn thấy bản thứ .. của hối phiếu này ..”
Nếu thời hạn trả tiền tính từ ngày ký phát hối phiếu thì ghi: “X ngày kể từ
ngày ký bản ..của hối phiếu này ..”
Nếu thời hạn là một ngày cụ thể nhất định thì ghi: “Đến ngày .. của bản thứ ..
của hối phiếu này ..”. Trong 3 cách trên, cách thứ nhất thường được sử dụng
hơn cả.
Những cách ghi thời hạn trả tiền của hối phiếu mơ hồ, tối nghĩa khiến cho
người ta không thể xác định được thời hạn trả tiền là bao nhiêu hoặc nó biến
việc trả tiền của hối phiếu thành có điều kiện thì hối phiếu sẽ vô giá trị. Ví dụ
ghi: “Sau khi tàu biển cập cảng thì trả cho bản thứ .. của hối phiếu này” hoặc
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
“Sau khi hàng hóa đã được kiểm nghiệm xong .. thì trả cho bản thứ .. của hối
phiếu này ..”.
5. Địa điểm trả tiền của hối phiếu là địa điểm được ghi rõ trên hối phiếu.
Nếu hối phiếu không ghi rõ hoặc không ghi địa điểm trả tiền, người ta có thể
lấy địa chỉ ghi bên cạnh tên của người trả tiền là địa điểm trả tiền.
6. Người hưởng lợi quy định ở mặt trước của tờ hối phiếu, trước tiên là
người ký phát hối phiếu, hoặc có thể là người khác do người ký phát hối
phiếu chỉ định.
7. Người trả tiền hối phiếu được ghi rõ ở mặt trước, góc trái cuối cùng của
tờ hối phiếu, sau chữ “gửi..”
8. Người ký phát phiếu được ghi ở mặt trước, góc phải cuối cùng của tờ
phiếu. Cần đặc biệt chú ý là tất cả những người có liên quan được ghi trên tờ
hối phiếu phải ghi rõ đầy đủ tên, địa chỉ mà họ dùng để đăng ký hoạt động
kinh doanh. Người ký phát hối phiếu phải ký tên trên mặt trước, góc phải cuối
cùng của tờ hối phiếu đó. Người ký phát hối phiếu phải đăng ký mẫu chữ ký
với một cơ quan chuyên trách, không được phép ủy quyền cho người khác ký
thay mình trên hối phiếu. Chữ ký phải được ký bằng tay và không được đóng
dấu đè lên chữ ký.
Ngoài những nội dung bắt buộc nêu trên, hối phiếu còn có thể bao gồm
thêm những nội dung khác do hai bên thỏa thuận, miễn là các nội dung này
không làm sai lạc tính chất của hối phiếu do luật quy định.
+ Phân loại hối phiếu
*Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiếu làm
3 loại:
Hối phiếu trả tiền ngay: Người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do
người cầm phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
Hối phiếu trả tiền ngay sau một số ngày nhất định, thường là trả tiền sau
5-7 ngày: Người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cầm phiếu xuất
trình thì tiến hành ký chấp nhận trả tiền, sau đó từ 5 - 7 ngày thì trả tiền tờ hối
phiếu đó.
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Hối phiếu có kỳ hạn: Sau một thời gian nhất định ghi trên hối phiếu,
người trả tiền phải trả hoặc tính từ ngày ký phát hối phiếu hoặc tính từ ngày
chấp nhận hối phiếu hoặc từ một ngày quy định cụ thể.
*Căn cứ vào hối phiếu có kèm theo chứng từ hay không, có thể chia hối
phiếu làm 2 loại:
Hối phiếu trơn: Loại này được gửi đến đòi tiền người trả tiền không kèm
theo chứng từ thương mại. Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này dùng để
thu tiền cước phí vận chuyển, bảo hiểm, hoa hồng v.v.. hoặc dùng để đòi tiền
mua hàng của những thương nhân nhập khẩu tin cậy.
