HOẠ SĨ HOÀNG TÍCH CHÙ (1912 - 2003) GIẢI THƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
Hoạ sĩ Hoàng Tích Chù sinh ngày mùng 1 tết Nhâm Tý (18 tháng 2 năm 1912) tại
Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh, mất ngày 25 tháng 9 năm Quý Mùi (22/10/2003),
thọ 93 tuổi. Ông sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Bố là
Hoàng Tích Phụng - nhà nho đã đỗ tú tài, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa
Thục, sau làm Tri huyện, về hưu sớm, mất năm 1940 (73 tuổi). Mẹ là bà Lê Thị
Miên - bần nông, nội trợ, mất năm 1964 (83 tuổi). Năm hơn 10 tuổi, ông ra Hà Nội
ở với người họ hàng để trọ học. Năm 20 tuổi làm cho một ban kịch để lấy tiền học
vẽ. Sau khi diễn vở Con mèo đen ông không được nhà trường cho học tiếp.
Năm 24 tuổi ông vào học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá
11(1936 – 1941), cùng học với ông có các hoạ sĩ Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn
Văn Tỵ, Bùi Trang Chước, nhà điêu khắc Trần Văn Lắm… Khi học năm thứ 2 ông
nhận được giải thưởng đi vẽ ở Campuchia. Ba tháng ở Campuchia ông đã sáng tác
được nhiều tác phẩm về di tích Ăngco, sư sãi, con người cảnh vật của đất nước
Campuchia tại Phnôngpênh, Xiêm Riệp và tham gia trưng bày một triển lãm cùng
với hoạ sĩ Bùi Trang Chước, Nguyễn Văn Huệ, tác phẩm trưng bày tại triển lãm
của ông đã đoạt được giải thưởng Ăngco.
Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông mở xưởng vẽ sơn
mài ở Hà Nội và năm 1943 ông tham gia triển lãm Salon Unique (Duy nhất) và
triển lãm FARTA, một tổ chức của các hoạ sĩ Việt Nam có tinh thần dân tộc với
biểu trưng Ngôi đình – mái nhà chung của người hoạ sĩ Việt Nam; sáng tác tác
phẩm Cảnh chùa Thầy – bình phong sơn mài -1943 hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam. Trong thời gian đi học, ông đã tham gia hoạt động cách mạng
ngay từ thời kỳ Mặt trận bình dân trong Hội truyền bá quốc ngữ, làm công tác trí
thức vận và công vận đỏ ở xưởng in (theo tự thuật của ông, thời gian này ông đã
tham gia Đảng cộng sản Đông Dương năm 1936 và lần thứ hai năm 1941).
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội, tiếp đó là
ở nhiều tỉnh thành khác trong cả nước. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Trong những ngày sôi sục khí thế cách mạng, Hội Văn hoá
cứu quốc Việt Nam đã tổ chức Triển lãm Văn hoá tại Nhà Khai trí Tiến Đức (nay
là số nhà 16 Lê Thái Tổ, Hà Nội). Tại triển lãm này ông đã trưng bày tác phẩm
Hoa đăng - sơn dầu, vẽ bốn cô gái Hà Nội với những chiếc đèn lồng, đang vui
mừng, phấn khởi chuẩn bị ngày lễ độc lập, nhà sưu tập Đức Minh đã sưu tập tác
phẩm này. ông tham gia Hội Văn hoá cứu quốc và sáng tác tranh cổ động Độc lập
hay là chết . Nhân dịp kỷ niệm một năm ngày thành lập Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tháng 8/1946 ông gửi tác phẩm Nữ sinh cắp tráp và Vịnh Hạ Long đến
tham dự Triển lãm Mỹ thuật tháng Tám. Tại triển lãm này ông đoạt được Giải
thưởng Chính phủ (1000đ) cùng với hoạ sĩ Trần Văn Cẩn và nhà điêu khắc Nguyễn
Thị Kim
Năm 1946 ông cùng với hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Tỵ được
Nhà nước giao thành lập Trường cao đẳng Mỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Nhưng một thời gian ngắn sau đó toàn quốc kháng chiến bùng
nổ, ông cùng nhiều văn nghệ sĩ khác lên Việt Bắc ở khu 12, làm trong xưởng tranh
khắc mộc, ban kịch Phương Đông, vào Vệ Quốc đoàn. Nhưng để tập trung vào
công tác mỹ thuật nên cuối năm đó ông đã chuyển ra ngoài quân đội. Ông vẽ tranh
cho Uỷ ban kháng chiến hành chính khu 12, phụ trách các lớp học vẽ và xưởng vẽ
tuyên truyền.