Hối phiếu kèm chứng từ: Loại hối phiếu này được gửi đến cho người
nhập khẩu có kèm chứng từ thương mại. Hối phiếu kèm chứng từ có hai loại:
Loại hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay và loại hối phiếu kèm chứng từ có
chấp nhận.
*Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu có thể chia hối phiếu
làm 2 loại:
Hối phiếu đích danh: Là loại hối phiếu ghi rõ hộ tên người hưởng lợi hối
phiếu không kèm theo điều khoản theo lệnh. Ví dụ: Hối phiếu ghi như sau
“Sau khi nhìn thấy hối phiếu này, trả cho ông X một số tiền là ..”. Hối phiếu
đích danh không chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hậu theo luật định.
Hối phiếu theo lệnh: Là loại hối phiếu ghi trả theo lệnh của người hưởng
lợi hối phiếu. Ví dụ ghi như sau: “Sau khi nhìn thấy hối phiếu này, trả theo
lệnh của ông X một số tiền là ..”. Hối phiếu theo lệnh chuyển nhượng được
theo hình thức ký hậu theo luật định. Nó được sử dụng rộng rãi trong thanh
toán quốc tế.
* Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, người ta chia hối phiếu làm 2 loại:
Hối phiếu thương mại là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát đòi tiền
người nhập khẩu trong nghiệp vụ về thanh toán hàng hóa xuất khẩu hoặc cung
cấp lao vụ lẫn nhau.
Hối phiếu ngân hàng là hối phiếu do ngân hàng phát hành ra lệnh cho
ngân hàng đại lý của mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng
lợi chỉ định trên hối phiếu.
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
1.2.3.2 Kỳ phiếu ( Promissory Note ) _ Lệnh phiếu
Kỳ phiếu là loại chứng từ, trong đó người ký phát cam kết sẽ trả một só
tiền nhất định vào một ngày nhất định cho người hưởng lợi được chỉ định trên
Kỳ phiếu hoặc theo lệnh của người hưởng lợi trả cho một người khác.
Như vậy, ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra để hứa cam
kết trả tiền cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán như vậy,
trong thanh toán quốc tế, kỳ phiếu ít thông dụng hơn hối phiếu.
Các điều mà luật dùng để điều chỉnh hối phiếu cũng được áp dụng tương
tự cho kỳ phiếu thương mại. Tuy nhiên, có một số đặc thù sau:
Thứ nhất, kỳ hạn kỳ phiếu được quy định rõ trên tờ lệnh này. Trên kỳ
phiếu phải ghi rõ ngày tháng năm sẽ trả tiền cho chủ nợ.
Thứ hai, một kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết
thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi.
Thứ ba, kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc Công ty tài
chính. Sự bảo lãnh này đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu. Bởi vì về
bản chất kỳ phiếu là do con nợ cam kết trả nợ, do vậy để đảm bảo cho lời cam
kết này, bắt buộc phải có sự bảo lãnh.
Thứ tư, hối phiếu thường gồm 2 bản, bản số 1 và số 2, kỳ phiếu chỉ có
một bản chính duy nhất do con nợ ký phát để chuyển cho người hưởng lợi kỳ
phiếu đó.
1.2.3.3 Séc ( Cheque )
+ Khái niệm: Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản
ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên
trong séc, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả cho người cầm séc một số
tiền nhất định bằng tiền mặt hay chuyển khoản.
Người có tiền mở tại ngân hàng một tài khoản, ngân hàng sẽ cấp cho
người gửi tiền một quyển séc. Mỗi lần muốn rút tiền ra thì lập một tờ séc đưa
đến ngân hàng để lĩnh tiền.
Séc là một phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong các nước
có hệ thống ngân hàng phát triển cao. Hiện nay séc là phương tiện chi trả
được dùng hầu như phổ biến trong thanh toán nội địa của tất cả các nước. Séc
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế về hàng hóa, cung cấp
lao vụ, du lịch và về các chi trả phi mậu dịch khác.
Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, do vậy nó phải có những
quy định về nội dung và hình thức theo luật định. Theo công ước Giơnevơ
năm 1931 được nhiều nước áp dụng, một tờ séc cần ghi đủ những điều sau
đây:
Tiêu đề của séc: Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì phải có tiêu
đề SÉC ghi trên tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi ngân hàng nhận được séc sẽ
phải chấp nhận vô điều kiện lệnh này, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc
không còn tiền hoặc tờ séc không đầy đủ tính chất pháp lý.
Địa điểm và ngày tháng năm phát hành séc: Đây là một yếu tố quan
trọng để xác định thời hạn thanh toán của tờ séc cũng như là căn cứ để giải
quyết các tranh chấp nếu có xảy ra giữa các bên liên quan đến séc.
Số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải vừa ghi bằng số vừa ghi bằng chữ
khớp nhau, có ký hiệu tiền tệ.
Tên địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản được trích trả,
ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ của người hưởng số tiền trên séc, chữ ký của
người phát hành séc. Nếu là tổ chức thì phải có chữ ký của chủ tài khoản, kế
toán trưởng và dấu của tổ chức đó (nếu có).
Các yếu tố trên đây phải được ghi rõ ràng, chính xác tuyệt đối, không tẩy
xóa và phải được ghi cùng một loại chữ, một thứ mực, không được ghi bằng
mực đỏ. Điều cơ bản trong phát hành séc là người phát hành séc phải có tiền
trên tài khoản mở tại ngân hàng, số tiền trên tờ séc không vượt quá số dư có
trên tài khoản ở ngân hàng. Séc có thể phát hành để trả tiền cho một tổ chức,
một cá nhân hoặc nhiều người, séc cũng có thể do một ngân hàng này phát
hành trả tiền cho một ngân hàng khác.
Séc thường được in sẵn theo mẫu có những dòng để trống để người phát
hành séc điền vào.
Ngày nay, rất nhiều ngân hàng trên thế giới dùng máy in nhiều màu số
tiền, ký hiệu tiền, số tiền bằng số, bằng chữ lên chỗ trống của tờ séc.
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ
hoặc thanh toán nếu thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại.
Thời hạn hiệu lực của tờ séc được ghi rõ trên tờ séc và tùy thuộc vào phạm vi
không gian mà séc lưu hành và luật pháp các nước quy định. Nói chung séc
lưu hành trong nội địa thời gian ngắn hơn lưu hành trong thanh toán quốc tế.
Séc trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực là 8 ngày làm việc kể từ ngày phát
hành séc, nếu là séc lưu hành trong nước, thời hạn hiệu lực là 20 ngày làm
việc nếu lưu thông ngoài nước trong cùng một châu, là 70 ngày nếu séc được
trả ở một nước không cùng châu. Qúa thời hạn trên nếu séc không quay trở lại
ngân hàng thì séc sẽ mất hiệu lực. Đối với séc du lịch thì không quy định thời
hạn hiệu lực. Ở Việt Nam, thời hạn thanh toán séc là 15 ngày kể từ ngày ký
phát séc.
+ Những người liên quan đến séc
Những người liên quan đến việc phát hành và sử dụng séc thường bao
gồm ngưới ký phát séc, người hưởng lợi séc và ngân hàng thanh toán séc.
Người phát ra séc để trả nợ gọi là người phát hành séc. Ngân hàng thanh toán
là người trả tiền cho người hưởng lợi tờ séc. Người nhận tiền là người hưởng
lợi tờ séc.
Sau khi séc được phát hành, người có quyền hưởng lợi tờ séc gọi là người
cầm séc. Séc có thể chuyển nhượng cho nhiều người liên tiếp bằng phương
pháp ký hậu trong thời hạn hiệu lực của séc.
Ký hậu có 2 ý nghĩa. Thứ nhất, ký hậu chứng nhận việc chuyển giao
quyền hưởng séc cho một người khác. Thứ hai, ký hậu xác nhận trách nhiệm
của người chuyển nhượng đối với tất cả những người cầm giữ tờ séc sau đó
về việc trả tiền đối với tờ séc. Tuy nhiên người chuyển nhượng séc có thể
thoái thác trách nhiệm này bằng cách ghi thêm một điều kiện về bảo lưu cùng
với chữ ký hậu “không được truy đòi”. Việc ký hậu séc chỉ được thực hiện
đối với loại séc theo lệnh.