Năm 1949 ông theo bạn vào Hà Nội làm công việc. Theo ông Nguyễn Bắc cán bộ
hoạt động bí mật nội thành Hà Nội, nguyên Giám đốc Sở Văn hoá Hà Nội thì “năm
1951, thực dân Pháp và chính quyền ‘quốc gia’ mời các anh Lương Xuân Nhị,
Nguyễn Tiến Chung lập lại Trường Mỹ thuật ở phố Yết Kiêu nhưng các anh đều từ
chối, các anh mở lớp dạy vẽ Trí
Tri ở Phố Hàng Quạt”, vẽ thuê cho Sở Canh Nông, vẽ các nong tằm, sau đó đi dạy
vẽ ở các trường phổ thông cấp 1. Năm 1950 họa sĩ Hoàng Tích Chù công tác tại Ty
văn hoá thông tin Bắc Ninh. Năm 1951 ông vào Hà Nội để hoạt động bí mật ở nội
thành, ngày 1 tháng 5 năm 1952 ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam
do đồng chí Nguyễn Bắc và đồng chí Nguyễn Bích (sau này công tác ở Sở giáo dục
Thái Nguyên) giới thiệu. Ngày 1 tháng 5 năm 1953 được công nhận là Đảng viên
chính thức. Ngày 23 tháng 4 năm 1953, ông bị địch bắt tại nhà và tra tấn rất dã
man, nhưng ông vẫn giữ được lòng trung thành của mình, không khai báo nên cuối
năm đó địch phải thả tự do cho ông. Mặc dù bị quản thúc nhưng ông vẫn liên lạc
được với Đảng và hoạt động cho đến ngày giải phóng.
Hoà bình lập lại năm 1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, ông cùng với hoạ sĩ
Huỳnh Văn Thuận vẽ chân dung Bác Hồ treo ở Nhà hát lớn. Năm 1955 ông trang
trí sân khấu cho Đại hội văn công toàn quốc lần thứ V do Hội Văn nghệ Việt Nam
tổ chức và đã đoạt được giải Nhất. Tháng 9, ông được cử đi dự đại hội Liên hoan
Thanh Niên Thế giới Vác- sô-vi (Ba Lan), được bằng khen trong triển lãm đồ hoạ
ở Ba Lan và ở CHDC Đức, đi giao lưu văn hoá với các nước còn lại Liên Xô,
Trung Quốc.
Năm 1956 ông về làm công tác giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam
(nay là Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam), sau đó làm Chủ nhiệm khoa sơn mài
(1965- 1966), kiêm trưởng phòng giáo vụ hệ Cao đẳng. Thời gian này, ngoài việc
đào tạo nhiều sinh viên trong nước, ông đã tham gia đào tạo nhiều sinh viên nước
ngoài như Trung Quốc, Bungari, Inđônêxia học khoa sơn mài tại trường. Là một
hoạ sĩ có tài, ông đã tận tình giảng dạy cho sinh viên và rất được sinh viên yêu quý.
Nhiều học trò của ông sau này đã trở thành những hoạ sĩ nổi tiếng … Năm 1957,
ông là một trong 108 đại biểu tham dự Đại hội lần thứ nhất thành lập Hội Mỹ thuật
Việt Nam tại Hà Nội. Năm 1960 ông phụ trách trang trí Hội trường Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ III và được cử đi dự Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Năm 1961 hoạ sĩ Hoàng Tích Chù, khoa sơn mài đưa hai lớp Cao đẳng đi Hợp tác
xã Đại Phong (Quảng Bình), đoàn gồm Dân Tuấn, Trọng Cát, Thanh Ngọc, Ngọc
Thọ, Đỗ Hữu Huề. Tại đây ông vẽ tranh sơn dầu, “bên con hói” (sông đào) Đại
Phong. Năm 1962, Hoàng Tích Chù lại đưa học sinh đi Cao Bằng lấy tài liệu làm
bài thi tốt nghiệp.
Vào cuối những năm 1950, sau khi hòa bình được lập lại ở Miền Bắc, nhiều hoạ sỹ
đã tập trung nghiên cứu và sáng tác tranh sơn mài, có thể coi đây là một thời kỳ nở
rộ của nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Tác phẩm của các tác giả sáng tác thời kỳ này
đã tham gia các triển lãm mỹ thuật lớn trong nước và nước ngoài. Hoạ sĩ Hoàng
Tích Chù đã sáng tác nhiều tranh sơn mài, sơn dầu tham gia các triển lãm. Tại triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958 ông đã trưng bày bốn tác phẩm : trong có tác
phẩm sơn mài Tổ đổi công cấy lúa (100 x 70) sáng tác 1958; và ba tác phẩm sơn
dầu sáng tác năm 1957: Dốc bản Cang (60 x 50 ), Núi Na Bun (Đồng Mỏ) (73 x
60), Sinh hoạt bản Cang (61 x 47). Tại triển lãm 12 nước XHCN ở Mát xơ cơ va
1958 - 1959 và các nước xã hội chủ nghĩa anh em ở Đông Âu 1959 - 1960 ông đã
được chọn trưng bày ba tác phẩm: Tổ đổi công cấy lúa, Sinh hoạt bản Cang và tác
phẩm Người đánh giặc - Người gặt chiêm vẽ trên giấy điệp. Tại triển lãm Mỹ thuật
Việt Nam năm 1960 chào mừng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 15 tuổi và Đại
hội lần thứ ba của Đảng, hoạ sĩ Hoàng Tích Chù đã trưng bày tác phẩm sơn mài
Tập đoàn sửa chữa ô tô (85 x 120) sáng tác năm 1959. Tác phẩm Tổ đổi công cấy
lúa là hình ảnh mà ông đã ghi chép được khi đưa học sinh đi thực tập ở Hoà Bình.
Tác phẩm này không những đã dự các triển lãm mỹ thuật nói trên mà còn được gửi
đi dự triển lãm Mỹ thuật Quốc tế tại ấn Độ và đã giành được giải Nhất.
Từ tác phẩm bình phong Cảnh chùa Thầy năm 1943 thể hiện theo lối trang trí và
màu sắc sơn mài truyền thống: then, cánh gián, vàng, bạc thì đến bức Tổ đổi công
cấy lúa, hoạ sĩ Hoàng Tích Chù đã tìm một gam màu mới gần với thiên nhiên, hiện
thực mà chất liệu sơn mài thời kỳ đó đang thử nghiệm. Ta thấy ở tác phẩm nền trời
màu lam nhẹ trong vắt có vài đám mây trắng, khóm tre nhuộm ánh vàng, núi và
nước màu ghi xanh phản chiếu nền trời, các cô gái Thái cấy lúa, người mặc áo
xanh, người mặc áo trắng hoà cùng khung cảnh đồi núi trùng điệp.
Cuối những năm sáu mươi đầu năm bảy mươi, hoạ sĩ Hoàng Tích Chù đã sáng tác
nhiều tác phẩm sơn mài: Cấy lúa (lưu trữ ở Bảo tàng Phương Đông, Liên Xô); Bác
Hồ trồng cây với các cháu thiếu nhi (lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam),
Đêm hậu cứ (165 x 89) - 1966, Bác Hồ vui tết Trung thu (lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ
thuật), Gặt lúa giúp dân; Mùa gặt - 1970, Giã gạo (50 x 40) - 1972, ngoài ra ông
còn sáng tác các tác phẩm bằng chất liệu khác: Thiếu nữ và tranh dân gian - sơn
dầu, Ra bãi tập - khắc gỗ màu.