+ Phân loại séc
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
Có thể phân loại séc theo nhiều tiêu chí khác nhau. Thông thường séc
được phân loại dựa trên tính chất chuyển nhượng của nó, căn cứ vào cách
thanh toán séc và căn cứ vào người phát hành séc.
* Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng séc được chia làm 4 loại sau đây:
Séc ghi tên là loại séc ghi rõ họ tên người hưởng lợi. Loại séc này không
thể chuyển nhượng bằng thủ tục ký hậu, chỉ có người hưởng lợi được ghi trên
séc mới được lĩnh tiền ở ngân hàng.
Séc vô danh là loại séc không ghi tên người hưởng lợi, chỉ ghi câu “trả cho
người cầm séc”. Bất cứ ai cầm séc này cũng có htể lĩnh tiền ở ngân hàng, vì
vậy không cần qua thủ tục ký hậu séc vẫn có thể chuyển nhượng bằng hình
thức trao tay. Nếu để mất séc coi như mất tiền. Loại này dùng để nhận tiền
mặt.
Séc theo lệnh là loại séc ghi trả theo lệnh của người hưởng lợi ghi trên tờ
séc đó. Trên tờ séc ghi “yêu cầu trả theo lệnh của ông X”. Loại này có thể
chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hậu như cách ký hậu của hối phiếu.
Séc theo lệnh nhưng không được chuyển nhượng bằng cách ký hậu là loại
séc có ghi tên người hưởng lợi nhưng ghi thêm điều kiện là không theo lệnh
của người hưởng lợi này. đối với loại séc này, việc chuyển giao cho người
khác phải thông qua xác nhận chuyển nhượng bằng một văn bản kèm theo.
* Căn cứ vào cách thanh toán séc có thể chia làm hai loại:
Séc chuyển khoản là loại séc mà người ký phát séc ra lệnh cho ngân hàng
trích tiền từ tài khoản của mình để chuyển trả sang một tài khoản khác của
một người khác trong hoặc khác ngân hàng. Séc chuyển khoản không thể
chuyển nhượng được và không thể lĩnh tiền mặt được.
Séc tiền mặt: là loại séc mà ngân hàng thanh toán sẽ trả tiền mặt và người
phát hành séc phải chịu rủi ro khi bị mất séc hoặc bị đánh cắp. Người cầm séc
không cần sự ủy quyền cũng lĩnh được tiền.
* Căn cứ vào người phát hành séc được chia làm hai loại:
Séc cá nhân: được sử dụng để nhận tiền tại ngân hàng của nhà nhập khẩu.
Thuận lợi cơ bản đối với người nhập khẩu là họ được hưởng lợi cho đến khi
séc xuất trình tại ngân hàng của nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
này nhà nhập khẩu cũng phải chịu rủi ro khi tỷ giá ngoại tệ tăng. Tuy nhiên
séc loại này không được an toàn khi sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Séc bảo chi của ngân hàng hay séc xác nhận: Loại séc này bảo đảm an
toàn hơn trong thanh toán quốc tế và sử dụng thuận lợi hơn.
Ngoài ba cách phân loại séc nêu trên, còn có các loại séc đặc biệt như séc
du lịch, séc gạch chéo, séc tài khoản của người hưởng lợi.
Séc du lịch là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất cứ
một chi nhánh hay đại lý của ngân hàng đó. Ngân hàng phát séc đồng thời
cũng là ngân hàng trả tiền. Người hưởng lợi là khách du lịch có tiền tại ngân
hàng phát séc. Trên séc du lịch phải có chữ ký của người hưởng lợi. Khi lĩnh
tiền tại ngân hàng được chỉ định, người hưởng lợi phải ký tại chỗ để ngân
hàng kiểm tra, nếu đúng, ngân hàng mới trả tiền. Thời gian của séc du lịch có
hiệu lực do ngân hàng phát séc và người hưởng lợi thỏa thuận, có thể có hạn
và có thể vô hạn. Trên séc du lịch có ghi rõ khu vực các ngân hàng trả tiền,
ngoài khu vực đó, séc không có giá trị lĩnh tiền.