Cuối năm 1969 Viện Mỹ nghệ dân gian Hà Nội ra đời, ông được cử phụ trách Viện
kiêm Bí thư chi bộ. Đến năm 1971 ông chính thức được cử làm Viện trưởng. Năm
1972, được cử đi khảo sát Triển lãm Mỹ thuật công nghiệp ở Trung Quốc. Năm
1976 ông về nghỉ hưu. Năm 1976 - 1977 ông vào TP. Hồ Chí Minh cùng người
con gái và giải quyết việc xác nhận ông hoạt động ở thời kỳ trước cách mạng và
thời kỳ tạm chiếm ở Hà Nội sau đó lại trở về Hà Nội ở tại số nhà 13 phố 225 (nay
là phố Nguyễn Như Đổ), Đống Đa, Hà Nội là nơi ông đã sống và sáng tác nhiều
năm.
Từ sau ngày nghỉ hưu và sống với con cháu ở miền Nam, ông đã sáng tác nhiều tác
phẩm mới với phong cách khoẻ khoắn, trẻ trung như: Mừng sinh nhật - sơn
dầu(100 x 75) - 1977 dự triển lãm các hoạ sĩ cao tuổi, Tuổi trẻ - sơn dầu -1980,
Phố cổ - sơn mài -1980, Xóm ngoại thành - sơn dầu đã nhận được giải B tại Triển
lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 1986, Bác Hồ đi công tác - 1987, Tiếng hát hoà bình
trên các vì sao - sơn mài (120 x 90) - 1990 dự triển lãm Mỹ thuật Thủ đô và được
tặng giải nhất. Năm 1990 ông được nhận giải thưởng Thăng Long của Hội Liên
hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội (5 năm một lần) cho các tác phẩm Tiếng hát hoà
bình, Giã gạo, Xóm ngoại thành; tác phẩm Nhịp điệu - sơn mài được giải Nhì Triển
lãm Mỹ thuật Thủ đô. Một loạt tác phẩm sơn mài khác được ông sáng tác sau đó
như: Vụ mùa, Sau trận chiến, Ngày Chủ nhật; Tiếng đàn trong vũ trụ - 1991; Đuổi
nghé, Hành quân mưa - sơn mài 1998; Giặc đốt làng tôi - sơn mài -1999. Tại Triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1995, từ TP. Hồ Chí Minh ông đã gửi hai tác phẩm
sơn mài tham dự đó là Nhịp điệu (80 x 55) và Tiếng hát hoà bình trên các vì sao
(120 x 90).
Có thể nói hoạ sĩ Hoàng Tích Chù là một trong những người khởi đầu cho nền
nghệ thuật hội hoạ sơn mài Việt Nam từ những năm ông còn học ở Trường Cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dương và tình yêu đối với nghệ thuật sơn mài đã theo đuổi
ông suốt cuộc đời. Những sáng tạo trong nghệ thuật hội hoạ sơn mài truyền thống
Việt Nam trong việc cách tân sử dụng màu sắc, bố cục và phản ánh cuộc sống con
người Việt Nam, ông là một trong số ít các tác giả được ghi nhận và nổi tiếng ở thể
loại tranh sơn mài.
Hoạ sĩ Hoàng Tích Chù đã nhận được những giải thưởng lớn như: Giải Ba triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958 và 1960, Giải Nhất trang trí sân khấu năm 1955
và Bằng khen của triển lãm 27 nước tại ấn Độ, Bằng khen triển lãm đồ hoạ tại Ba
Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật
Hà Nội 1986- 1990 và nhiều giải thưởng mỹ thuật khác. Ông đã được Đảng và Nhà
nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất (1983), Huân chương Kháng
chiến hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 40
năm tuổi Đảng, Huy hiệu Hồ Chí Minh.