1.2.3.4 Thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là loại phương tiện chi trả hiện đại, xuất hiện với tư cách
là phương tiện thanh toán lần đầu tiên tại Mỹ vào năm 1914. Tuy nhiên, nó
chỉ được sử dụng rộng rãi vào những năm 1950. Và vào khoảng những năm
1960, thẻ thanh toán đã dần dần thâm nhập vào cuộc sống dân của cư tại các
nước Châu Âu và ngày nay nó đã phát triển rộng rãi, trở thành phương tiện
thông dụng trên thế giới.
+ Khái niệm: Thẻ thanh toán (hay thẻ chi trả, thẻ giao dịch) là một phương
tiện thanh toán mà người sở hữu thể có thể dùng để thanh toán rút tiền tự động
thông qua máy đọc thẻ được lắp đặt ở các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ hay
ở các máy rút tiền tự động lắp đặt nơi công cộng.
Hầu hết các loại thẻ quốc tế hiện nay đều bằng nhựa cứng có hình chữ
nhật chung một kích cỡ 96mm x 54mm x 0,76mm, có góc tròn gồm 2 mặt.
+ Phân loại thẻ
Thẻ thanh toán có thể được phân loại theo nhiều cáhc khác nhau. Dưới
đây trình bày ba chách phân loại thẻ chủ yếu.
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS.Đàm Văn Huệ
* Căn cứ vào công nghệ sản xuất có 3 loại thẻ thanh toán sau:
Thẻ khắc chữ nổi (Embossed card): trên bề mặt thẻ được khắc chữ nổi.
Hiện nay người ta không còn dùng nữa vì dễ làm giả.
Thẻ băng từ (Magneic stripe): được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với
2 băng từ chứa thông tin ở mặt sau của thẻ. Loại này đã dùng phổ biến trong
vòng 20 năm nay, nhưng đã thể hiện một số nhược điểm như khả năng bị lợi
dụng cao do thông tin ghi trên thẻ không được mã hóa, có thể đọc được dễ
dàng, thẻ chỉ mang một lượng thông tin hạn chế không áp dụng được kỹ thuật
mã.
Do những nhược điểm này mà thẻ bị lợi dụng lấy cắp tiền.
Thẻ thông minh (Smart card): đây là thế hệ thẻ mới nhất dựa trên kỹ
thuật xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ một "chip" điện tử có cấu trúc như một
máy tính hoàn hảo, do đó ghi được nhiều thông tin hơn và an toàn hơn.
* Căn cứ vào chủ thể phát hành thẻ được chia làm 2 loại:
Thẻ do ngân hàng phát hành: thẻ này do ngân hàng phát hành giúp cho
khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng
một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng. Nó hiện đang được sử dụng rộng rãi
nhất hiện nay và nó có thể lưu hành trên toàn cầu.
Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: đó là thẻ du lịch, giải trí
của các tập đoàn kinh doanh lớn, các cửa hiệu kinh doanh lớn phát hành như
Diners club, Amex ...
* Căn cứ vào tính chất thanh toán thẻ được chia làm 3 loại:
Thẻ tín dụng (Credit card): được sử dụng phổ biến nhất. Chủ thẻ được
phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm tại những
cơ sở kinh doanh chấp nhận loại thẻ này.
Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền
với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi dùng để mua hàng sẽ được khấu trừ
ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại
các có sở kinh doanh. Thẻ ghi nợ còn dùng để rút tiền ở máy tự động. Nó
không có mức hạn mức tín dụng vì phụ thuộc vào số dư hiện hữu trên tài
khoản của chủ thẻ.
25